Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.25 KB, 32 trang )

Một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm kết hợp con người
I. sự cần thiết khách quan của bảo hiểm kết hợp con người
1.Sự cần thiết của bảo hiểm con người .
ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lưọng sản
xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội. Con người là vốn
quý cho sự phát triển xã hội. Một xã hội muốn phát triển thì đời sống của con người
phải được đảm bảo về mọi mặt, vật chất cũng như văn hoá tinh thần.Đây chính là
mục tiêu mà mỗi quốc gia cần vươn tới nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con
người .Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong lao động sản xuất,dù con người
có hết sức chú ý đề phòng nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, gây thiệt hại lớn
về tài sản và tính mạng. Những rủi ro này có thể do thiên nhiên, do sự phát triển của
lực lượng sản xuất, do tiến bộ khoa học kĩ thuật,do môi trường xã hội… Vì thế để
đối phó với những rủi ro trên , con người cần phải có những sự chuẩn bị cần thiết về
mặt tài chính nhằm trang trải những chí phí phát sinh khi có rủi ro bất ngờ xảy ra.
Khi gặp rủi ro , bản thân người bị tai nạn về tính mạng hoặc thân thể , thậm chí là
tính mạng thương tật suốt đời. Gia đình người bị nạn phải gánh chịu nỗi đau khi
nhìn thấy con, em mình trở thành thương tật tàn phế … Đó là những mất mát không
gì và không ai có thể bù đắp được. Nhưng ngoài những mất mát đó, người bị nạn và
gia đình họ còn phải gặp những tổn thất về tài chính. Người bị nạn sẽ giảm thu nhập
( trong một thời gian hoặc thậm chí vĩnh viễn ),còn gia đình họ phải trang trải những
chi phí nhằm phục hồi sức khoẻ cho người bị nạn như : tiền thuốc men ,viện phí,
tiền phẫu thuật …hoặc các chí phí khác cho việc mai táng, tang lễ
Những chí phí này dù lớn hay nhỏ song trong điều kiện thu nhập của đại đa số
nhân dân lao động còn thấp, đã thực sự trở thành mối quan tâm lo lắng và gây ra
những khó khăn nhất định đối với việc khắc phục hậu quả, phục hồi sức khoẻ cho
nạn nhân .
Vì vậy nhu cầu về tài chính dự trữ với mục đính đảm bảo ổn định cuộc sống là
rất cần thiết cho mọi người.Để có được nguồn tài chính đó, họ có thể làm bằng hình
thức tiết kiệm hoặc tham gia bảo hiểm .Mục đích của tiết kiệm là thu được một
khoản tiền lớn hơn trong khoảng một thời gian nhất định so với số tiền ban đầu và
dùng khoản tiền đó để bù đắp cho các chí phí phát sinh . Biện pháp này có yếu tố


tích cực song còn tồn tại những những nhược điểm không đáp ứng được tính bất
ngờ của sự cố, tức là trường hợp số tiền tiết kiệm chưa đủ lớn đã gặp phải rủi ro bất
ngờ . Bảo hiểm ra đời có thể coi là biện pháp tối ưu để khắc phục hậu quả .
Theo khái niệm chung nhất, ta có thể hiểu: “Bảo hiểm là hoạt động mà người
bảo hiểm đứng ra cam kết bồi thường theo nguyên tắc số đông bù số ít cho người
tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm với điều kiện
người được bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ
ba”.Như vậy thiệt của một người sẽ được phân tán cho nhiều người trong cộng
đồng. Điều này dẫn tới việc một tổn thất tưởng như vượt qua sức chịu đựng của một
người lại có thể được chia nhỏ ra, phù hợp với khả năng gánh vác của nhiều người.
Tham gia bảo hiểm con người chính là người được bảo hiểm đánh đổi một phần tài
chính nhỏ để lấy một sự an toàn trong cuộc sống . Họ sẽ giảm bớt được gánh nặng
mà nếu không tham gia bảo hiểm , họ sẽ phải tự trang trải tất cả chi phí đó .
Bảo hiểm con người là hợp đồng bảo hiểm rằng buộc trách nhiệm của người
tham gia bảo hiểm , người được bảo hiểm và người bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn
định đời sống con người được bảo hiểm trước rủi ro , tai nạn hoặc những sự cố bất
ngờ xảy ra .Theo hợp đồng bảo hiểm ,người bảo hiểm cam kết trả cho người được
bảo hiểm hoặc cá nhân những người khác như người được uỷ quyền ,người thừa kế
hợp pháp theo pháp luật số tiền bảo hiểm đã được ấn định trước phù hợp với rủi ro
,tai nạn theo các điều kiện cam kết xảy ra. Số tiền bảo hiểm được chi trả không phụ
thuộc vào số tiền bảo hiểm xã hội và đảm bảo xã hội cũng như số tiền chi trả hợp
đồng bảo hiểm khác cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm với cùng một rủi ro
tai nạn xảy ra.Người tham gia cam kết đóng phí đầy đủ và đúng thời hạn quy định
như đã ghi trong hợp đồng. Trong đại bộ phận các nghiệp vụ bảo hiểm con người,
số tiền bảo hiểm, các khoản trợ cấp được ấn định trước trên hợp đồng bảo hiểm
.Những khoản tiền này được xác định dựa trên sự lựa chọn của người tham gia bảo
hiểm –người duy nhất có thể ước tính được số tiền mà anh ta hoặc những người
thân thích của anh có nhu cầu. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, các khoản trợ cấp, số
tiền bảo hiểm được người bảo hiểm thanh toán không nhằm mục đích bồi thường
thiệt hại, đây là số tiền bảo hiểm mang tính chất khoán. Do không ai có thể định giá

