Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.3 KB, 28 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty chứng
khoán
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm về Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt được hình
thành trong thời kỳ phát triển cao của nền kinh tế. Tại Việt Nam, Theo điều 65,
66 Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và TTCK Công
ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được
UBCKNN cấp Giấy phép thành lập để hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán đáp ứng đủ các yêu cầu sau:
- Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội và phát triển ngành chứng khoán.
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
- Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các nhân
viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ
hành nghề kinh doanh chứng khoán do ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
- Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có Giấy phép tự
doanh.
- Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh sau: Đối với
nghiệp vụ môi giới chứng khoán cần số vốn tối thiểu là 25 tỷ đồng; Đối với
nghiệp vụ tự doanh chứng khoán cần vốn tối thiểu là 100 tỷ; Đối với hoạt động
nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành chứng khoán cần số vốn tối thiểu là 165 tỷ và số
vốn tối thiểu cho hoạt động tư vấn là 10 tỷ - Theo Nghị định số 14/2007, quy
định về vốn đối với các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK và quản lý quỹ
Như vậy số vốn tối thiểu để một CTCK hoạt động ở tất cả các nghiệp vụ
là 300 tỷ đồng.
Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2009, ở Việt Nam hiện nay có tất cả
103 CTCK trong đó vốn điều lệ cao nhất là CTCK Sài Gòn với số vốn là 1533,3


tỷ đồng. Tiếp theo là CTCK Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
với vốn điều là là 1.200 tỷ đồng và Công ty TNHH chứng khoán Sài gòn thương
tín với vốn điều lệ là 1.100 tỷ đồng. Số CTCK thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ là
35 CTCK. Chi tiết như sau:
STT Vốn điều lệ Số Công ty Thực hiện nghiệp vụ
1 VDL ≥ 300 tỷ 35 Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát
hành, tư vấn
2 300 tỷ > VDL ≥ 135 tỷ 33 Môi giới, tự doanh, tư vấn
3 135 tỷ > VDL ≥ 35 tỷ 32 Môi giới, tư vấn
4 VDL < 35 tỷ 3 Môi giới
Nguồn: Thống kê từ phòng Marketing – CTCK Thăng Long
Bảng 1.1. Vốn điều lệ các CTCK đến tháng 12/2009
Tại thời điểm thị trường khó khăn, các CTCK đã tự xin rút lui một số
nghiệp vụ như nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành để đảm bảo mức vốn
hoạt động theo đúng quy định của Pháp luật
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Là một tổ chức trung gian kết nối sự trao đổi mua bán chứng khoán theo
những quy tắc được ấn định, theo quyết định số 27 về việc ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động CTCK, một CTCK được phép thực hiện tất cả các hoạt động
kinh doanh bao gồm: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu
tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
• Hoạt động môi giới chứng khoán
Để thực hiện giao dịch mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách
hàng, CTCK thực hiện chức năng làm trung gian nhận lệnh của khách hàng trực
tiếp hoặc qua điện thoại sau đó chuyển thông tin tới Sở Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tại Sở giao dịch chứng khoán khi lệnh mua và lệnh
bán gặp nhau và khớp lệnh, CTCK sẽ được hưởng phí giao dịch.
Để thực hiện nghiệp vụ này, CTCK sẽ phải mở tài khoản giao dịch cho
từng khách hàng; Quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng; Thu thập và bảo
mật thông tin tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận của từng

