Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.39 KB, 32 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi
diễn ra các giao dịch mua bán trao đổi chứng khoán. Thị trường chứng khoán
phát triển kéo theo sự ra đời của hàng loạt các công ty chứng khoán và các nhà
môi giới chuyên nghiệp. Có nhiều cách nhìn nhận về công ty chứng khoán. Tùy
theo cách tiếp cận khác nhau có các khái niệm khác nhau.
Theo giáo trình thị trường chứng khoán thì công ty chứng khoán là một tổ
chức trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
Theo Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC ngày 17-6-2004 của Bộ Tài Chính
thì: “ Công Ty Chứng Khoán là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn
thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép
kinh doanh chứng khoán do Ủy ban chứng khoán Nhà Nước cấp”.
Các công ty chứng khoán có những đặc điểm riêng khác nhau tùy theo mục
đích hoạt động của công ty và mức độ phát triển của thị trường. Ở từng cấp độ
phát triển các công ty chứng khoán sẽ có những định hướng phát triển các hoạt
động và nghiệp vụ khác. Tuy nhiên các công ty này vẫn có những đặc điểm
chung nhất, đặc trưng nhất để được xếp vào cùng một nhóm công ty chứng
khoán.
Trước hết là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường tài chính, nên
công ty chứng khoán có những đặc điểm chung vốn có của một tổ chức tài
chính trung gian. Đây là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của một công ty
chứng khoán. Ở công ty chứng khoán đặc điểm này được thể hiện thông qua
trung gian về giao dịch, trung gian thông tin, trung gian vốn, trung gian rủi ro.
Công ty chứng khoán là một tổ chức trung gian về giao dịch. Công ty
chứng khoán là nơi kết nối giữa người cần bán chứng khoán và những người
cần mua chứng khoán lại với nhau. Tạo ra một cơ chế giao dịch nhanh, gọn và
tiết kiệm thời gian cho các nhà đầu tư. Ở đây người mua và người bán không
trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận giá cả chứng khoán và tiến hành các giao dịch


mà họ sẽ giao dịch qua hệ thống của công ty chứng khoán. Các công ty chứng
khoán sẽ nhận các yêu cầu về mua bán chứng khoán của nhà đầu tư sau đó nhập
những lệnh này vào cùng một hệ thống, hệ thống tự động so khớp các lệnh này
với nhau để đưa ra một mức giá giao dịch tốt nhất.
Công ty chứng khoán là một trung gian về thông tin. Là một tổ chức tài
chính chuyên nghiệp nên công ty chứng khoán có đủ điều kiện trình độ nhân lực
cũng như kỹ thuật để có thể thu thập và tổng hợp thông tin một cách đầy đủ,
chính xác và nhanh nhất. Với đội ngũ các chuyên gia có kiến thức và trình độ
phân tích biến những thông tin này thành những thông tin có ích cung cấp cho
các tổ chức và cá nhân đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tùy theo cấp độ xử
lí thông tin tài chính các công ty chứng khoán có thể bán chúng để thu lời hoặc
những thông tin này có thể được cung cấp miễn phí cho khách hàng. Những sản
phẩm thông tin này sẽ được các công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư
cá nhân cũng như tổ chức thông qua nghiệp vụ môi giới hay tư vấn đầu tư. Nhờ
có công ty chứng khoán mà khách hàng sử dụng thông tin với hiệu quả cao hơn,
chi phí thấp hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian, từ đó họ có thể đưa ra các
quyết định đầu tư đúng đắn và hợp lí hơn. So với việc các nhà đầu tư tự thu thập
và xử lí thông tin thì đặc điểm trung gian thông tin của các công ty chứng khoán
đã đem lại rất nhiều lợi ích đối với thị trường chứng khoán.
Công ty chứng khoán với đặc điểm là một trung gian vốn. Đặc điểm này
được thể hiện rõ ở hình thức cho vay bảo chứng. Các công ty chứng khoán sẽ đi
vay trên thị trường bằng cách phát hành trái phiếu hoặc vay các ngân hàng, rồi
sau đó cho các khách hàng vay lại bằng các hình thức cho vay ký quĩ, hay là
tạm ứng tiền cho khách hàng để mua chứng khoán. Điều này nhằm mục đích
tăng cơ hội cho khách hàng, đồng thời tạo thu nhập cho việc đa dạng hoá hoạt
động của công ty trên thị trường. Tuy nhiên hình thức này cũng mang lại nhiều
rủi ro cho công ty chứng khoán, rủi ro lớn hơn nhiều so với vai trò trung gian
vốn của các ngân hàng thương mại đặc biệt là khi thị trường chứng khoán mất
điểm và rơi vào tình trạng suy thoái.
Công ty chứng khoán còn là một trung gian rủi ro. Dựa trên một thực tế là