được con người và không có công ty bảo hiểm nào có thể cung cấp một con người
“như cũ” khi anh ta đã thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi hay bất kỳ rủi ro gây
thiệt hại khác, các công ty bảo hiểm chỉ có thể chi trả một lượng tiền không lớn hơn
số tiền bảo hiểm mà người đó tham gia trong trường hợp anh ta gặp rủi ro .
Việt Nam đã và đang xây dựng một nhà nước của dân do dân và vì dân. Đại
hội VII đã khẳng định: “Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con
người và lấy phục vụ con người là cao nhất”.Để thực hiện mục tiêu này,Đảng và
Nhà nước đã có những chính sách khác nhau nhằm bảo vệ con người không may rủi
ro .
Về bảo hiểm xã hội : Bảo hiểm xã hội Việt Nam được Nhà nước tổ chức quản
lý và bảo hộ. Việc lập quỹ tiền tệ do sự đóng góp dần dần theo theo thời gian của
người lao động dựa trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ xã hội để đảm bảo cho
người lao động có phần thu nhập, trang trải cho nhu cầu thiết yếu khi bị suy giảm
hoặc mất khả năng lao động. Đối tượng của bảo hiểm xã hội là người lao động mà
trước hết là công nhân viên làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao động trở lên, lao động trong các lực lượng vũ
trang do Nhà nước tổ chức.Quỹ bảo hiểm do sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động và một phần bù thiếu của Nhà nước. (Do đó phí bảo hiểm
không dựa trên tỷ lệ phí với quyền lợi của họ được hưởng). Người tham gia bảo
hiểm được hưởng quyền lợi trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí,tử tuất. Quyền lợi này phụ thuộc vào thời gian
đóng góp bảo hiểm xã hội và mức đóng phí bảo hiểm xã hội.Tuy nhiên đối tượng
của bảo hiểm xã hội không phải là toàn bộ người lao động cũng không phải là toàn
bộ nhân dân.
Bảo hiểm y tế: Mục đích của bảo hiểm y tế Việt Nam được Nhà nước tổ chức
quản lý và bảo hộ, viêc lập quỹ là để có thêm nguồn tài chính tăng cường chất lượng
khám chữa bệnh cho nhân dân. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bao gồm cả bắt buộc
và tự nguyện nhưng chủ yếu là chế độ quy định bắt buộc của Nhà nước đối với công
nhân viên hành chính sự nghiệp, cán bộ hưởng lương làm việc trong các nhà máy, xí

nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, người lao động trong các doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có từ 10 lao động trở lên. Tuy
nhiên với sự phát triển của xã hội, đối tượng tham gia bảo hiểm y tế ngày càng
nhiều, phải kể đến đầu tiên là nông dân, đây là đối tượng chiếm tỷ lệ đông đảo trong
toàn bộ dân số, kế tiếp là người buôn bán nhỏ ở nông thôn và thành thị. Phí bảo
hiểm không thống nhất cho mọi đối tượng tuỳ thuộc vào mức lương và đối tượng
tham gia( khối hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh hoặc cá nhân). Quyền lợi
mà người đóng bảo hiểm được hưởng là dich vụ y tế khám chữa bệnh trong bệnh
viện theo phác đồ của Bộ y tế. Theo quyết định mới của bảo hiểm y tế Việt Nam thì
người tham gia trả 20% chi phí điều trị còn 80% chi phí khám chữa bệnh do bảo
hiểm trực tiếp trả cho bệnh viện.
Trên đây là một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước, xã hội cho con người.
Song đối tượng của chính sách này cũng chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định,
không đáp ứng được nhu cầu được bảo vệ của mọi thành viên trong xã hội, đòi hỏi
mỗi thành viên tự tìm cho mình một hình thức bảo vệ mình khi gặp rủi ro gây thiệt
hại xảy ra. Nhìn chung bản thân mỗi con người đều phải có những khoản dự trữ
nhất định, không phải lúc nào các khoản dự trữ này cũng đảm bảo thoả mãn được
nhu cầu khi bất trắc xảy ra. Vì vậy hình thức dự trữ có hiệu quả nhất và có tác dụng
thiết thức nhất trong việc khắc phuc rủi ro là tham gia bảo hiểm.
Bảo hiểm con người là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm thương mại hay
có thể gọi là bảo hiểm thương mại về con người. Hiện nay trên thế giới có 8 nghiệp
vụ về bảo hiểm con người:
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
- Bảo hiểm tai nạn chết người và mất khả năng lao động.
- Bảo hiểm cá nhân do tai nạn bất ngờ.
- Bảo hiểm công nhân viên chức do cơ quan xí nghiệp đài thọ phí
- Bảo hiểm trẻ em.
- Bảo hiểm tai nạn hành khách.
- Bảo hiểm du du lịch.
- Bảo hiểm tiền hưu.

Ngoài ra còn có bảo hiểm cưới xin và bảo hiểm cácbộ phận trên thân thể con
người. Tuy nhiên ở Việt Nam, triển khai bảo hiểm thương mại về con người có các
nghiệp vụ sau:
- Bảo hiểm hành khách, triển khai, năm 1981
- Bảo hiểm tai nạn lao động năm, 1987
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm sinh mạng cá nhân, năm 1990
- Bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật, năm 1994
- Bảo hiểm kết hợp con người, năm 1994
- Bảo hiểm tai nạn học sinh, năm 1985
- Bảo hiểm nhân thọ, năm 1996
Mục đích: bảo hiểm toàn bộ thân thể người được bảo hiểm là một hình thức bổ
sung cho bảo hiểm cho bảo hiểm xã hội nhằm ổn định đời sống cho mọi thành viên
trong xã hội trước những rủi ro về thân thể, tính mạng, giảm sút thu nhập. Tức là
người bảo hiểm thanh toán những khoản tiền quy định trong trường hợp xảy ra
những sự kiện tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm.
Đối tượng: Đối tượng của bảo hiểm con người là tính mạng và tình trạng sức
khỏe, khả năng lao động và tuổi thọ của con người.
Hình thức tham gia: Chủ yếu dưới hình tự nguyện, không bắt buộc các đối
tượng tham gia.
Phí bảo hiểm: Mức đóng góp theo các quy định trong biểu phí của công ty bảo
hiểm triển khai thực hiện trên cơ sở giám sát, không lớn hơn cũng không nhỏ hơn
biểu phí quy định của Bộ Tài Chính.
Quyền lợi: Là các chế độ bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo hiểm mà
theo đó người tham gia bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ
được nhận số tiền chi trả từ cơ quan bảo hiểm khi có rủi ro gây thiệt hại xảy ra
thuộc phạm vi bảo hiểm.
Cách chi trả: Công ty thanh toán tiền cho người được bảo hiểm theo sự thoả
thuận giữa Công ty bảo hiểm và người tham gia ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu để bảo vệ con người bảo hiểm đã ra