khách hàng; Thực hiện nghiệp vụ nhận lệnh giao dịch mua bán chứng khoán
niêm yết và OTC; Cung cấp các dịch vụ liên quan đến đăng ký chứng khoán
niêm yết, chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết, đăng ký giao dịch
tập trung, quản lý cổ đông, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán cho khách
hàng; Chăm sóc khách hàng; Tư vấn cho khách hàng giao dịch chứng khoán;
Thực hiện sửa lỗi theo quy định của HNX và HSX.
• Hoạt động tự doanh
Ngoài tư cách là môi giới chứng khoán, CTCK có thể sử dụng nguồn vốn
của mình để tham gia kinh doanh chứng khoán như một tổ chức độc lập trên thị
trường nhằm thu được lợi nhuận về cho CTCK. Hoạt động tự doanh của CTCK
có thể được chia thành hai lĩnh vực thứ nhất là thực hiện việc mua bán chứng
khoán niêm yết cho chính công ty mình, thứ hai là hình thức mua chứng khoán
chưa niêm yết. Ngoài ra CTCK còn mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó sẽ
gộp thành lô chẵn để bán lại trên Sở giao dịch chứng khoán. Đây cũng là hoạt
động mang lại lợi nhuận cho CTCK bởi giá mua lô lẻ là giá thỏa thuận giữa
CTCK và nhà đầu tư nên CTCK có thể chủ động đưa ra mức giá thỏa thuận để
vừa có thể tìm kiếm lợi nhuận vừa có thể thu hút khách hàng. Phần lớn doanh
thu của CTCK thường là từ hoạt động tự doanh.
• Hoạt động phân tích và tư vấn đầu tư chứng khoán
Ở lĩnh vực này đòi hỏi các CTCK phải có các chuyên gia phân tích để
đưa ra sản phẩm là các báo cáo phân tích cơ bản như phân tích ngành, phân tích
công ty chuyên sâu đồng thời nghiên cứu thị trường hàng ngày hoặc hàng tuần
hoặc báo cáo về triển vọng của thị trường. Đây là những sản phẩm đòi hỏi sự
nghiên cứu chuyên sâu của các chuyên gia. Những sản phẩm này có thể được
thực hiện theo Hợp đồng hợp tác với các tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài
nước hoặc có thể là sản phẩm đặc trưng của một CTCK nhằm nâng cao vị thế
trên thị trường.
• Hoạt động tư vấn doanh nghiệp
Hoạt động tư vấn của một CTCK có thể bao gồm những hình thức sau;
+ Tư vấn bảo lãnh phát hành, chào bán chứng khoán riêng lẻ cho khách

hàng.
+ Tư vấn chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang
công ty cổ phần chuyển công ty TNHH sang công ty cổ phần hoặc chuyển samg
hình thức công ty mẹ - công ty con hoặc tổng công ty.
+ Tư vấn các thủ tục để thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công
chúng cho các DNNN cổ phần hóa và các loại hình doanh nghiệp khác; tư vấn
các thủ tục đấu giá bán bớt phần vốn nhà nước;
+ Tư vấn thủ tục cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua hình thức
chào bán riêng lẻ hoặc chào bán chứng khoán ra công chúng theo đúng các quy
định của pháp luật, phù hợp với nhu cầu tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp đó.
+ Tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện niêm yết chứng khoán tại Sở
giao dịch chứng khoán.
+ Tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp: tư vấn tái cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý và nguồn nhân lực; tư vấn tái cơ cấu hệ thống quản trị bao gồm cơ chế,
chính sách, các quy chế quy định, quy trình công việc; Tư vấn tái cơ cấu chiến
lược hoạt động kinh doanh về mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh, chủng
loại sản phẩm hàng hóa; Tư vấn tái cơ cấu tài chính gồm cơ cấu danh mục tài
sản, cơ cấu tài chính phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào từng CTCK, các nghiệp vụ trên được đẩy mạnh hay đầu tư
với cơ cấu lớn/nhỏ. Một CTCK nhỏ với vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng thông
thường chỉ có thực hiện nghiệp vụ môi giới và phân tích tư vấn đầu tư chứng
khoán.
• Các hoạt động phụ trợ
Hiện nay các CTCK thường mở rộng hoạt động môi giới thông qua các
dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Đó là các hoạt động hỗ trợ tài chính cho
khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán hoặc hoạt động kinh doanh vốn trên
thị trường.
+ Kết hợp với hoạt động môi giới, các CTCK có thể cung cấp cho khách
hàng nguồn vốn để đầu tư chứng khoán với tài sản đảm bảo bằng chính những
cổ phiếu của khách hàng. Những cổ phiếu này sẽ bị phong tỏa bởi CTCK và sẽ

