Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 12 trang )

1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y
TẾ TỰ NGUYỆN

Năm 2014 nước ta triển khai bảo hiểm y tế toàn dân. Để tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân thì việc triển khai bảo hiểm y tế tự nguyện hiện nay là một vấn đề quan trọng và
cấp bách. Nó không chỉ là vấn đề của ngành y tế mà còn là vấn đề của các cấp, các
ngành …
3.1 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ BHYT TỰ NGUYỆN.
Ngay từ đại hội VI năm 1986, cùng với sự đổi mới toàn diện về kinh tế xã hội của
đất nước, đảng đã ra nghị quyết đổi mới trong lĩnh vực y tế, từ đó ngành y tế cũng có
những đổi mới bước đầu. Cơ chế bao cấp trong KCB dần chuyển sang cơ chế xã hội
hóa trong thanh toán chi phí KCB bằng việc hình thành quỹ BHYT do Nhà nước,
người sử dụng lao động, người lao động cùng đóng góp.
Đến năm 1992 sau khi ban hành nghị định 299/HĐBT ngày 15/8/1992 ban hành điều
lệ BHYT, ban chấp hành TW đảng khóa VII ngày 14/1/1993 đưa ra nghị quyết số
04/NQ-HNTW 4 đã nêu lên một định hướng mới trong công tác y tế “tạo nguồn kinh phí
để phát triển sự nghiệp y tế, thực hiện thu một phần viện phí, phát triển BHYT”.
Năm 1996, Chính phủ ra nghị quyết số 37/CP ngày 20/6/1996 về định hướng chiến
lược công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 1996- 2000 khẳng định tiếp tục
thực hiện tốt việc thu một phần việc phí và phát triển BHYT tăng nguồn tài chính
phục vụ KCB cho nhân dân…”.
Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng, đảng ta đã đề ra định hướng
phát triển BHYT: “tăng đầu tư của nhà nước kết hợp với tạo nguồn thêm nguồn kinh
phí khác cho y tế phát triển BHYT”. Với những nghị quyết quan trọng của đảng ta,
trong giai đoạn 1992-1998, BHYT phát triển mạnh.
Tiếp đến trong văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “thực hiện đồng
bộ các chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân nhằm ngoài tỷ lệ mắc bệnh,
nâng cao thể lực tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi, củng cố và hoàn thiện mạng


lưới y tế, đặc biệt là cơ sở. Xây dựng một số trung tâm y tế chuyên sâu. Đẩy mạnh
sản xuất dược phẩm, bảo đảm các loại thuốc thiết yếu đến với mọi địa bàn dân cư.
Thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đổi mới cơ chế chính sách viện phí có
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính sách BHYT cho người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân”.
Để đạt được mục tiêu này có ý nghĩa là mọi người dân Việt Nam sống trên đất nước
Việt Nam không phân biệt người giàu, người nghèo, người già, người trẻ, vùng sâu,
vùng xa, người sống ở thành phố…đều được chăm sóc sức khỏe bằng mạng lưới
BHXH về y tế do nhà nước lập lên và thực hiện. Mọi công dân có quyền và nghĩa vụ
như nhau trong việc chăm sóc sức khỏe khi ốm đau bệnh tật.
Theo báo cáo chính trị của ban chấp hành TW đảng khóa VIII đã nêu: “Thực hiện
công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, đổi mới cơ chế và chính sách viện phí, có
chính sách trợ cấp và BHYT chi người nghèo, tiến tới BHYT toàn dân”.
Như vậy là thực hiện BHYT, tạo tiền đề cho mọi người được chăm sóc sức khỏe
theo điều 39, hiến pháp 1992 của nước ta đã và đang từng bước trở thành hiện thực
với quan điểm: “thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT
toàn dân”
Năm 2005 chính phủ ban hành nghị định số 63/2005/NĐ-CP của chính phủ kèm
theo điều lệ BHYT đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Nhằm thực hiện quan điểm của đảng về xây dựng một nền y tế định hướng công
bằng hiệu quả và phát triển. Ngày 23/2/2005, bộ chính trị đã ra nghị đã ra nghị quyết
số 46/NQ-TW về công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình
hình mới. Nghị quyết đã nêu ra nhiệm vụ đổi mới chính sách tài chính y tế với nhiều
giải pháp, trong đó nêu rõ “đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công, giảm dần hình thức thanh toán
viện phí trực tiếp từ người bệnh. Xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHYT
toàn dân vào năm 2014, tuyên tuyền giáo dục để mọi người dân đều tự nguyện tham
gia BHYT. Đa dạng hóa các loại hình BHYT, chú ý các loại hình cộng đồng, quỹ xóa
đói giảm nghèo….Để hỗ trợ hộ nghèo, người sống ở nông thôn, miền núi, vùng sâu,

