Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.47 KB, 43 trang )

NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI
GIỚI TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Những khái niệm chung về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm công ty chứng khoán
1.1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế hiện đại, thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt
động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn, diễn ra trên thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và
phân phối các nguồn vốn tiết kiệm; và là định chế tài chính trực tiếp, cả chủ thể
cung và cầu vốn đều tham gia trực tiếp vào thị trường.
Về bản chất, thị trường chứng khoán là quá trình vận động của tư bản tiền
tệ, có thể nói thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư
bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường chứng
khoán là một bộ phận chủ yếu của thị trường tài chính, có vai trò quan trọng đối
với quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế thị trường.
Tham gia thị trường chứng khoán có các chủ thể:
• Nhà phát hành, bao gồm chính phủ và chính quyền địa phương,
công ty, và các tổ chức tài chính.
• Nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức
• Các tổ chức kinh doanh, bao gồm công ty chứng khoán và các ngân
hàng thương mại
• Các tổ chức có liên quan, bao gồm cơ quan quản lý Nhà nước, Sở
giao dịch chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán, v.v...
Sự tham gia của các chủ thể trên vào thị trường chứng khoán như thế nào
là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển thị trường.
Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài
hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng
khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một cách có trật
tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra dời và hoạt động của các công ty
chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các


nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
Ở Việt Nam, theo Luật chứng khoán 2006, công ty chứng khoán là công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
cấp Giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực chứng khoán, có
tư cách pháp nhân, có vốn riêng và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
Như vậy công ty chứng khoán thực chất là một doanh nghiệp kinh doanh chứng
khoán với các nghiệp vụ chính: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn
và quản lý danh mục đầu tư.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhiều nền
kinh tế coi công ty chứng khoán là hạt nhân của ngành công nghiệp chứng
khoán, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia.
1.1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán
Có nhiều tiêu thức để phân loại công ty chứng khoán, một tiêu thức chủ
yếu được sử dụng là phân loại theo loại hình kinh doanh. Theo đó, công ty
chứng khoán được chia thành 5 loại:
• Công ty môi giới: là công ty chứng khoán chỉ thực hiện việc trung
gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao
dịch chứng khoán để hưởng hoa hồng.
• Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng khoán
hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí
hoặc chênh lệch giá.
• Công ty kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ yếu
thực hiện nghiệp vụ tự doanh, tự bỏ vốn kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
• Công ty trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các
loại trái phiếu.
• Công ty chứng khoán phi tập trung: là công ty chứng khoán chủ
yếu mua bán chứng khoán trên thị trường OTC, đóng vai trò là các
nhà tạo lập thị trường.

Mỗi loại hình công ty chứng khoán có những đặc điểm, cơ cấu, nghiệp
vụ... khác nhau, nhưng đều chung vai trò quan trọng là duy trì và thúc đẩy hoạt
động của thị trường chứng khoán.
1.1.2 Vai trò của công ty chứng khoán
Trên thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán có vai trò đặc biệt,
vừa là nhà đầu tư tham gia trực tiếp vào thị trường, vừa là cầu nối giữa nhà phát
hành và những nhà đầu tư khác, cung cấp những dịch vụ cần thiết phục vụ hoạt
động của thị trường. Sự có mặt của công ty chứng khoán là không thể thiếu trên
cả thị trường tập trung hay phi tập trung.
Dựa trên các hoạt động của mình, công ty chứng khoán có những vai trò
chính như sau:
1.1.2.1 Vai trò huy động vốn
Mục tiêu khi tham gia thị trường chứng khoán của các tổ chức phát hành
là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Đó là vai trò của công
ty chứng khoán, với tư cách là trung gian tài chính, thông qua hoạt động bảo
lãnh phát hành và môi giới chứng khoán.
Vai trò huy động vốn, nói một cách đơn giản, là vai trò làm cầu nối, đồng
thời là kênh dẫn vốn chảy từ một hay một vài bộ phận của nền kinh tế có dư
thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu cần
huy động vốn.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là
nguyên tắc trung gian, yêu cầu các nhà đầu tư và nhà phát hành phải giao dịch
chứng khoán thông qua các trung gian mua bán, là công ty chứng khoán. Công
ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị
trường chứng khoán.
1.1.2.2 Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả
Vai trò này của công ty chứng khoán thể hiện đối với cả nhà đầu tư và thị
trường chứng khoán.
Đối với nhà đầu tư, công ty chứng khoán cung cấp cơ chế giá cả nhằm
giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác giá trị khoản đầu