đời và đặt quyền lợi của con người lên trên hết luôn tạo cho con người sự tin tưởng,
sự an tâm trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Khi xã hội ngày càng phát triển, đời
sống của người dân được cải thiện, ngoài nhu cầu cho tồn tại, con người cần có nhu
cầu về tinh thần. Sự an tâm về cuộc sống chính là nhu cầu không thể thiếu được,
điều này dẫn đến nhu cầu bảo hiểm ngày càng được coi trọng, phát triển và đa dạng
hoá. Chúng ta đã tiến hành bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật để đáp ứng nhu cầu đó và chính bản thân các nghiệp vụ
này cũng đang được mở rộng về các mức phí khác nhau.
Song ba quy tắc bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân và
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, mỗi quy tắc có phạm vi bảo hiểm riêng, đáp
ứng nhu cầu riêng của ngượi tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề
còn bất cập, đồng thời cũng không phát huy được tác dụng nếu ba quy tắc này áp
dụng tách rời nhau. Nếu một người tham gia bảo hiểm đồng thời cả ba loại hình bảo
hiểm trên, chắc chắn sẽ gây ra sự trùng lặp, khó khăn trong việc quản lý, lãng phí
giấy tờ không cần thiết.
Vì vậy tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong việc triển khai, thực
hiện và quản lý hợp đồng cũng như đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo
hiểm, ngày16/07/1994 Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã ban hành
điều khoản về bảo hiểm kết hợp con người số1085/PHH94 ngày16/06/1994. Công
ty bảo hiểm Hà Nội trực tiếp triển khai bảo hiểm kết hợp sinh mạng cá nhân, tai nạn
24/24 và trợ cấp nằm viện phẫu thuật cho mọi người từ 1 tuổi (12 tháng tuổi) đến 65
tuổi ngày 01/08/1994.
2. Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam
a) Vài nét về thị trường bảo hiểm con người ở Việt Nam
Với 80 triệu dân, Việt Nam là nước đông dân cư đứng hàng thứ 13 trên thế giới.
Cơ cấu dân số trẻ, nguồn nhân lực dội dào đã trở thành một trong những điều kiện
thuận lợi để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trong những năm vừa qua
ở Việt Nam, từ khi Bảo Việt triển khai bảo hiểm thương mại về con người đến
nay đã có 12 nghiệp vụ bảo hiểm con người như:bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo
hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm học sinh, bảo

hiểm du lịch .....
Từ sau nghị định 100 /CP ngày 18/12/1993 của chính phủ về kinh doanh bảo
hiểm, thị trường bảo hiểm Việt Nam sôi động hẳn lên bởi sự ra đời của hàng loạt các
công ty bảo hiểm với loại hình rất đa dạng: công ty bảo hiểm cổ phần, công ty bảo
hiểm Nhà nước, công ty bảo hiểm ngành, công ty liên doanh bảo hiểm .... cùng với
30 văn phòng đại diện của các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài. Sự phát triển
kịnh tế xã hội một mặt cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người dân, động thời
cũng tăng thêm nhận thức của họ về vai trò và tác dụng bảo hiểm.
Từ năm 1994 đến nay, sự ra đời và cạnh tranh ồ ạt của một số công ty bảo hiểm
đã khiến cho thị phần của Bảo Việt giảm sút ít nhiều và doanh thu có phần chững
lại. Nhưng năm 1999, nhóm bảo hiểm con người phi nhân thọ vẫn có mức tăng
trưởng khoảng 4,8%, trong đó có một số nghiệp vụ tăng lên nhanh: bảo hiểm kết
hợp con người (tăng 29%), bảo hiểm khách du lịch tăng(14,1%), bảo hiểm học sinh(
tăng 13,9%)....ở hầu hết các công ty bảo hiểm , tỷ trọng nghiệp vụ bảo hiểm con
người luôn chiếm tỷ trọng khoảng 30% doanh thu của toàn bộ công ty. Đặc biệt
Công ty bảo hiểm Hà Nội là một trong số ít công ty có tỷ trọng này: năm 1998,
doanh thu của nghiệp vụ này đạt 28 tỷ đồng chiếm 32,1% doanh thu phí bảo hiểm
và năm 1999 là 23 tỷ đồng chiếm32,1% doanh thu phí bảo hiểm
Với một thị trường gần 80 triệu dân trong đó khoảng 60% bộ phận dân cư từ 18
tuổi trỏ lên thì người tham gia bảo hiểm mà công ty khai thác được là còn quá nhỏ
bé. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ tính riêng ở Hà Nội trung tâm kinh tế, chính trị
của cả nước-tỷ lệ tham gia bảo hiểm con người trong dân cư chỉ chiếm khơảng
6,72%. Điều này đòi hỏi nhà bảo hiểm, các nhà làm luật phải xem xét lại, nghiên
cứu lại chính sách, chiến lược, cũng như từng mặt công tác nghiệp vụ trong quá
trình cung cấp sản phẩm “bảo hiểm” đến tận tay khách hàng, làm sao để nhà bảo
hiểm và người tham bảo hiểm gặp nhau tại điểm có sản lượng tiềm năng lớn nhất.
b) Cơ sở triển khai bảo hiểm kết hợp con người ở Việt Nam.
ở Việt Nam,bảo hiểm tai nạn con người là nghiệp vụ bảo hiểm về con người
đầu tiên được Bảo Việt triển khai từ năm 1986 dưới hình thức bảo hiểm tai nạn lao
động.Ban đầu nghiệp vụ này có phạmvi bảo hiểm trong giờ hành chính là 8/24 giờ

