Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK ở VN trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.42 KB, 18 trang )

Điều kiện và khả năng phát triển QĐTCK ở VN trong
giai đoạn hiện nay.
I. Khái quát chung về hoạt động TTCK Việt Nam.
1. Quá trình hình thành và phát triển TTCK VN.
Lịch sử quá trình dựng nớc và giữ nớc của Việt Nam đã kéo dài suốt hơn
4000 năm. Qua mỗi giai đoạn lịch sử nhất định các hình thái kinh tế dần đợc hình
thành và phát triển từ thấp đến cao. Qua vài thập kỷ gần đây, Việt Nam đã có
những bớc chuyển biến kinh tế đợc coi là có ý nghĩa giúp Việt Nam vơn lên phát
triển đó là việc chấm dứt hẳn nền kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, đặt
bớc chân đầu tiên vào ngỡng cửa cơ chế thị trờng vào năm 1986. Và từ đó một cơ
chế mới đợc xác lập: cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong điều
kiện cơ chế kinh tế mới đòi hỏi phải phát triển thêm nhiều loại thị trờng đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Từ những thị trờng tiền tệ đáp ứng nhu cầu vốn
ngắn hạn đến thị trờng tài chính phát triển cao là TTCK cung cấp vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế. Có thể nói TTCK là thị trờng phát triển cao nhất do nhiều đặc
tính hữu ích của nó. Và ở Việt Nam ta, đứa con tinh tuý nhất của nền kinh tế đã ra
đời vào ngày 20/7/2000 đánh dấu mốc lịch sử phát triển của thị trờng Việt Nam.
Đây là sự kiện trọng đại và có ý nghĩa, nó là kết quả của cả quá trình thai nghén
trong nhiều năm. Từ cơ sở đầu tiên cho nó ra đời đó là quá trình CPH các DNNN
diễn ra từ năm 1990 và đến nay đã có trên 970 công ty cổ phần đang hoạt động
làm ăn có hiệu quả tạo nguồn hàng dồi dào cho TTCK. Cho đến hành lang pháp lý
đó là sự ban hành hai nghị định quan trọng. Thứ nhất là nghị định 64/2002/NĐCP
ngày 19/06/02 về chuyển DNNN thành CTCP. Và thứ hai là nghị định
48/98/NĐCP ngày 11/07/1998 về CK và TTCK. Hai nghị định này là xơng sống
cho sự tồn tại và phát triển của TTCK. Không chỉ có vậy, kèm theo đó là hàng loạt
các thông t hớng dẫn nghị định và các quy chế có liên quan trong đó có quyết
định 05/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 về việc ban hành quy chế về tổ chức
và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Một TTCK hoạt động trong
một khuôn khổ pháp luật và một nguồn hàng hoá tiềm năng, cho đến nay sau hơn
hai năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có 19 công ty tham gia niêm yết và 27
loại TP lu hành trên TTCK với tổng giá trị CK niêm yết xấp xỉ 4000 tỷ đồng bao


gồm cả CP và TP. Tổng khối lợng các loại CK đợc đa vào niêm yết là hơn 1 triệu
chứng khoán. Chỉ số chứng khoán VN-index xuất phát điểm là 100 ngày
20/07/2000 đến nay đã đạt 177,25 điểm vào phiên dao dịch ngày thứ Sáu
01/11/2002. Mức cao nhất đạt đợc của VN-index ngày 25/06/01 với đỉnh điểm
571,04 điểm. Đã có 9 CTCK đợc thành lập và hoạt động. Quy mô TTCK VN mặc
dù còn nhỏ bé so với TTCK các nớc khác (thông qua bảng số liệu so sánh dới đây)
nhng theo định hớng của CP và UBCKNN, TTCK Việt Nam sẽ phát triển từng bớc
từ thấp đến cao ban đầu là TTGDCK dần tiến tới hình thành SGDCK. Phát triển
TTCK tập trung đi liền phát triển thị trờng GD phi tập trung (OTC) hoặc thị trờng
bảng II dành cho các công ty nhỏ. Số lợng công ty niêm yết không chỉ dừng ở
mức đếm trên ngón tay mà sẽ tăng lên khoảng vài trăm công ty tham gia trên
TTCK. Số lợng nhà đầu t tham gia thị trờng trong những năm tới dự kiến sẽ đạt
300.000 nhà đầu t trong đó đặc biệt chú trọng đến lợng nhà đầu t là các tổ chức và
phần lớn là các QĐTCK. Cho đến nay ở Việt Nam mới hình thành TTGDCK
TPHCM. Dự kiến sắp tới UBCKNN sẽ cho thành lập thêm một thị trờng ở Hà Nội
đó là bảng II đáp ứng nhu cầu cho các công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện
niêm yết trên TTCK bảng I. Ngoài quá trình tạo cung hàng hoá cho thị trờng nh
đẩy nhanh tiến độ CPH không chỉ các doanh nghiệp Nhà nớc mà còn đối với cả
các doanh nghiệp vốn đầu t nớc ngoài, việc tạo cầu đáp ứng thị trờng cũng đang đ-
ợc gấp rút tiến hành. Lợng cầu thị trờng không chỉ xoay quanh các nhà đầu t cá
nhân mà đang chú trọng tập trung vào nhà đầu t là tổ chức đặc biệt là các
QĐTCK. UBCKNN đã có quyết định 05/98/QĐ-UBCK3 về việc ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ và có thể coi đây là
khung sờn cơ bản cho các QĐTCK ra đời và hoạt động trên TTCK Việt Nam.
Bảng: Quy mô một số TTCK trong khu vực năm 1993.
STT Sở giao dịch Tổng giá trị CK Doanh số giao dịch bình
CK. (USD). quân/ngày (USD).
1 Karachi 11.602.000.000 7.090.000
2 Jakata 32.953.000.000 32.200.000
3 Thái Lan 130.510.000.000 334.360.000