được giải tỏa khi khách hàng trả tiền về cho CTCK hoặc khi khách hàng bán
chứng khoán bị phong tỏa, khi đó CTCK sẽ tự động thu phần vốn đã hợp tác
cùng với khách hàng. Nghiệp vụ này áp dụng đối với cả chứng khoán niêm yết
và chứng khoán OTC.
+ Song song với việc cân đối toàn bộ nguồn vốn hoạt động trong CTCK,
một số công ty có bộ phận nguồn vốn trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh
trái phiếu căn cứ vào tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp và tình hình thị
trường. Một số CTCK khác kết hợp với một hoặc nhiều ngân hàng để cung cấp
các dịch vụ cho khách hàng như hoạt động ứng trước tiền mua chứng khoán,
hợp tác đầu tư chứng khoán với khách hàng. Khi đó ngân hàng trực tiếp đứng ra
ký kết hợp đồng và thu tiền của khách hàng, CTCK chỉ là trung gian và hưởng
phần trăm hoa hồng.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được hiểu là việc CTCK
thực hiện hoạt động môi giới trái phiếu cho khách hàng hoặc tự doanh trái phiếu
hoặc cả hai để từ đó thu phí giao dịch, hoa hồng, trái tức hoặc chênh lệch giữa
giá mua và giá bán nhằm mang lại lợi nhuận về cho CTCK.
Để hiểu rõ về hoạt động kinh doanh trái phiếu ta cần làm rõ các khái niệm
xung quanh trái phiếu:
1.1.2.1. Khái quát về trái phiếu
- Trái phiếu là một loại giấy hứa trả tiền dài hạn, do người đi vay phát
hành, hứa sẽ trả tiền cho người nắm giữ trái phiếu một khoản lãi cố định được
xác định trước mỗi năm. Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không
chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả và sử dụng vốn của người vay. Nhà phát
hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp
đồng vay. Trường hợp nếu một công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu,
người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản đối với công ty. Quyền yêu cầu về thu nhập
và tài sản của trái chủ được ưu tiên trước cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường.
Đây sẽ là sự đảm bảo quan trọng cho các nhà đầu tư và như vậy trái phiếu có
mức độ rủi ro thấp hơn so với cổ phiếu.

- Mệnh giá: Mệnh giá hay giá trị danh nghĩa, hay giá trị bề mặt của trái
phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu, nó xác định tổng số tiền gốc mà trái chủ được
nhận cho tới hết thời hạn của trái phiếu.
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất ghi trên trái phiếu. Nó quy dịnh mức lợi
tức mà trái chủ được hưởng so với mệnh giá của trái phiếu.
- Lãi suất thực: Lãi suất thực của trái phiếu được xem xét trong mối liên
hệ với giá trị thời gian của tiền.
- Kỳ hạn: là độ dài thời gian cho đến khi người phát hành trái phiếu trả lại
toàn bộ tiền gốc cho trái chủ và nhận lại trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu
thường rất đa dạng, có thể là 1 đến 30 năm. Kỳ hạn của mỗi trái phiếu trong một
đợt phát hành có thể khác nhau do phương thức phát hành và việc tổ chức phát
hành mua lại trái phiếu trước hạn theo điều khoản bán.
- Khế ước: Là bản giao kèo mang tính pháp lý giữa công ty phát hành trái
phiếu và người được ủy quyền về trái phiếu (ngân hàng tín thác, người đại diện
sở hữu trái phiếu), đại diện cho quyền của trái chủ, quyền của công ty phát hành
và trách nhiệm của người được ủy quyền.
- Lãi suất hiện tại: Là tỷ lệ giữa khoản lợi tức được trả hàng năm với giá
cả thị trường hiện tại của trái phiếu đó.
- Hạn mức tín nhiệm trái phiếu: liên quan đến đánh giá rủi ro trong tương
lại của trái phiếu, thứ hạng của một trái phiếu nhận được lại ảnh hưởng đến tỷ lệ
lợi tức yêu cầu của các nhà đầu tư đối với trái phiếu đó. Hạng trái phiếu càng
thấp thì tỷ lệ lợi tức yêu cầu trên thị trường vốn càng phải cao. Chúng cung cấp
tín hiệu rủi ro vỡ nợ ảnh hưởng đến tỷ lệ lợi tức mà doanh nghiệp phải chi trả
bằng các quỹ đi vay. Hạn mức tín nhiệm trái phiếu chịu ảnh hưởng tích cực bởi :
Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần, những hoạt động sinh lời, sự biến thiên ở mức thấp
trong thu nhập quá khứ, quy mô công ty và việc ít sử dụng nợ thứ cấp.
1.1.2.2. Các hình thức kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
a, Căn cứ vào công cụ đầu tư:
Trái phiếu được chia thành hai loại chính: TPCP và trái phiếu công ty
tương ứng hoạt động kinh doanh trái phiếu được chia thành kinh doanh TPCP