trong ngày. Sở dĩ Công ty tiến hành phạm vi đó vì do thực tế lúc đó:trình độ dân trí
còn thấp, đại đa số Việt Nam còn chưa biết gì về bảo hiểm cũng như tính ưu việt của
nó,đời sống nhân dân còn khó khăn, ở nhiều nơi nhu cầu vật chất có khi còn không
được đảm, cho nên việc triển khai ở phạm vi rộng là rất khó khăn thực hiện. Mặt
khác nếu công ty tiến hành bảo hiểm 24/24 giờ tại thời điểm đó thì sẽ không kiểm
soát được rủi ro của nghiệp vụ và do đó không đảm bảo kinh doanh có lãi. Tuy
nhiên, trong một số năm,triển khai nghiệp vụ,mặc dù có sự hưởng ứng của người
tham gia bảo hiểm,song nảy sinh nhiều vấn đề, đó là:
Tai nạn rủi ro đối với người lao động có thể xảy ra bất kỳ lúc nào nhưng phạm
vi bảo hiểm chỉ là 8/24. Nếu người lao động gặp tai nạn ngoài giờ hành chính, hoặc
trên đường đi làm từ công sở về nhà thì họ gặp rất nhiều khó khăn, cuộc sống không
đảm bảo do thu nhập thấp, từ đó xuất hiện nhu cầu bảo hiểm ngoài giờ làm việc.
Hơn nữa, khi thời gian bảo hiểm là 8/24 giờ trong ngày thì hiện tượng lập hồ
sơ giả mạo khi tai nạn xảy ra không trong giờ làm việc gây khó khăn cho lớn cho
công ty trong việc kiểm soát và bồi thường.
Vì vậy, nhu cầu bảo hiểm với thời gian 24/24h là một thực tế đối với cả người
được bảo hiểm và người bảo hiểm. Năm 1991,Bảo Việt đã mở rộng phạm vi từ 8/24
sang 24/24 h bao gồm những tai nạn gây thiệt hại đến thân thể người bảo hiểm .Đây
là một bước tiến nhằm thích nghi với tình hình thực tế và đảm bảo cho người tham
gia bảo hiểm yên tâm hơn trong sinh hoạt cũng như trong lao động sản xuất.
Cùng với đó, Bảo Việt đã nghiên cứu và triển khai thêm một số loại hình:bảo
hiểm tai nạn hành khách ,bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách du lịch ...Các loại hình
bảo hiểm đang dần khẳng định được chỗ đứng của nó trên thị trường.Nhưng phạm
vi trách nhiệm của các loại hình bảo hiểm trên còn hạn hẹp,chỉ bao gồm sự thiệt hại
thân thể của người được bảo hiểm do hậu quả tai nạn. Trong cuộc sống con người
,ốm đau bệnh tật là điều không thể tránh khỏi. Điều cần thiết đặt ra cho bảo hiểm
con người là mở rộng phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm cũng như đối tượng bảo
hiểm ,làm cho bảo hiểm thực sự trở thành nhân tố góp phần ổn định đời sống nhân
dân.
ở Việt Nam, nhu cầu bảo hiểm sinh mạng đã có từ lâu, đó là việc hình thành