4 Kualalumpur 380.328.000 591.000.000
5 Hàn Quốc 139.420.000.000 814.270.000
6 Thợng Hải &
Thâm Quyến
40.567.000.000 166.9000.000
(Nguồn :Tạp chí tài chính, số chuyên đề chứng khoán, năm 1998).
2. Tình hình hoạt động của các QĐTCK tại Việt Nam.
Quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK Việt Nam đã đợc CP xúc tiến từ
năm 1994. Những năm sau đó các VBPL liên quan đến CK và TTCK dần đợc ban
hành nh Nghị định 48/1998/QĐ UBCK3 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ. Mặc dù hành lang pháp lý đã đợc ban
hành nhng đến thời điểm hiện nay cha có một QĐTCK cũng nh công ty quản lý
quỹ nào ở Việt Nam đợc thành lập. Tuy nhiên đã có một số quỹ đầu t trong nớc
tồn tại dới dạng quỹ hỗ trợ đầu t QG, quỹ đầu t phát triển đô thị (gồm các quỹ
ĐTPT HCM, Bình Định, Hải Phòng, Bình Dơng, Đồng Nai và Đồng Tháp. Các
quỹ này chủ yếu huy động vốn cho đầu t phát triển thông qua hình thức phát hành
trái phiếu hoặc huy động vốn qua TTCK. Nó có thể tham gia hoạt động thị trờng
vốn nh kinh doanh chứng khoán, môi giới CK và các dịch vụ khác theo quy định
của pháp luật về CK và kinh doanh CK. Ngoài ra các quỹ ĐTPT có thể thành lập
QĐTCK tham gia hoạt động trên thị trờng chứng khoán. Hiện có nhiều lý do
khác nhau để giài thích cho sự vắng bóng của các QĐTPT trên TTCK. Chẳng hạn,
các quỹ này do không sử dụng hết VĐT, vốn đóng góp khác nên cha có nhu cầu
huy động thêm vốn từ TTCK hoặc nếu có nhu cầu thì lại cha xác định rõ chủ thể
phát hành do khó khăn về cấu trúc tổ chức quỹ. Có quỹ tham gia mua cổ phiếu
của các DN CPH nhng mức độ không nhiều.Mặt khác, hầu hết ngời Việt Nam đều
không biết và không hiểu gì về CK và TTCK do đó số lợng ngời đầu t vào TTCK
không nhiều. Và TTCK Việt Nam mới thành lập có quá ít công ty tham gia niêm
yết trên TTGDCK, thị trờng luôn xuất hiện tình trạng thiếu hàng nên QĐTCK
không có đất sống. Một lý do nữa là các nhà đầu t chứng khoán muốn tự mình
đầu t hởng lợi chứ không muốn chia sẻ lợi nhuận với công ty quản lý quỹ bởi họ