vùng xa tham gia các loại hình BHYT phù hợp. Hoàn thiện cơ chế chính sách củng cố
tổ chức và nâng cao năng lực quản lí điều hành của hệ thống BHYT, có phương thức
thanh toán phù hợp để người tham gia BHYT được chăm sóc với chất lượng tốt,
không bị phân biệt trong khám chữa bệnh.
Ngày 14/11/2008 luật Bảo hiểm y tế được quốc hội ban hành. Và bắt đầu áp dụng
từ ngày 1/1/2010. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực
tế. Luật này được ban hành là một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện chính
sách BHYT và là cơ sở để tiến tới thực hiện BHYT toàn dân vào năm 2014.
Tóm lại, sự phát triển của BHYT ở nước ta gắn liền với những định hướng, quan
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
điểm của đảng.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN BHYT TỰ NGUYỆN
TẠI VIỆT NAM.
3.2.1 Về chính sách BHYT tự nguyện.
BHYT là một chính sách lớn, đã được quy định trong hiến pháp, được phát triển phù
hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn từng thời kì đổi mới, hoàn thiện
và phát huy tác dụng nhằm đảm bảo đời sống cho người dân khi họ gặp rủi ro, ốm
đau, bệnh tật. Thông qua việc đảm bảo ổn định đời sống cho người dân khi gặp rủi ro
bệnh tật đã góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có
sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa chế độ chăm sóc sức khỏe
nhân dân trong cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và đã được sửa đổi cơ
bản thông qua việc ban hành luật BHYT.Tuy nhiên luật BHYT hiện nay cũng bộc lộ
một số vấn đề bất cập. Luật BHYT được thực thi vào ngày 1/1/2010, đây là cơ sở để
triển khai BHYT toàn dân vào năm 2014. Để thực hiện luật BHYT thành công các
nhóm đối tượng dần được đưa vào diện bắt buộc tham gia tham gia BHYT, nhưng
đối tượng người nông dân, người lao động tự do (theo hộ gia đình) có mức sống trên
trung bình, trong thời gian chưa quy định bắt buộc tham gia BHYT thì thuộc nhóm

đối tượng tự nguyện tham gia BHYT. Người dân thuộc nhóm tham gia BHYT tự
nguyện chủ yếu có mức thu nhập thấp nên nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mức
đóng BHYT cho đối tượng này. Thực hiện thu viện phí đúng và đủ để công bằng
trong KCB và chuyển cơ chế bao cấp cho cơ sở KCB sang bao cấp cho người sử
dụng dịch vụ y tế (lấy nguồn kinh phí từ cấp cho các cơ sở KCB sang mua thẻ BHYT
cho người dân). Mặt khác có cơ chế cho hỗ trợ công tác thu BHYT (8% số thu
BHYT) theo luật là chưa đủ để trả thù lao cho đội ngũ cán bộ làm công tác tại các xã
phường nhằm thúc đẩy việc thực hiện BHYT việc thực hiện BHYT TN nhân dân
phát triển nhanh.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần can thiệp, xem xét lại các điều kiện trong
luật BHYT theo hướng có lợi cho những người có thẻ BHYT đặc biệt là người
nghèo. Bên cạnh nhiệm vụ hoàn thiện luật BHYT thì chính sách BHYT TN cần quan
tâm hoàn thiện ở những điểm sau:
- Định hướng đối tượng tham gia BHYT tự nguyện.
Để mở rộng đối tượng tham gia BHYT TN chúng ta tiếp tục triển khai các mô
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hình BHYT theo nguyên tắc cộng thể cộng đồng , phát huy vai trò của các cấp
đảng ủy, chính quyền đoàn thể trong vận động nhan dân tham gia BHYT TN. Phát
triển BHYT TN theo chiều sâu nhằm đảm bảo tính bền vững, đồng thời triển khai
theo diện rông tại các xã, phường, quận huyện trong cả nước cả nước. Hình thức
thực hiện theo các nhóm đối tượng như học sinh, sinh viên, hội viên hội, đoàn thể,
thân nhân của người lao động hoặc của hội viên hội đoàn thể theo đó cấn xác định
tiềm năng tham ga BHYT TN ở từng nhóm đối tượng sẽ giúp chúng ta phân loại
các đối tượng đưa vào chương trình mở rộng và phát triển BHYT.
Trước tiên là thực hiện BHYT đối với học sinh-sinh viên: Việc thực hiện
BHYT TN trong những năm qua cho thấy tính ưu việt của BHYT học sinh, sinh
viên số lượng thẻ phát năm sau luôn cao hơn năm trước, tỷ lệ thu của đối tượng
này cũng là cao trong tổng thu BHYT TN. Do vậy trong thời gian tới BHYT TN ở
các tỉnh, thành phố tiếp tục tranh thủ tối đa sự chỉ đạo sự chỉ đạo của UBND cấp