(TPCP và TPCQĐP, trái phiếu kho bạc, và trái phiếu đô thị) và kinh doanh
TPDN hay trái phiếu công ty.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo công cụ đầu tư có thể
giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp, trên
cơ sở đó dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư. Đầu tư vào TPCP được coi
là có rủi ro thấp nhất do được đảm bảo khả năng trả nợ của Chính phủ. Không
những vậy, TPCP còn có khả năng thanh khoản cao, dễ dàng chuyển thành tiền
mặt. Trái phiếu công ty cũng có rủi ro thấp nhưng vẫn phụ thuộc vào tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư kinh doanh trái phiếu công ty
còn có thể được phân chia thành đầu tư vào trái phiếu thế chấp (trái phiếu có
bảo đảm bằng một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan để đảm bảo chắc
chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu) và loại trái phiếu công ty có tính rủi ro
cao hơn là đầu tư vào trái phiếu tín chấp hay trái phiếu không có bảo đảm, loại
trái phiếu này chỉ có thể được mua khi tổ chức phát hành là các công ty lớn, có
uy tín danh tiếng trên thị trường.
Dù đầu tư vào TPCP hay TPDN thì hoạt động kinh doanh trái phiếu là
khá an toàn bởi dòng tiền cố định mà nhà đầu tư được nhận đã ấn định từ khi
phát hành trái phiếu chứ không phụ thuộc vào tình hình hoạt động cũng như kế
hoạch phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
b, Căn cứ vào nguồn vốn và trách nhiệm của công ty
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được chia thành hoạt động tự
doanh trái phiếu và môi giới giao dịch trái phiếu cho khách hàng.
• Tự doanh trái phiếu là hoạt động CTCK sử dụng nguồn vốn của mình để kinh
doanh trái phiếu trên thị trường. Khi đó, khác với tổ chức trung gian, CTCK
đóng vai trò là một trong hai phía mua hoặc bán khi thực hiện giao dịch, lúc này
công ty sử dụng nguồn vốn của mình để mua hoặc bán trái phiếu trên thị trường
từ đó được hưởng lợi nhuận thu được từ việc mua/bán trái phiếu hoặc phải chịu
rủi ro khi bị thua lỗ. Đối với hoạt động tự doanh, bất cứ khi nào cần bán/mua,
công ty có thể bán hết lượng trái phiếu đang nắm giữ hoặc mua tối đa nguồn
vốn phân bổ cho hoạt động tự doanh mà không chịu bất cứ ràng buộc nào – đây

là điểm khác giữa hoạt động kinh doanh tự doanh trái phiếu và hoạt động tạo
lập thị trường của các tổ chức tài chính khác.
Hoạt động tự doanh trái phiếu có thể được chia thành hoạt động đầu tư
hưởng lợi khi tới thời điểm đáo hạn trái phiếu hoặc kinh doanh hưởng chênh
lệch giá. Ở hoạt động đầu tư trái phiếu tới thời khi đáo hạn, CTCK sẽ quan tâm
tới kỳ hạn nguồn vốn có thể sử dụng cho việc đầu tư trái phiếu và lãi suất
coupon của trái phiếu để từ đó lựa chọn trái phiếu kỳ hạn 1 năm, 3 năm hay 5
năm…và loại TPCP hay TPDN. Khi đó, ngay từ khi mua trái phiếu, căn cứ vào
trái tức nhận được hàng năm hoặc hàng quý và mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn
trái phiếu, công ty có thể tính được lợi suất theo yêu cầu của trái phiếu. Trường
hợp kinh doanh hưởng chênh lệch giá, CTCK có thể bán trái phiếu trước thời
điểm đáo hạn của trái phiếu căn cứ vào tình hình thị trường khi lợi suất theo yêu
cầu đạt kỳ vọng của CTCK. Nắm giữ trái phiếu tới khi đáo hạn hay bán trước
khi đáo hạn tùy thuộc vào nguồn vốn sử dụng cho hoạt động kinh doanh trái
phiếu của CTCK và khả năng phân tích thị trường của mỗi CTCK để từ đó đánh
giá được thời điểm bán trái phiếu tốt nhất.
• Môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian)
Lúc này, CTCK đứng ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và
hưởng phí giao dịch. Trong giao dịch trái phiếu, người bán và người mua đã có
thỏa thuận thực hiện hoạt động mua/bán trái phiếu, chỉ là thông qua CTCK để
đặt lệch giao dịch. Để thực hiện chức năng này, CTCK phải là thành viên giao
dịch trên hệ thống giao dịch TPCP. Kể từ ngày 24/09/2009, hệ thống giao dịch
trái phiếu chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động, chỉ có các CTCK thành
viên mới có chức năng giao dịch môi giới cho khách hàng ngoài hoạt động tự
doanh của mình, các NHTM – thành viên đặc biệt chỉ có thể giao dịch tự
doanh và các CTCK không phải là thành viên hệ thống TPCP chuyên biệt sẽ
phải đặt lệch qua các CTCK thành viên.
c, Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh:
Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia hoạt động kinh doanh trái phiếu
thành ba loại là kinh doanh đầu tư hưởng lợi, kinh doanh đầu tư phòng vệ và