tư của mình. Giá cổ phiếu và thông tin tài chính của các công ty được niêm yết
hàng ngày trên các báo tài chính, điều này giúp nhà đầu tư tiết kiệm phần nào
chi phí, thời gian và công sức tìm hiểu thông tin.
Đối với thị trường, công ty chứng khoán có sự can thiệp nhất định, góp
phần tạo lập giá cả, thông qua hình thức đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, công ty
chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên; vì vậy giá cả
của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công ty
chứng khoán. Ngoài ra, công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi
tham gia điều tiết thị trường. Theo quy định của các nước, công ty chứng khoán
bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để thực hiện vai
trò bình ổn thị trường, mua vào khi thị trường sụt giảm và bán ra khi thị trường
phát triển nóng.
1.1.2.3 Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt
Công ty chứng khoán đảm nhận chức năng chuyển đổi tiền mặt thành
chứng khoán có giá và ngược lại, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất
khi tiến hành đầu tư. Điều này hạn chế rủi ro của việc giá trị khoản đầu tư có thể
bị giảm đi do các nhân tố tác động.
Ngoài ra, công ty chứng khoán còn góp phần làm tăng tính thanh khoản
của tài sản tài chính. Đây là một vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán
mà công ty chứng khoán là người thực hiện, vì nó tạo ra cơ chế giao dịch trên
thị trường. Cả trên thị trường sơ cấp thông qua việc bảo lãnh phát hành, lẫn trên
thị trường thứ cấp thông qua cơ chế chuyển đổi tiền mặt, những hoạt động của
công ty chứng khoán đều làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính,
làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư.
1.1.2.4 Thực hiện tư vấn đầu tư
Do công ty chứng khoán có sự chuyên sâu về trình độ, nghiệp vụ chuyên
môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, bộ máy tổ chức... nên ngoài việc thực hiện yêu
cầu khách hàng, công ty còn tham gia vào các dịch vụ tư vấn khác nhau, thông
qua việc nghiên cứu thị trường, phân tích thông tin và cung cấp những phân tích
đó cho các nhà đầu tư, giúp họ có những quyết định giao dịch chính xác hơn,

đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức cho nhà đầu tư nếu họ phải tự phân tích
thị trường.
1.1.2.5 Tạo ra các sản phẩm mới
Khi thực hiện các chức năng của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo
ra sản phẩm. Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với
tốc độ rất nhanh do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của
các công ty chứng khoán.
Ngoài cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu, các công ty chứng
khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ trung ương và địa phương, chứng
quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn (điều này ở
Việt Nam chưa có) và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi
trên thị trường và môi trường kinh tế.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư,
các nhà phát hành, đối với cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường
chứng khoán nói chung. Để đảm bảo vai trò này, cần có sự xác định mô hình, tổ
chức công ty để từ đó xác định các hình thức kinh doanh cũng như biện pháp
quản lý công ty chứng khoán phù hợp.
1.1.3 Mô hình, tổ chức của công ty chứng khoán
1.1.3.1 Mô hình công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp so với các
doanh nghiệp sản xuất và thương mại thông thường, vì vậy việc xác định mô
hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán cũng có nhiều điểm khác
nhau. Tuy nhiên có thể khái quát mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng
khoán theo hai nhóm: mô hình công ty chứng khoán đa năng, và mô hình công
ty chứng khoán chuyên doanh.
a) Mô hình công ty chứng khoán đa năng
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một
tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động

với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức:
• Mô hình đa năng một phần: còn được gọi là mô hình ngân hàng
kiểu Anh, theo đó các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm phải thành lập công ty con, hạch toán độc lập
và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
• Mô hình đa năng hoàn toàn: còn được gọi là mô hình ngân hàng
kiểu Đức, theo đó các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tiền tệ và các dịch
vụ tài chính khác.
Ưu điểm của mô hình đa năng là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực
kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả
năng chịu đựng những biến động của thị trường chứng khoán. Mặt khác, ngân
hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng
khoán.
Tuy nhiên, mô hình cũng có những hạn chế không giải quyết được. Khi
kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, sự chuyên môn hoá sẽ không sâu. Thị
trường cổ phiếu khó phát triển vì các ngân hàng thường cho vay hơn là bảo lãnh
phát hành. Ngoài ra, hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng khoán khó tách
bạch rõ ràng, trong điều kiện môi trường pháp luật chưa thoả đáng dễ gây nên
tình trạng lũng đoạn thị trường. Các nguồn vốn cũng không có sự tách biệt cần
thiết giữa tiền tiết kiệm dân cư và vốn đầu tư chứng khoán, khiến cho các biến
động trên thị trường chứng khoán sẽ tác động mạnh tới tình hình kinh doanh của
ngân hàng.
Do có những hạn chế trên, hiện nay phần lớn các công ty chứng khoán
trên thế giới đều áp dụng mô hình chuyên doanh, chỉ có Đức vẫn duy trì mô
hình đa năng cho tới nay.
b) Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Mô hình chuyên doanh chứng khoán được áp dụng phổ biến từ sau khủng
hoảng thị trường tài chính 1929-1933. Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh

chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng
khoán thực hiện, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Mô hình này khắc phục được những hạn chế của mô hình đa năng, giảm
rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán đi
vào chuyên môn hoá sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường
phát triển.
Tuy nhiên, do xu thế thành lập các tập đoàn tài chính khổng lồ, một số thị
trường vẫn cho phép các công ty kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ, bảo
hiểm, chứng khoán, nhưng được tổ chức thành công ty mẹ, công ty con, hoạt
động tương đối độc lập với nhau.
1.1.3.2 Tổ chức của công ty chứng khoán
Hiện nay, có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán:
công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
a) Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên.
Có hai loại thành viên tham gia công ty hợp danh: thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh tham gia vào quá trình ra quyết định
quản lý, chịu trách nhiệm vô hạn về những nghĩa vụ tài chính của công ty bằng
toàn bộ tài sản của mình. Thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty
và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về những khoản nợ của công ty trong giới hạn
vốn góp của mình vào công ty.
Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn
trong số vốn mà các thành viên có thể đóng góp.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại chứng
khoán nào.
b) Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
Thành viên của công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ khác của doanh nghiệp chỉ trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào
doanh nghiệp. Điều này có thể gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với người đầu tư.
Công ty TNHH có phương thức huy động vốn đơn giản và linh hoạt hơn

so với công ty hợp danh; đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng
động hơn.
Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu.
c) Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với chủ sở hữu là các cổ đông.
Những cổ đông này chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Giấy chứng nhận cổ phiếu thể
hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty. Công ty vẫn tồn
tại khi quyền sở hữu của công ty thay đổi.
Đại hội cổ đông có quyền bầu Hội đồng quản trị công ty. Hội đồng này sẽ
định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vị quản
lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu)
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Những ưu điểm của công ty cổ phần:
• Công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông
hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
• Rủi ro mà chủ sở hữu công ty phải chịu được hạn chế trong phần
vốn góp đã đầu tư vào công ty.
• Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ
phiếu.
• Đối với công ty chứng khoán, nếu tổ chức theo hình thức công ty
cổ phần và niêm yết tại Sở giao dịch thì coi như được quảng cáo
miễn phí.
• Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin của
công ty cổ phần tốt hơn hai hình thức trên.
Do những ưu điểm của loại hình công ty TNHH và công ty cổ phần so
với công ty hợp danh, hiện nay các công ty chứng khoán được tổ chức chủ yếu
dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần. Tuy nhiên, dù tổ chức dưới
hình thức nào thì các công ty cũng có những hoạt động tiêu biểu của một công

ty chứng khoán.
1.1.4 Hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động của công ty chứng khoán có thể phân ra hoạt động nghiệp vụ
và hoạt động tài chính.
1.1.4.1 Hoạt động nghiệp vụ
a) Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
* Khái niệm:
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng
khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch
tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải
chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách
hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng
khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán.
* Chức năng:
Hoạt động môi giới chứng khoán có các chức năng:
• Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:
- Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho
khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các khuyến nghị đầu tư.
- Nối liền người bán và người mua, đem đến cho khách hàng tất cả các
loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
• Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết, khắc
phục trạng thái xúc cảm quá mức, giúp khách hàng có những quyết
định tỉnh táo.
• Đề xuất thời điểm mua bán chứng khoán như một sự tham khảo
hợp lý cho khách hàng.
Có thể nói môi giới chứng khoán là một hoạt động quan trọng không thể
thiếu trong một công ty chứng khoán, mà bản chất, vai trò, nghiệp vụ... của môi
giới chứng khoán sẽ được đề cập chi tiết hơn trong phần sau.

b) Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán
chứng khoán cho chính mình, bằng chính nguồn vốn kinh doanh của công ty
nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi cho công ty và gánh chịu mọi
rủi ro từ việc đầu tư của mình.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
các thị trường giao dịch tập trung hay phi tập trung. Trên thị trường giao dịch
tập trung, lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống và
thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường
OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với đối tác
hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin.
Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, hoạt động tự doanh
của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường
(ví dụ như ở Mỹ). Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị
trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một loại chứng khoán
và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch
giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là thu lợi nhuận cho chính công ty
thông qua giao dịch mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt
động song hành với nghiệp vụ môi giới, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể
dẫn đến xung đột lợi ích giữa khách hàng và bản thân công ty. Vì vậy, để đảm
bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, luật pháp các nước đều yêu
cầu sự tách bạch rõ ràng hai nghiệp vụ, và yêu cầu công ty chứng khoán phải ưu
tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.
Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian
thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng; trong hoạt động tự doanh
công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy,
công ty chứng khoán đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu nhất định về nguồn
vốn và nhân viên, đảm bảo một nguồn vốn lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ
chuyên môn cao, có khả năng tự quyết, khả năng phân tích và đưa ra các quyết

định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là nhà tạo lập thị
trường.
c) Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ
chức phát hành cần đến công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực
hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây là một nghiệp vụ
chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán.
Như vậy, bảo lãnh phát hành chứng khoán là một hoạt động của công ty
chứng khoán nhằm giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào
bán chứng khoán, nhận mua chứng khoán của các tổ chức phát hành để bán lại,
hoặc mua các chứng khoán chưa được phân phối trong đợt phát hành, giúp bình
ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Bảo lãnh phát hành
của công ty chứng khoán sẽ giúp tổ chức phát hành nắm chắc khả năng huy
động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động.
Trên thị trường chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có
công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân
hàng đầu tư, nhưng ngân hàng đầu tư thường chỉ đứng ra nhận bảo lãnh phát
hành hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành, sau đó chuyển phân phối chứng
khoán cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán thu được
hoa hồng bảo lãnh, bao gồm phí quản lý trả cho tổ chức bảo lãnh chính, phí
nhượng bán trả cho các tổ chức bảo lãnh thực sự bán chứng khoán, và phí bảo
lãnh trả cho các tổ chức bảo lãnh. Phí bảo lãnh bao gồm phí tư vấn, chi phí lưu
động, lãi tiền vay của tổ hợp, chi phí ổn định thị trường và các chi phí khác.
Đại lý phát hành chứng khoán là hoạt động trong đó công ty chứng khoán
nhận bán chứng khoán cho tổ chức phát hành trên cơ sở thoả thuận. So với bảo
lãnh phát hành, đại lý phát hành có nội dung công việc hẹp hơn, chỉ bao gồm
việc phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư.
d) Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt động phân tích, đưa ra các lời khuyên

liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số
dịch vụ liên quan.
Trong hoạt động tư vấn, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách
thức đầu tư và loại chứng khoán nên đầu tư đối với khách hàng của mình. Hoạt
động này đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm. Mặt
khác, tính trung thực và uy tín của công ty chứng khoán có tầm quan trọng trong
việc thu hút khách hàng. Thông thường, hoạt động tư vấn đầu tư hay đi kèm với
các hoạt động khác như môi giới, bảo lãnh phát hành, lưu ký chứng khoán...
Hoạt động tư vấn đầu tư có thể phân loại theo một số tiêu chí sau:
• Theo hình thức hoạt động: gồm tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp
thông qua các ấn phẩm, phương tiện thông tin đại chúng.
• Theo mức độ uỷ quyền của hoạt động: gồm tư vấn gợi ý và tư vấn
uỷ quyền.
• Theo đối tượng của hoạt động: gồm tư vấn cho người phát hành và
tư vấn đầu tư.
Các cách phân loại như trên đan xen nhau, làm nên tính phong phú của
hoạt động tư vấn chứng khoán.
Ở Việt Nam, việc quản lý các hoạt động tư vấn là cần thiết nhưng lại vô
cùng khó khăn trong điều kiện ban đầu, khi các hoạt động kinh doanh chứng
khoán chưa đi vào quy củ, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.
e) Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn uỷ thác của khách
hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho
khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý
danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng
ở mức độ cao hơn; trong hoạt động này, khách hàng uỷ thác tiền cho công ty
chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những
nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ
vọng, rủi ro có thể chấp nhận v.v...)
Nghiệp vụ quản lý có thể thực hiện qua các bước như sau:

- Nhận yêu cầu quản lý
- Ký hợp đồng quản lý
- Thực hiện hợp đồng quản lý
- Thanh lý hợp đồng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có những phát sinh ngoài hợp
đồng, công ty phải xin ý kiến của khách hàng bằng văn bản và phải thực hiện
theo đúng quy định của khách hàng. Ngoài ra công ty phải nghiêm ngặt tách rời
hoạt động này với hoạt động tự doanh và môi giới, tránh sử dụng vốn của khách
hàng sai mục đích để kiếm lợi cho mình.
Thực hiện nghiệp vụ quản lý cho khách hàng, công ty chứng khoán vừa
bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường công ty
chứng khoán nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên
một số lợi nhuận thu về cho khách hàng.
f) Các nghiệp vụ khác
* Nghiệp vụ tín dụng:
Đây là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng
để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho
khoản vay. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng
khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn đã thoả thuận, khách hàng phải
hoàn trả đủ số chênh lệch cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp
khách hàng không trả được nợ, thì công ty có quyền phát mãi số chứng khoán
đã mua để thu hồi nợ.
Đây là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát
triển, công ty chứng khoán triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách
hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách
hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Tuy nhiên, tại các thị trường mới nổi,
hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp
vốn vay. Thậm chí một số nước còn không cho phép thực hiện cho vay ký quỹ.
Nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới trong một công ty
chứng khoán, vì vậy quy trình giao dịch về căn bản là giống nhau. Có điểm

khác là, giao dịch môi giới sử dụng tài khoản tiền mặt còn giao dịch cho vay ký
quỹ sử dụng tài khoản ký quỹ.
* Lưu ký chứng khoán:
Là việc lưu trữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài
khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng
khoán bởi giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch
ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng
khoán hoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho
khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu ký chứng
khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
* Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty:
Dịch vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính có thể do bất kỳ công ty chứng
khoán hay cá nhân nào tham gia thông qua khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn trực
tiếp, thông qua ấn phẩm về chứng khoán để thu phí.
Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp các thông tin, cách thức, đối
tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực... và các vấn đề có tính quy luật về hoạt
động đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng
chuyên môn mà không yêu cầu nhiều vốn. Tính trung thực của cá nhân hay
công ty tư vấn có tầm quan trọng lớn.
Ngoài dịch vụ tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán có thể sử dụng kỹ
năng để tư vấn cho các công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn của
công ty để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.
* Nghiệp vụ quản lý cổ tức
Nghiệp vụ này của công ty chứng khoán xuất phát từ nghiệp vụ quản lý
hộ chứng khoán cho khách hàng. Khi thực hiện quản lý hộ, công ty phải tổ chức
theo dõi tình hình thu lãi chứng khoán khi đến hạn để thu hộ rồi gửi báo cáo cho
khách hàng. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty thường không trực tiếp quản lý
mà sẽ lưu ký tại trung tâm lưu giữ chứng khoán.
* Nghiệp vụ quản lý quỹ:
Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về chứng khoán cho phép

công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó,
công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài
sản của quỹ đầu tư để đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí
dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
Ngoài các nghiệp vụ kể trên, công ty chứng khoán còn có thể thực hiện
một số hoạt động khác như cho vay chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm, v.v...
Hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán có quan hệ mật thiết với hoạt
động tài chính, mảng tài chính của công ty phụ thuộc vào số lượng nghiệp vụ và
quy mô kinh doanh của công ty.
1.1.4.2 Hoạt động tài chính
Cũng như các loại công ty khác, hoạt động tài chính của công ty chứng
khoán bao gồm việc xác định kinh doanh cái gì để thu lợi nhuận, sử dụng các
loại tài sản cố định nào, lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chi phí cho khoản
đầu tư của mình, quản lý các loại hoạt động thu chi, thanh toán cho khách hàng
như thế nào.. nhân
a) Vốn của công ty chứng khoán:
Vốn của một công ty chứng khoán nhiều hay ít phụ thuộc vào loại tài sản
cần tài trợ, mà loại tài sản này lại được quyết định bởi loại hình nghiệp vụ mà
nó thực hiện. Bảo lãnh phát hành và tự doanh là hình thức kinh doanh cần nhiều
vốn. Còn hoạt động môi giới, quản lý tiền, tư vấn... thì không cần vốn lớn.
Nói chung, số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác
định bằng việc cân đối giữa yêu cầu về vốn pháp định và các nhu cầu kinh
doanh của công ty.
b)Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vốn là sự pha trộn của các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp
của các thành viên mà công ty sử dụng. Việc huy động vốn được tiến hành
trong nội bộ công ty hoặc ngoài thị trường, tuỳ theo quy mô và tính chất của nó.
Việc huy động vốn và cơ cấu vốn của các công ty chứng khoán có những
đặc điểm chung như sau:
• Các công ty chứng khoán thường huy động phần lớn tài sản vào

việc phát hành cổ phiếu.
• Các công ty phụ thuộc tương đối nhiều vào các khoản vay ngắn
hạn.
• Các chứng khoán có thể đem ra mua bán trao đổi trên thị trường
thường chiếm phần lớn.

×