có những nguồn vốn nhàn rỗi nhưng chủ nhân của chúng không có đủ thời gian
cũng như kiến thức chuyên môn, khả năng phân tích để đầu tư trên thị trường
chứng khoán. Do đó các quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập. Các quỹ này
sẽ thực hiện đầu tư trên một danh mục các chứng khoán được lựa chọn bởi các
chuyên gia, danh mục đầu tư chứng khoán được tính toán xây dựng với mục
đích kiếm lời và phân tán rủi ro. Các quĩ này sẽ thực hiện việc phát hành các
chứng chỉ quĩ đầu tư bán cho công chúng đầu tư.
Công ty chứng khoán là một công ty trong quá trình hoạt động có sự
chuyên môn hóa cao. Công ty chứng khoán hoạt động với rất nhiều nghiệp vụ
phức tạp. Các thông tin số liệu cũng như tình hình thị trường luôn luôn biến
động rất nhanh, do đó khi tham gia vào thị trường các chủ thể phải có những
phản ứng nhanh trước những thay đổi. Do đó mà bộ máy hoạt động của công ty
phải gọn nhẹ để có thể ra các quyết định nhanh kịp thời. Trong các hoạt động
cần sự chuyên môn hoá giữa các bộ phận. Vì thế các hoạt động của công ty
chứng khoán có tính độc lập tương đối. Mỗi bộ phận trong tổ chức công ty
nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau ( bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh,
hay bộ phận bảo lãnh phát hành..). Sự chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng
bộ phận, từng phòng ban.
Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh phải thoả
mãn được các điều kiện về vốn, điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất kinh
doanh và cả hệ thống công nghệ thông tin như:
- Công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định.
Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ.
- Công ty phải có giấy phép do ủy ban chứng khoán nhà nước cấp
- Công ty chứng khoán chỉ được kinh doanh những hoạt động đã đăng ký
với ủy ban chứng khoán.
- Công ty hoạt động dưới sự giám sát của Ủy ban chứng khoán nhà nước.
- Các tổ chức cá nhân sáng lập công ty chứng khoán phải đảm bảo yêu
cầu tối thiểu về cơ sở vật chất cho công ty chứng khoán.
Yếu tố công nghệ luôn là yếu tố then chốt trong các công ty chứng khoán.