nhà tạo lập thị trường.
• Kinh doanh đầu tư hưởng lợi: Hoạt động này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu có thể có từ trái tức được phân
phối hàng năm và từ chênh lệch giá khi bán trái phiếu. Hoạt động kinh doanh
đầu tư hưởng lợi còn có thể chia thành hoạt động đầu cơ, kinh doanh chênh lệch
giá và kinh doanh xuống giá.
+ Đầu cơ trái phiếu: Là hoạt động đầu tư trái phiếu nhằm tìm kiếm lợi
nhuận từ trái tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Hoạt động đầu cơ làm cho trái
phiếu trở nên khan hiếm và giá trái phiếu tăng khi đó nhà đầu cơ có thể kiếm
được lợi từ việc tăng giá trái phiếu.
+ Kinh doanh chênh lệch giá: Là hoạt động mua bán trái phiếu nhằm tìm
kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá mua và giá bán. Giá chênh lệch
có thể do địa điểm mua bán khi tỷ giá giữa hai đồng tiền tại hai khu vực khác
nhau hoặc khi CTCK tìm được người có nhu cầu bán và người có nhu cầu mua
trái phiếu mà giá mua cao hơn giá bán khi đó CTCK sẽ là trung gian để hưởng
chênh lệch này.
+ Kinh doanh giảm giá: Là hoạt động kinh doanh đầu tư hưởng lợi khi có
hiện tượng giảm giá trái phiếu. Khi dự báo lãi suất tăng, CTCK sẽ bán trái phiếu
để chờ giá trái phiếu giảm xuống và mua lại. Trường hợp đặc biệt của hoạt động
kinh doanh giảm giá trái phiếu là bán khống. Khi đó, CTCK sẽ vay trái phiếu
của nhà tạo lập thị trường để bán khống lượng trái phiếu đó khi lãi suất thị
trường có xu hướng tăng lên trong tương lai làm giá trái phiếu giảm và mua lại
trả nhà tạo lập thị trường khi giá trái phiếu đã giảm tới mức kỳ vọng. Phần
chênh lệch giữa giá bán và giá mua sau khi trừ đi phí giao dịch sẽ là thu nhập
của CTCK. Khi giá trái phiếu không xuống thấp như kỳ vọng mà tăng lên,
CTCK vẫn phải mua trái phiếu trả lại nhà tạo lập thị trường và chịu thua lỗ.
Phần thua lỗ là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây cũng là hoạt
động mang tính rủi ro cao nên để ra quyết định đầu tư, CTCK cần phải xem xét
tình hình kinh tế vĩ mô và tình hình biến động lãi suất để từ đó tránh những rủi
ro không đáng có.