tỉnh thành phố và sự phối hợp chặt chẽ với các ngành y tế với ngành giáo dục-đào
tạo, ban chỉ đạo ngành y tế học đường trong triển khai BHYT TN đối với học
sinh-sinh viên. Cùng với việc vận động học sinh tham gia BHYT, thu đóng góp và
cấp thẻ BHYT thì còn thực hiện chăm sóc sức khỏe ngay tại trường như trang bị tủ
thuốc, sắp xếp cán bộ y tế học đường đảm bảo y tế học đường cho các em. Đồng
thời BHXH cũng cần đăng kí hợp đồng với các bệnh viện, trung tâm y tế để tiếp
nhận cho học sinh, sinh viên tại các cơ sở y tế được thuận tiện.
Đối với BHYT TN nhân dân: Việc triển khai cho đối tượng này ở nước ta đã
khá rộng rãi. Với khó khăn trong tuyên truyền vận động tham gia BHYT TN, một
mặt do đối tượng này rất đa dạng lại hạn chế về nhận thức, điều kiện sống của họ
nói chung chỉ vượt trên giới hạn đói nghèo do vậy rất khó kêu gọi họ tham gia
BHYT TN. Cũng có bộ phận dân cư khác như kinh doanh buôn bán ở thành phố
do kinh tế khá giả nên họ cũng không mặn mà tham gia BHYT TN. Mặt khác, sự
tham gia của họ cũng khó đảm bảo được liên tục, thường xuyên năm này qua năm
khác, để đảm bảo thì cần tiến hành thực hiện từng bước vững chắc vừa làm vừa
rút kinh nghiệm. Trước mắt tiếp tục mỗi huyện ở các tỉnh chọn ra một xã có chất
lượng và người dân có khả năng đóng góp cũng như được chính quyền địa phương
ủng hộ triển khai BHYT TN. Ngoài ra cũng cần khai thác yếu tố: tập quán, dòng
tộc, hương nước của từng địa phương thôn xóm, tranh thủ sự giúp đỡ của những
người có uy tín trong dòng tộc, những già làng, trưởng bản mà đề ra biện pháp vận
động tham gia BHYT TN một cách hợp lý.
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Đa dạng hóa các loại hình BHYT TN tại Việt Nam.
Đa dạng hóa các loại hình tham gia BHYT TN là giải pháp tốt nhất để thúc đẩy lộ
trình BHYT toàn dân. Quy luật trong cơ chế thị trường là sự phân hóa giai tầng
trong xã hội nhanh chóng do vậy đa dạng hóa loại hình BHYT TN là để đáp ứng
được nhu cầu của đông đảo tầng lớp nhân dân trong xã hội từ đó thu hút được số
lượng lớn người tham gia trong toàn xã hội đó cũng là mục tiêu trong triển khai
BHYT TN trên cả nước.

- Xây dựng khung mức đóng phí hợp lý.
Chính sách BHYT là một trong những chính sách xã hội nhạy cảm và được
mọi người quan tâm, vì vậy chính sách BHYT nói chung và nhất là BHYT TN
nói riêng cần có một hệ thống pháp luật quy định rõ ràng mức đóng góp của
từng nhóm đối tượng. Với mức đóng động bộ như luật BHYT hiện nay là chưa
hợp lí. Theo tôi với các nhóm đối tượng khác nhau tham gia BHYT TN sẽ
đóng phí theo nguyên tắc phù hợp với từng tình hình kinh tế xã hội theo từng
khu vực thành thị, nông thôn của từng địa phương, khả năng đóng góp của
người dân, có kế hoạch hỗ trợ tiền đóng BHYT cho một bộ phận dân cư cận
nghèo. Do vậy cần có một khung mức đóng hợp lí đáp ứng được nhu cầu này
mặt khác khi xây dựng cũng cần quan tâm đến tới đảm bảo cân đối thu chi cho
quỹ BHYT TN nhất là trong điều kiện gía cả leo thang như hiện nay. Việc xây
dựng khung mức đóng BHYT TN phải căn cứ vào các yếu tố như: nhóm đối
tượng, khu vực sinh sống là thành thị hay nông thôn, phân tích số liệu thống kê
về số lượng đối tượng tham gia BHYT TN, tình trạng đi khám chữa bệnh của
từng nhóm đối tượng các năm trước, các yếu tố về lạm phát, mức sống dân cư,
hay căn cứ vào mục tiêu của đảng và nhà nước ta trong triển khai đối với một
số nhóm đối tượng đặc biệt nào đó.
- Quy định rõ các phương thức thanh toán chi phí KCB.
Phương thức thanh toán chi phí KCB hiện nay là theo phí dịch vụ có chi phí
quản lý hành chính cao và có nguy cơ bội chi quỹ BHYT TN cao. Ảnh hưởng
lớn tới an toàn quỹ BHYT TN nói riêng và tới sự nghiệp BHYT nói chung ở
nước ta. Cần từng bước thí điểm và áp dụng rộng rãi các phương thức thanh
toán khác để chọn ra phương thức thanh toán KCB hợp lý nhất, tích cực nhất
với điều kiện nước ta như phương thức thanh toán định suất, thanh toán theo
chuẩn đoán… để đảm bảo sử dụng quỹ BHYT đạt hiệu quả nhất cho người
tham gia BHYT và người cung cấp dịch vụ y tế. Trong những năm gần đây

×