Tại đây công nghệ thông tin được ứng dụng nhiều nhất. Công nghệ thông tin
giúp khách hàng có thể giao dịch chứng khoán, kiểm tra tài khoản, thanh toán
qua mạng tiện lợi. Đây là yếu tố cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán.
Một đặc điểm nữa của các công ty chứng khoán là luôn luôn tồn tại sự
xung đột lợi ích giữa các nhóm, giữa khách hàng và công ty chứng khoán, giữa
các nghiệp vụ mà công ty thực hiện khi tiến hành hoạt động kinh doanh.
1.1.2 Phân loại công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán có rất nhiều hoạt động đa dạng và phức tạp khác
với các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất hay thương mại do đó mà mô hình
tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán cũng tồn tại ở nhiều hình thức
khác nhau. Tùy theo các tiêu thức khác nhau có các cách phân loại khác nhau.
Dựa trên qui mô và lĩnh vực kinh doanh của công ty chứng khoán có thể
được chia làm hai loại là công ty chứng khoán đa năng và công ty chứng khoán
chuyên doanh.
Ở mô hình công ty chứng khoán đa năng công ty chứng khoán được tổ
chức theo hình thức là một tổ chức tài chính tổng hợp kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Trong mô hình công ty đa năng bao
gồm hai loại là đa năng một phần và đa năng toàn phần.
Đa năng một phần hình thức mà công ty chứng khoán là một công ty con
của ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, các công ty ở dạng này là những
công ty độc lập hoạt động tách rời.
Đa năng toàn phần là hình thức mà các ngân hàng được kinh doanh
chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Trong mô hình
này các ngân hàng kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh giảm bớt được những rủi
ro cho hoạt động kinh doanh chung nhưng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường.
Mô hình chuyên doanh chứng khoán do các công ty độc lập, chuyên môn
hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia
kinh doanh chứng khoán. Áp dụng mô hình này sẽ tạo điều kiện cho thị trường
chứng khoán phát triển mạnh.
Nếu xem xét các công ty chứng khoán dưới tiêu thức loại hình tổ chức thì

có 3 loại hình công ty chứng khoán cơ bản là: công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Công ty hợp danh: là loại hình công ty có 2 chủ sở hữu trở lên. Thành
viên của công ty hợp danh bao gồm: Thành viên góp vốn (thành viên chỉ góp
vốn chứ không tham gia quản lý) và thành viên hợp danh (tham gia quản lý,
điều hành công ty). Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn
không tham gia điều hành công ty, chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh
không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
Công ty cổ phần: Công ty cổ phần có tư cách là một pháp nhân độc lập
với các chủ sở hữu công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng
theo quy định của pháp luật.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Thành viên của công ty chịu trách nhiệm
trong giới hạn số vốn mà họ đã góp về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát
hành cổ phiếu. Hiện có rất nhiều công ty chứng khoán hoạt động dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn.
1.1.3 Vai trò của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Các công ty
chứng khoán tạo ra một cơ chế giao dịch mà nhờ đó các cổ phiếu trái phiếu
được lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị trường, và nguồn vốn khổng lồ trong
công chúng được đưa vào đầu tư được sử dụng một cách hiệu quả hơn.
Trên thị trường tài chính công ty chứng khoán có ba chức năng cở bản
nhất đó là: tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt, làm cầu nối giữa những người
có tiền nhàn rỗi và những người sử dụng vốn và cung cấp cho thị trường một cơ
chế giá cả cho các giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống khớp giá hoặc

khớp lệnh. Công ty chứng khoán góp phần điều tiết giá chứng khoán, can thiệp
tạo ổn định cho thị trường. Đồng thời các công ty chứng khoán với vai trò trung
gian đã tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán khi tham gia trên thị
trường, có thể chuyển đối chứng khoán ra tiền mặt một cách dễ dàng.
Các chức năng quan trọng này khẳng định ảnh hưởng của công ty chứng
khoán đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Sự hoạt động
của các công ty chứng khoán có tác động mạnh đến các chủ thể khác nhau khi
tham gia trên thị trường này. Đó là các tổ chức phát hành, nhà đầu tư, đối với thị
trường chứng khoán, đối với cơ quan quản lí thị trường.
Vai trò công ty chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Công ty
chứng khoán tạo cho các tổ chức phát hành một cơ chế huy động vốn hiệu quả
bên cạnh phương thức truyền thống là đi vay các ngân hàng. Tổ chức phát hành
khi tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ huy động vốn thông qua việc phát
hành chứng khoán. Các công ty chứng khoán sẽ giúp các công ty trên thực hiện
được mục đích của mình bằng cách cung cấp dịch vụ đại lý bảo lãnh phát hành
như một tổ chức công bố thông tin tới công chúng đầu tư. Các công ty chứng
khoán với cơ cấu tổ chức thích hợp, trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ
thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành giúp di chuyển dòng
vốn từ nhà đầu tư đến tổ chức phát hành.
Đối với các nhà đầu tư các công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà môi
giới, nhà tư vấn cung cấp cho họ những dịch vụ, các tiện ích để có thể tiếp cận
với thị trường chứng khoán một cách dễ dàng. Với trình độ chuyên môn cao và
uy tín nghề nghiệp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, các công ty
chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, từ đó giúp các
nhà đầu tư nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư.
Công ty chứng khoán là một nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát
triển để thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán góp phần tạo lập giá cả,
điều tiết thị trường. Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh
chứng khoán cho các tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thông qua việc
xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá chào bán hợp lý đối với các