thấy TTCK Việt Nam hay hoạt động cha có gì phức tạp. Họ tham gia đầu t vào
TTCK chỉ đơn thuần là mua cổ phiếu rồi chờ lên giá để hởng chênh lệch. Nh vậy
tơng lai cho các QĐTCK Việt Nam thành lập vẫn còn mập mờ phía trớc.
Tình hình trên mới xét yếu tố trong nớc. Trong khi Việt Nam đang dần mở
cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới thì không thể không xét đến sự tham gia của
các QĐTCK nớc ngoài. Vậy hiện nay ở Việt Nam có bao nhiêu QĐTCK nớc
ngoài đang hoạt động? Chúng ta cùng đi tìm câu trả lời từ thực tế hoạt động của
các QĐTCK nớc ngoài tại Việt Nam. Các QĐT nớc ngoài đặt chân sớm nhất vào
Việt Nam từ năm 1991 với sự trình diện đầu tiên của Viêt Nam Fund Limited.
Những năm sau đó, các quỹ đầu t nớc ngoài đã nhanh chóng đợc thành lập nhằm
chớp cơ hội tại thị trờng mới mẻ. Có gần 400 triệu USD đã đợc 6 quỹ đầu t nớc
ngoài: Lazard Viet Nam Fund (Pháp); Beta VietNam Fund (Anh); VietNam
Frontier Fund (Mỹ-Pháp); Templeten VietNam Oppturnities Fund (Mỹ); VietNam
Fund (Singapore) và VietNam Enterprise Investment Ltd (do công ty Dragon
Capital-Singapore quản lý) mang vào thị trờng vốn với tham vọng trở thành ngời
kiến tạo thị trờng tài chính trực tiếp taị Việt Nam. Tất cả các QĐT nói trên đều là
những quỹ đầu t chuyên nghiệp, đợc điều hành bởi những quản trị viên xuất sắc
(trong đó có cá các quản trị viên Việt Nam nổi tiếng trong giới đầu t quốc tế), hầu
hết các QĐT đều đầu t vào Việt Nam theo mô hình quỹ vốn mạo hiểm đóng, và
đầu t trực tiếp vào các dự án. Sở dĩ vậy là do nhiều lý do nhng chính yếu là do khi
quỹ đầu t nớc ngoài đầu t vào Việt Nam theo lối đầu t tài chính, tức đầu t gián
tiếp thông qua nắm giữ cổ phiếu, thì còn gặp không ít cản trở. Đó là lợng công ty
cổ phần hoá còn ít và khi họ đầu t vào công ty cổ phần thì luôn bị coi là ngời lạ và
bị các quản trị viên e dè sợ thôn tính. Do đó, thay vì tỷ lệ đầu t thông lệ 18% vốn
vào các dự án mới nh nguyên tắc đầu t quốc tế thì 6 quỹ đầu t tại Việt Nam phải
dốc tới 70% vốn vào các dự án mới có nhiều rủi ro. Các dự án mà các quỹ đầu t
nhắm tới là các dự án có vốn đầu t nớc ngoài hoặc công ty 100% vốn nớc ngoài.
Chỉ có quỹ đầu t Dragon Capital là đầu t vào một số cổ phiếu của các công ty
trong nớc đang niêm yết trên TTCK nh công ty cổ phần cơ điện lành (REE), công
ty cổ phần đồ hộp Hạ Long (Canfoco), công ty CP sản xuất và chế biến hàng xuất

khẩu Long An (Lafoco), công ty cổ phần nớc giải khát Sài Gòn (Tribeco) và công
ty sản xuất & xuất nhập khẩu Bình Thạnh (Gilimex). Số lợng các quỹ đầu t nớc
ngoài tăng mạnh trong những năm trớc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Sau
đó số quỹ giảm dần. Năm 1991 có một quỹ, đến năm 1995 tăng lên đến 8 quỹ và
từ năm 1996 đến năm 1998 giảm xuống còn 5 quỹ. Hiện nay, lợng quỹ đầu t trên
thị trờng giảm xuống còn 4 quỹ và mới đây có thêm qũy đầu t Mekong Enterprise
Fund thuộc đảo Cayman và Wareham Group Ltd (WGL) do Diagon Capital quản
lý khai trơng hoạt động tại Việt Nam.
Bảng: Quỹ đầu t mạo hiểm ở Việt Nam.
1991 1995 1998 2000**
Số quỹ hoạt động 1 8 5 4
Số vốn quản lý (triệu $) 10 303 275
Số công ty thuộc danh mục 1 56* 51
Vốn huy động mới 10 53 0 46
Nguồn: Wiliam Scheela và Nguyễn Văn Định.
*: Số liệu năm 1996.
**: Báo cáo tổng kết hoạt động các quý năm 2000.
Từ khi quỹ đầu tiên bắt đầu vào Việt Nam, số vốn huy động cao nhất là 30
triệu $. Số tiền này đợc đầu t vào 56 công ty năm 1996. Tới năm 1998 số công ty
thuộc danh mục giảm xuống còn 51 và đến năm 2000 số công ty thuộc danh mục
đầu t là 46 công ty. Về cơ cấu vốn huy động, có tới 82% đợc huy động từ ngoài
châu á, không có phần nào vốn đầu t của các quỹ đợc huy động ở Việt Nam. Sau
đây là bảng tình hình hoạt động của các quỹ đầu t đang hoạt động tại Việt Nam
(Bảng ngang).
Trong quá trình hoạt động, các quỹ đầu t nớc ngoài đều gặp khó khăn, vốn
huy động và giá chứng chỉ quỹ đầu t đều giảm. Có duy nhất Dragon Capital (Việt
Nam Enterprise Investment Ltd) là quỹ thành công nhất tại Việt Nam, nó đầu t
vào nhiều lĩnh vực khác nhau và thu đợc nhiều thành quả nhất định. Vốn huy
động của quỹ tăng từ 16,5 triệu $ lên 21,87 triệu $ trong tháng 8/2000 và tính đến
thời điểm 10/2002 số vốn mà quỹ huy động đã lên đến 65 triệu $ và 52 triệu $ đã