các quỹ bảo thọ. Hình thức hoạt động các quỹ này khác nhau ở mỗi vùng tuỳ thuộc
vào điều kiện của từng địa phương, từng người tổ chức nhưng nhìn chung chưa
mang lại nhiều ý nghĩa về kinh tế mà chỉ mang nặng yếu tố tinh thần.Đây là nét
truyền thống quý báu của người dân Việt Nam song cũng cần phải thấy được rằng
các quỹ này nhiều khi phụ thuộc vào suy tính chủ quan của người đứng đầu, cơ chế
quản lý không chặt chẽ, không theo một quy tắc nào,nếu không may người tổ chức
không thể tiếp tục quản lý hội được thì hoạt đông của hội sẽ gặp khó khăn.
Nắm bắt được đặc điểm này,để đáp ứng nhu cầu của nhân dân và từng bước
hoàn thiện lĩnh vực bảo hiểm con người ,ngày 17/02/1990, Bộ tài chính đã ban hành
quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tử vong
trong trường hợp tai nạn,ốm đau hay bệnh tật. Ngày 10/08/1992 Bộ tài chính đã
chính thức ban hành quy tắc và biểu phí cho các loại hình bảo hiểm này.Từ đó đến
nay nghiệp vụ này đã được sự chấp thuận đông đảo quần chúng nhân dân và ngày
càng phát huy được tác dụng.
Đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới các quan hệ kinh tế ngoại giao, văn hoá
xã hội với các nền kinh tế khác với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước” đã mang lại cho Việt Nam về sự thay đổ nhiều mặt, người nước ngoài
đến Việt Nam ngoài nhu cầu, thăm quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
còn nhu cầu đến Việt Nam để kinh doanh, đầu tư sản xuất,du lịch, thương mại....để
thu lợi, họ cũng mang theo thói quen từ nước họ.Việc mua bảo hiểm nằm viện phẫu
thuật đối với người nước ngoài cũng gần như trở thành thói quen, họ rất sợ phải vào
nằm viện và phải bỏ tiền túi. Đây là một yếu tố làm cho bảo hiểm trợ cấp nằm viện
phẫu thuật nhanh chóng được ra đời. Cũng như nguyên nhân của nó,loại hình này
được áp dụng đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh và đối với người nước
ngoài.Song mức sống của người dân Việt Nam cũng dần được nâng lên thì các nhu
cầu mới lại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng.Khi gặp rủi ro tai nạn,người
ta không chỉ muốn nhận một khoản tiền mà còn cần một sự chăm sóc y tế khi nằm
viện phẫu thuật.Để đáp ứng nhu cầu này,ngày 02/07/1993 Bộ tài chính đã có quyết
định số 466/TC-BH Ban hành quy tắcvà biểu phí trợ cấp nằm viên phẫu thuật :Bảo
hiểm trợ cấp nằm viện, trợ cấp phẫu thuật và trợ cấp mai táng do ốm đau ,thai

sản,tai nạn đối với người được bảo hiểm . Đây là một dich vụ mới của Bảo Việt,
việc khai thác bước đầu đã mang lại kết quả tích cực, thực sự đã góp phần ổn định
tài chính cho người tham gia bảo hiểm và gia đình họ không may phải nằm viện
phẫu thuật trng điều kiện Nhà nước thực hiện thu một phần viện phí. Các nghiệp vụ
trên được tiến hành riêng lẻ và luôn luôn được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội và đáp ứng tốt nhu cầu bảo hiểm đông đảo của quần chúng
nhân dân.
Trong quá trình triển khai thực hiện 3 loại hình bảo hiểm :bảo hiểm sinh mạng,
bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật được tiến hành
riêng biệt đã thể hiện tính ưu việt của nó đó là: tham gia riêng lẻ thì mức phí
thấp;từng nghiệp vụ có những tính chất và quy tắc riêng giúp cho người người tham
gia bảo hiểm lựa chọn các loại hình phù hợp với mình, có những nghề chỉ có thể
hoăc tốt nhất là bảo hiểm loại này mà không hiệu quả nếu lựa chọn các loại
hình khác. Tuy nhiên phần đông thì ngược lại, nếu để 3 loại hình tồn tại riêng lẻ thì
không tránh khỏi một số hạn chế sau:
Thứ nhất về quản lý hồ sơ (khai thác và bồi thường):Mặc dù một khách hàng
tham gia với 3 nghiệp vụ riêng biệt đòi hỏi phải có 3 tài liệu quản lý riêng biệt. Điều
này dẫn đến tăng chí phí kinh doanh, chí phí quản lý(nhất là trong trường hợp 3
nghiệp vụ trên do 3 cán bộ bảo hiểm chịu hiểm trách nhiệm quản lý riêng). Mâu
thuẫn giữa giảm phí để khuyến khích khách hàng tham gia(tăng tính chất phục vụ xã
hội) nhưng chi phí thì không hề được tiết kiệm(không phù hợp với tính chất kinh
doanh) làm ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhà bảo
hiểm.Bên cạnh đó, với 3 bộ hồ sơ cồng kềnh,rất dễ nhầm lẫn giữa các phạm vi,
quyền lợi... thường tạo tâm lý không thoải mái cho người tham gia bảo hiểm.
Đây chính là cơ sở nảy sinh ý tưởng gộp 3 nghiệp vụ trên vào một nghiệp vụ
bảo hiểm kết hợp con người để công tác quản lý hồ sơ đạt hiệu quả cao, nhanh gọn
và tiết kiệm được chi phí kinh doanh, đồng thuyết phục khách hàng tham gia dễ
dàng hơn.
Thứ hai về nghiệp vụ: khác với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm bảo
hiểm con người có đăc trưng riêng là một đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được

bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng.Với một hoặc nhiều người bảo hiểm khác nhau với
số tiền bảo hiểm bất kỳ(trong giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm ) bất kể hợp
đồng đó trùng lặp về phạm vi, quyền lợi bảo hiểm ... Khi xảy ra sự cố bảo hiểm liên
quan đến trách nhiệm của nhiều hợp đồng thì viêc trả tiền bảo hiểm ở các hợp đồng
đó hoàn toàn độc lập với nhau- độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền vàđộc
lập trong cách thức trả tiền bảo hiểm.
Ba nghiệp vụ:Bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm tai nạn 24/24 và bảo hiểm trợ cấp
nằm viện phẫu thuật cũng vậy, khách hàng hoàn toàn có quyền tham gia cả 3 nghiệp
vụ trên,tuy nhiên giữa chúng có sự trùng lặp nhau không cần thiết về phạm vi cũng
như quyền lợi bảo hiểm ,dễ dẫn đến nhầm lẫnvà kích thích tính trục lợi của người
tham gia. Để thấy được sự trùng lặp đó , trước hết cần điểm qua phạm vi bảo hiểm
và quyền lợi của người được bảo hiểm khi tham gia cả 3 nghiệp vụ trên:
*Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
-Phạm vi bảo hiểm :Thiệt mạng do mọi nguyên nhân kể cả tuổ già,bệnh
tật(ngoại trừ trường hợp có bệnh trước khi mua bảo hiểm ),tai nạn trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.
-Quyền lợi của người đươc bảo hiểm : Những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm
trả 100% số tiền bảo hiểm.
*Bảo hiểm tai nạn 24/24
-Phạm vi bảo hiểm :Tai nạn bất ngờ làm người được bảo hiểm bị thương hay
thiệt mạng trong bất cứ thời gian nào thuộc thời hạn bảo hiểm .
-Quyền lợi của người được bảo hiểm :
+Trường hợp thiệt mạng do tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, trả 100% số tiền
bảo hiểm .
+Thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn: Trả tiền bảo hiểm theo tỉ lệ thương
tật.
+Thương tật tạm thời do tai nạn:
Nếu tham gia với số tiền bảo hiểm từ 1 đến 20 triệu đồng thì trả tiền theo tỷ lệ
thương tật.
*Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu

-Phạm vi bảo hiểm : Người được bảo hiểm bị ốm đau, bệnh tật,thai sản hoặc
thương tật thân thể do tai nạn phải nằm viện phẫu thuật.
-Quyền lợi của người được bảo hiểm:
+Nếu số tiền bảo hiểm từ 1 đến 10 triệu đồng /người /vụ thì trợ cấp 60 ngày
nằm viện trong 1 năm bảo hiểm theo quyết định446/TCBH ngày 02/07/93 phần trợ
cấp này được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên 1 ngày 02/07/93 phần trợ cấp này
được tính là 0,3% số tiền bảo hiểm trên ngày.Nhưng được phép của Bộ Tài Chính
ngày 23/11/97, Bảo Việt đã có quyết định sokó 2963/PHH2-97 ban hành quy tắc
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật với sự thay đổi về cách tính trợ cấp này như
sau:
10 ngày đầu :trả 0.3% số tiền bảo hiểm / ngày
20 ngày tiếp theo :trả 0,2% số tiền bảo hiểm / ngày

×