chứng khoán. Thông thường mức giá phát hành do các công ty chứng khoán xác
định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thõa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn
trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành. Tại thị trường thứ cấp,
dù là thị trường đấu giá hay thị trường đấu lệnh, công ty chứng khoán luôn có
vai trò tư vấn, giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về các khoản đầu
tư của họ. Giá cả của chứng khoán là do thị trường quyết định, nhưng để đến
được mức giá cuối cùng thì người mua và người bán phải thông qua các công ty
chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Công
ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn khi tham gia điều tiết thị trường, nhiều
công ty đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn
thị trường, bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng cũng là bảo vệ lợi ích của
chính mình. Công ty chứng khoán có tác dụng bôi trơn giúp cho thị trường
chứng khoán hoạt động một cách trôi chảy. Thị trường chứng khoán được thành
lập để tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính tuy nhiên các công ty
chứng khoán mới là các chủ thể thực hiện vai trò này. Trên cả hai thị trường sơ
cấp và thứ cấp các công ty chứng khoán đều thực hiện cơ chế giao dịch. Từ đó,
các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một
cách thuận tiện, nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém và ít thiệt hại nhất.
Đối với cơ quan quản lý thị trường các công ty chứng khoán có vai trò
cung cấp thông tin. Thông tin là một yếu rất quan trọng trên thị trường chứng
khoán, cung cấp thông tin đầy đủ đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách
lành mạnh và minh bạch. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này
do họ co ưu thế nắm rõ tình hình các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư
thông qua vai trò bảo lãnh phát hành, trung gian mua bán. Các thông tin mà
công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua
bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu, ttỏ chức phát hành, các
nhà đầu tư. Dựa vào nguồn thông tin này, cơ quan quản lý thị trường có thể theo
dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên thị trường chứng khoán, từ đó có thể kiểm
soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn thị trường, đưa ra các quyết
định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời đảm bảo cho thị trường diễn ra

một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả.
1.4 Khái quát các hoạt động chính của công ty chứng khoán
Hoạt động môi giới
Môi giới là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán, đại diện
cho khách hàng tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán để hưởng hoa
hồng. Việc giao dịch chứng khoán được tiến hành thông qua cơ chế giao dịch
tại sở giao dịch chứng khoán hay trên thị trường OTC. Khách hàng là người
phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các quyết định mua bán của chính
mình. Với vai trò là trung gian trong các giao dịch mua bán giữa các khách hàng,
hoạt động này mang lại một khoản phí không nhỏ cho công ty chứng khoán.
Nhân viên môi giới chính là bộ mặt của công ty chứng khoán, họ là những người
tiếp xúc gần nhất và hiểu rõ khách hàng nhất. Những sản phẩm được công ty đưa
ra để phục vụ khách hàng hay những đánh giá về khách hàng của mình đều được
thực hiện thông qua các hoạt động môi giới.
Hoạt động tự doanh
Hoạt động tự doanh thực chất là hoạt động mà các công ty chứng khoán
tự mua bán chứng khoán cho mình. Mục đích của hoạt động tự doanh là lợi
nhuận thu được cho chính công ty thông qua hoạt động mua bán, giao dịch trên
thị trường. Trên thị trường giao dịch tập trung lệnh giao dịch của công ty chứng
khoán được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của
khách hàng. Trên thị trường OTC hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp
giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua mạng thông tin. Ngoài ra các công
ty chứng khoán còn đóng vai trò như một pháp nhân chuyên nghiệp khi mà hoạt
động tự doanh còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Các
công ty chứng khoán nắm giữ một số lượng nhất định một loại chứng khoán nào
đó và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và
chênh lệch giá.
Sự tham gia của công ty vào thị trường chứng khoán với nghiệp vụ tự
doanh đã nảy sinh xung đột lợi ích giữa khách hàng và lợi ích công ty. Do đặc
thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty

chứng khoán có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường có thể dẫn đến
việc sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng. Để bào vệ quyền lợi cho các nhà
đầu tư Pháp luật đã qui định công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu
tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ của hoạt động tự doanh. Công ty
chứng khoán cần phải tách biệt rõ ràng giữa hoạt động môi giới với hoạt động
tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên đặt lệnh của khách hàng trước lệnh
tự doanh của công ty.
Vì vậy cần phải có những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong
hoạt động tự doanh. Trong quản lí của công ty chứng khoán phải có sự tách biệt
giữa hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ
ràng trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các qui
trình nghiệp vụ. Đồng thời các công ty còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản
của khách hàng với các tài sản của công ty. Công ty phải luôn đặt lợi ích của
khách hàng lên hàng đầu. Nghĩa là lệnh và giao dịch của khách hàng phải được
xử lý trước lệnh tự doanh của công ty, cung cấp thông tin co khách hàng một
cách trung thực và kịp thời nhất.
Hoạt động bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh phát hành giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân
phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi
phát hành. Công ty chứng khoán đảm nhiệm thủ tục tư vấn cho doanh nghiệp
phát hành, phân phối chứng khoán giúp cho đợt phát hành được thành công. Ở
đây công ty chứng khoán đóng vai trò là trung gian giữa tổ chức phát hành
chứng khoán với ủy ban chứng khoán nhà nước và nhà đầu tư. Các hình thức
bảo lãnh phát hành bao gồm.
Thứ nhất là bảo lãnh với cam kết chắc chắn, tổ chức bảo lãnh cam kế sẽ
mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết số chứng
khoán hay không. Thứ hai là bảo lãnh theo phương thức dự phòng, được áp
dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu. Thứ ba là bảo
lãnh với cố gắng cao nhất, ở hình thức này tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại

lý cho tổ chức phát hành, họ cam kết sẽ cố gằng hết sức để bán chứng khoán ra
thị trường nhưng nếu không bán được hết thì họ cũng không bị bắt buộc phải
mua mà sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Thứ tư là bảo lãnh theo phương thức
bán tất cả hoặc không, công ty chứng khoán khi thực hiện bảo lãnh nếu số
không phân phối được hêt sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành. Hình thức thứ năm là
bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa. Theo phương thức này tổ chức
phát hành yêu cầu tổ chức tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán
nhất định, nếu đợt phát hành chứng khoán bán được tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu
thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.

Hoạt động tư vấn đầu tư
Hoạt động tư vấn đầu tư là việc công ty chứng khoán thông qua các hoạt
động phân tích các thông tin, phân tích các tình huống có thể xảy ra trên thị
trường chứng khoán để đưa ra các lời khuyên cho khách hàng. Cụ thể như việc
cung cấp các dịch vụ tư vấn phát hành cho các tổ chức phát hành, tư vấn đầu tư
và cơ cấu danh mục đầu tư cho các khách hàng.
Có ba tiêu trí để phân loại hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán.
Việc phân loại diễn ra tùy theo cách thức tiến hành tư vấn, mức độ của nghiệp
vụ và đối tượng của chúng.
Theo phương thức tiến hành tư vấn thì công ty chứng khoán có thể tư vấn
trực tiếp cho khách hàng. Các nhà tư vấn gặp gỡ các khách hàng, nghiên cứu
tình hình tài chính của từng khách hàng để đưa ra các lời khuyên phù hợp. Hoặc
công ty có thể tư vấn một cách gián tiếp thông qua việc phát hành các ấn phẩm
hay là đưa thông tin lên mạng Internet để bất kỳ khách nào cũng tiếp cận được
nếu muốn.
Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: tùy theo yêu cầu của khách hàng mà
công ty chứng khoán có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn từ việc đưa ra các gợi ý
cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quỳen quyết
định là của khách hàng. Hoặc là ở cấp độ cao hơn thì nhà tư vấn sẽ tư vấn và
quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng.