• Kinh doanh đầu tư phòng vệ: Là hoạt động kinh doanh đầu tư các công cụ trái
phiếu phái sinh như hợp đồng giao sau (Forwards), Hợp đồng kỳ hạn (Futures),
Hợp đồng quyền mua (Call Options), Hợp đồng quyền bán (Put Options) …
CTCK tham gia kinh doanh đầu tư vào các hợp đồng này nhằm mục đích hạn
chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu. Ngoài mục đích phòng
vệ, ngày nay tại các nước phát triển, các công cụ phái sinh này không chỉ sử
dụng cho nghiệp vụ phòng vệ mà còn được được sử dụng cho nghiệp vụ kinh
doanh chênh lệch giá và nghiệp vụ đầu cơ.
• Tạo lập thị trường: Là khi CTCK đảm nhận tạo lập thị trường cho các loại trái
phiếu. Các tổ chức này thường được UBCKNN cấp phép thực hiện nắm giữ một
lượng trái phiếu đủ lớn và thực hiện mua bán theo yêu cầu nhằm tạo tính thanh
khoản cho trái phiếu. Nhà tạo lập thị trường có thể thu được lợi tức đầu tư từ
trái tức, phần chênh lệch tăng giá trái phiếu và tiền hoa hồng khi thực hiện môi
giới cho các nhà đầu tư, được miễn giảm thuế, miễn giảm phí giao dịch, được
miễn phí thông tin, thuê trang thiết bị với giá rẻ và các hỗ trợ khác. Khi tham
gia thị trường với tư cách là nhà tạo lập thị trường, CTCK có thể hoạt động giao
dịch dưới hai hình thức là hoạt động tự doanh - mua bán trái phiếu cho chính
mình bằng nguồn vốn của công ty hoặc hoạt động môi giới - làm môi giới đại lý
trái phiếu cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
+ Hoạt động tự doanh: Khác với tự doanh trái phiếu tại các CTCK khoán
khác, công ty có thể mua hoặc không mua, có thể bán hết lượng trái phiếu mình
nắm giữ nếu cần. Còn hoạt động tự doanh của CTCK với tư cách là nhà tạo lập
thị trường thì CTCK luôn phải nắm giữ một lượng nhất định trái phiếu đủ lớn để
sẵn sàng bán khi có nhu cầu đặt mua đồng thời phải dự trữ ngân quỹ khi nhà
đầu tư có yêu cầu bán. Khi đó CTCK với vai trò là nhà tạo lập thị trường đồng
thời thực hiện quản lý ngân quỹ và đầu tư.
+ Hoạt động môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian): Không chỉ đứng ra
thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và hưởng hoa hồng giống như các
thành viên giao dịch khác, với tư cách là nhà tạo lập thị trường, khi lệnh đặt
mua đến nhưng nhà tạo lập TTTP không đủ số trái phiếu đặt mua trong tài

khoản của mình hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo lập thị trường không đủ
khả năng để mua toàn bộ lượng trái phiếu đặt bán của khách hàng thì khi đó nhà
tạo lập thị trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thỏa mãn toàn bộ hoặc một
phần khối lượng đặt mua của khách hàng đặt ra bằng cách tìm đến một nhà tạo
lập thị trường khác.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo hình thức này có thể
giúp nhà quản trị CTCK kiểm soát được lượng tiền sử dụng cho hoạt động kinh
doanh trái phiếu theo các hình thức đã được xác định.
1.1.2.3. Quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Hiện nay, hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán nói chung và
trái phiếu nói riêng là một công cụ hữu hiệu không chỉ cho các nhà đầu tư tổ
chức mà còn cho cả các nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, hoạt động quản lý danh
mục đầu tư trái phiếu là nhu cầu quản lý danh mục đầu tư trái phiếu trong kho
tự doanh của CTCK, trong kho đối với CTCK là nhà tạo lập TTTP hoặc danh
mục trái phiếu được ủy thác quản lý của các nhà đầu tư. Tiền đầu tư trái phiếu
có thể là tiền tự có của CTCK hoặc tiền ủy thác của các nhà đầu tư trong đó
CTCK cam kết trả thanh toán cho nhà đầu tư với một tỷ lệ lãi và kỳ trả lãi nhất
định.
• Vai trò của quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Cũng như các nhà đầu tư kinh doanh khác, CTCK luôn mong muốn lợi
nhuận cao nhất mà rủi ro nếu thua lỗ là thấp nhất. Vì vậy, nhu cầu đa dạng hóa
danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro tránh “cho trứng vào cùng một rỏ” để
giảm nguy cơ thua lỗ khi trái phiếu giảm giá là rất rõ ràng. Nếu dồn toàn bộ tiền
của mình vào một loại trái phiếu như TPDN thì khi nhà phát hành trái phiếu rơi
vào tình trạng làm ăn thua lỗ, không trả được trái tức, CTCK sẽ gặp bất lợi
trong việc thu hồi tiền hoặc chỉ kinh doanh TPCP mặc dù rủi ro là rất thấp vì
khả năng Chính phủ không trả được tiền là hầu như không có nhưng cơ hội để
thu được lợi nhuận cao lại thấp hơn so với TPDN.
Như vậy, nếu với một khoản tiền, CTCK “rải” ra nhiều loại trái phiếu
khác nhau, thì tính tổng khoản đầu tư, rủi ro của trái phiếu này sẽ được bù đắp