đợc đầu t vào 30 doanh nghiệp tại Việt Nam dới hình thức góp vốn mua cổ phần,
tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp trong nớc (chiếm đến 80%). Theo ông
Dominic Scriven, GĐ quỹ Dragon Capital, trong thời gian tới đối tợng mà quỹ
nhắm tới cũng vẫn là các doanh nghiệp trong nớc gồm các doanh nghiệp nghiệp
cổ phần các loại và cả những Công ty TNHH có ý định chuyển thành công ty cổ
phần. Lĩnh vực chú trong đầu t của quỹ là tài chính-ngân hàng, hàng tiêu dùng
trong nớc, sản xuất nông lâm-hải sản, tin học và cơ sở hạ tầng.
Để giải thích cho những kết quả không nh mong muốn của các quỹ đầu t n-
ớc ngoài tại Việt Nam, có một số lý do sau: Thứ nhất, hành lang pháp luật của
Việt Nam không theo kịp nhịp đập thị trờng. Các quỹ đầu t chứng khoán có tầm
nhìn xa trông rộng về phía thị trờng Việt Nam nhng lại không có sự hậu thuẫn đầy
đủ từ phía Nhà nớc. Thiếu điều kiện này cộng thêm sự dè chừng khi họ ở vị thế
của những đối tác nớc ngoài đã khiến các quỹ đầu t này không thể tiếp cận đến
những cơ hội đầu t thuận lợi. Giới hạn của luật đầu t nớc ngoài và gần đây nhất là
luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nớc ngoài nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu
của một tổ chức phát hành làm cho tác động của các quỹ đầu t với các đối tác
hoàn toàn không đủ mạnh. Khi nghị định 48/98 về chứng khoán và TTCK và kèm
theo đó có quyết định 05/1998/QĐ-UBCK3 ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của QĐTCK và công ty quản lý quỹ ra đời thì mặc dù có quy định về hoạt
động của QĐTCK song khi áp dụng quyết định này vào quỹ đầu t nớc ngoài lại v-
ớng phải một số bất cập: chẳng hạn, khhoản 1 điều 3 của quy chế nêu rõ:
QĐTCK là quỹ hình thành từ vốn góp của ngời đầu t, đợc uỷ thác cho công ty
quản lý quỹ quản lý và đầu t vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của
quỹ hay khoản 2 điều 14 quy định công ty quản lý không đợc phép dùng vốn và
tài sản của một quỹ để đầu t quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lu hành của
một tổ chức phát hành, và không đợc đầu t quá 20% tổng giá trị tài sản của một
quỹ vào chứng khoán đang lu hành của một tổ chức phát hành và khoản 3 điều
14 của quy chế quy định : công ty quản lý quỹ không đợc phép dùng vốn và tài
sản của các quỹ vốn và tài sản của các quỹ do mình quản lý mua quá 49% tổng
giá trị chứng khoán đang lu hành của một tổ chức phát hành hoặc một công ty

không niêm yết. Nếu áp dụng những điều này trong điều kiện hiện nay, hầu hết
các doanh nghiệp có mức vốn dới 10 tỷ, thì tỷ lệ vốn mà QĐT đầu t vào một
doanh nghiệp trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp. Mặt khác do tỷ lệ thấp
nên buộc quỹ phải đầu t vào nhiều doanh nghiệp khác nhau làm cho chi phí quản
lý tăng lên dẫn đến hầu hết các quỹ đều không có lãi.
Lý do thứ hai đó là quan ngại của Chính phủ về những rủi ro do hình thức
đầu t gián tiếp mang laị mang lại cho nền tài chính quốc gia sau cuộc khủng

×