Theo đối tượng của hoạt động tư vấn thì hoạt động này được chia ra
thành tư vấn cho nhà phát hành và tư vấn cho nhà đầu tư. Tư vấn cho tổ chức
phát hành bao gồm việc tư vấn phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho các tổ chức
này. Hoạt động này được thực hiện tốt sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các doanh
nghiệp và tạo ra hàng hóa có chất lượng cho thị trường. Tư vấn đầu tư là các
hoạt động thường ngày của các công ty chứng khoán diễn ra phổ biến trên thị
trường thứ cấp. Đây có thể là những lời khuyên, những bản tin hay những hợp
đồng dịch vụ.
1.2. Hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán
1.2.1 Khái niệm
Công ty chứng khoán khi hoạt động trên thị trường có thể thực hiện các
nghiệp vụ khác nhau, tuy nhiên hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động
được nhiều công ty đăng ký hoạt động nhất. Đây là một hoạt động trung gian,
công ty chứng khoán sẽ đại diện cho khách hàng thực hiện các giao dịch để
hưởng phí môi giới. Các giao dịch được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch
tại sở giao dịch hoặc trên thị trường OTC và trong các giao dịch này khách hàng
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Môi giới trên sàn giao dịch nghĩa là các nhà môi giới là trung gian giữa
các nhà đầu tư, trung gian nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Dựa trên hệ thống
so khớp giá tự động để các giao dịch được diễn ra nhanh và nhiều nhất tạo công
bằng đối với các khách hàng khi tham gia vào hệ thống. Khi chứng khoán giao
dịch trên sở trở lên khan hiếm hay rơi vào tình trạng khó giao dịch Sở giao dịch
sẽ yêu cầu các công ty chứng khoán tiến hành các giao dịch từ tài khoản của
công ty với các lệnh chào mua hoặc chào bán trên thị trường. Lúc này các công
ty chứng khoán sẽ là các nhà tạo lập thị trường.
Môi giới trên thị trường OTC, trên thị truờng OTC các nhà môi giới đóng
vai trò tạo ra tính lỏng cho các chứng khoán. Hoạt động tạo lập thị trường này
được thực hiện bằng cách nhà môi giới chứng khoán nắm giữ một lượng chứng
khoán nhất định để sẵn sàng giao dịch với khách hàng bao gồm cả việc mua và
bán các chứng khoán đó để hưởng chênh lệch giá và phí môi giới. Nhờ có các

nhà tạo lập thị trường này mà thị trường OTC có thể hoạt động một cách trôi
chảy .
Môi giới hai đô la là môi giới tự do họ không thuộc về một công ty chứng
khoán nào.Họ có thể thực hiện môi giới trung gian để thương lượng đấu giá
mua bán chứng khoán cho các công ty môi giới thuê họ, truớc kia hoa hồng từ
các dịch vụ đó và khoản phí mà họ được hưởng là 2 đô la trên 100 cổ phiếu. Do
đó mà họ được dặt cho cái tên chung là môi giới 2 đô la.
1.2.2.Đặc điểm, vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một nghề có yêu cầu công việc rất cao, đòi hỏi
người lao động trong lĩnh vực này phải lao động cật lực tuy nhiên họ lại được

×