khoản trái tức hoặc chênh lệch giá của trái phiếu khác. Đó chính là đa dạng hóa
đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
• Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Việc lựa chọn một chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu là rất
quan trọng trong quá trình hoạch định hướng đầu tư của CTCK. Có ba chiến
lược quản lý danh mục đầu tư mà CTCK có thể lựa chọn đó là chiến lược quản
lý thụ động, chiến lược quản lý bán chủ động và chiến lược quản lý chủ động.
- Chiến lược quản lý thụ động
Chiến lược quản lý thụ động là chiến lược mua và nắm giữ trái phiếu cho
đến khi đáo hạn mà không cần quan tâm đến các biến động của lãi suất. Đối với
chiến lược này, về cơ bản khong cần phân tích dự báo tình hình của biến động
lãi suất, song người đầu tư vẫn cần có sự phân tích để đa dạng hóa danh mục
nhằm giảm thiểu rủi ro và xác định số lượng trái phiếu đưa vào danh mục phù
hợp với danh mục đầu tư. Theo phương pháp này, tốt nhất là đầu tư vào các
danh mục có thành phần trái phiếu tương tự như các chỉ số trên thị trường nhằm
thu được kết quả tương tự của chỉ số đó.
Các bước tiến hành khi thực hiện chiến lược đầu tư thụ động như sau:
Bước 1: Lựa chọn chỉ số trái phiếu:
Trên thị trường có nhiều loại trái phiếu có mức độ rủi ro khác nhau. Do
vậy, nhà quản lý danh mục đầu tư thụ động cũng cần phải xem xét hai yếu tố để
quyết định nên đầu tư theo danh mục loại nào. Yếu tố thứ nhất là xác định mức
độ rủi ro thanh toán mà CTCK có thể chấp nhận được. Nếu lựa chọn danh mục
dựa trên chỉ số chứa đựng hoàn toàn trái phiếu công ty thì sẽ phải gặp rủi ro tín
nhiệm hơn là chỉ số TPCP. Nếu mức rủi ro quá cao không thể chấp nhận được
thì tốt nhất không nên dựa vào chỉ số đó để lập danh mục. Vấn đề thứ hai là phải
tuân theo mục tiêu của công ty đề ra. Chẳng hạn lợi suất của các chỉ số có thể
khá đồng đều, song độ biến thiên của chúng lại khác nhau mỗi khi có biến động
lãi suất. Do vậy, nếu mục tiêu của người đầu tư là lựa chọn những danh mục có
biến thiên lợi suất thấp thì cần phải đầu tư theo chỉ số có thời gian đáo hạn bình
quân rất ngắn.

Bước 2: Phương pháp đầu tư:
Khi người quản lý danh mục đầu tư đã quyết định được nên đầu tư theo
chỉ số nào thì bước tiếp theo là phải xây dựng danh mục đầu tư theo phiên bản
của chỉ số đó. Để thực hiện công việc này thì người quản lý có thể tiến hành
theo một số cách sau:
Thứ nhất: Mua tất cả các trái phiếu có trong chỉ số chuẩn mà mình cần
tuân theo, với tỷ trọng đầu tư vào mỗi trái phiếu bằng tỷ trọng trái phiếu đó
CTCK chiếm trong chỉ số chuẩn.

×