Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.83 KB, 39 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM.
1. TÁI BẢO HIỂM VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM.
1.1. Tái bảo hiểm là gì?
1.1.1. Sự cần thiết của tái bảo hiểm.
Một công ty bảo hiểm cũng giống như các công ty trách nhiệm hữu hạn
hay một công ty cổ phần hay một doanh nghiệp nhà nước khác được thành lập
với một số vốn nhất định nên phải chịu trách nhiệm với phần vốn của mình đối
với mọi hoạt động kinh doanh của mình trên thương trường, và tất nhiên một
công ty bảo hiểm thì khả năng nhận bảo hiểm bị giới hạn trong phạm vi số vốn
này. Chính vì vậy, trong quá trình kinh doanh bảo hiểm, các công ty bảo hiểm
luôn bị đe dọa bởi sự phá sản bởi:
- Có những đối tượng tham gia bảo hiểm với số tiền tham gia bảo hiểm
quá lớn vượt quá khả năng tài chính của công ty bảo hiểm, do đó nếu chấp nhận
rủi ro và khi tổn thất xảy ra chắc chắn công ty sẽ bị phá sản.
- Khi những rủi ro được bảo hiểm xảy ra liên tục trong một thời gian
ngắn, lúc đó công ty bảo hiểm không đủ khả năng để đánh giá kiểm soát rủi ro,
công tác chi trả, bồi thường cũng không thể làm một cách chặt chẽ và khi đó
khả năng phải tuyên bố phá sản là rất lớn.
- Đối với công ty bảo hiểm mới thành lập, mạng lưới đại lý chưa rộng và
thiếu kinh nghiệm, các khâu chưa hoàn chỉnh cũng dễ bị phá sản...
- Có những trường hợp phương pháp tính phí chưa thật chuẩn xác vì có
những rủi ro mới xuất hiện, ngành bảo hiểm chưa có số liệu thống kê đầy đủ
hoặc không đủ khả năng quản lý rủi ro nên chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu.
Đứng trước thực trạng có thể bị phá sản và để đảm bảo hoạt động kinh
doanh có hiệu quả mà vẫn có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị
bảo hiểm lớn, các công ty bảo hiểm phải liên kết với nhau để phân tán bớt phần
rủi ro mà mình có thể gặp phải trong hợp đồng bảo hiểm mà mình đã nhận, một
trong những cách để phân tán rủi ro đó là tái bảo hiểm. Vì vậy, một nghiệp vụ
mới xuất hiện trong các công ty bảo hiểm là các công ty tái bảo hiểm chuyên
nghiệp đã ra đời để đáp ứng nhu cầu cho các công ty bảo hiểm và đảm bảo cho


người tham gia bảo hiểm.
Như vậy, "tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người bảo
hiểm phải gánh chịu". Nói cách khác tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà
người bảo hiểm sử dụng để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với
người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho
người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng tái bảo hiểm.
Trong tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc (hay công ty nhượng tái bảo
hiểm) nhận bảo hiểm cho người tham gia, sau đó chuyển giao một phần rủi ro
đã nhận bảo hiểm cho các công ty nhận tái bảo hiểm (hay nhà tái bảo hiểm). Khi
tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc phải bồi thường
cho người được bảo hiểm trên cơ sở khả năng tài chính của mình, sau đó đòi lại
phần trách nhiệm từ công ty nhận tái bảo hiểm. Ở đây, người được bảo hiểm
không có quan hệ trực tiếp với công ty nhận tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm đã được các nhà kinh tế, các nhà bảo hiểm công nhận và
đánh giá cao. Nhưng nhìn chung nó được thể hiện trên một số mặt sau:
* Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho các công ty bảo hiểm
gốc, đặc biệt trong trường hợp xảy ra sự cố thảm họa mang tính chất tích tụ, tập
trung rủi ro.
* Đảm bảo sự ổn định của ngân sách và đây cũng là một nguồn thu ngoại
tệ.
* Giúp cho các công ty nhỏ mới thành lập ổn định và phát triển nhờ sự tư
vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm.
* Góp phần ổn định đời sống cho công nhân viên trong công ty bảo hiểm
gốc do công ty bảo hiểm bị phá sản và gián tiếp bảo hiểm quyền lợi của người
tham gia.
Ngoài ra, tái bảo hiểm còn góp phần ổn định ngân sách nhà nước, đồng
thời thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, xã hội giữa các nước ,.... Ngày nay, tái
bảo hiểm ngày càng phát huy tác dụng và trở thành phương thức hoạt động quan
trọng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các nước.
1.1.2. Phân biệt tái bảo hiểm với đồng bảo hiểm.

Trong phương pháp san sẻ rủi ro trong các công ty bảo hiểm thì người ta
thường nói tới hai phương pháp đó là tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm, vậy hai
phương pháp này có điểm nào giống và khác nhau, ưu và nhược điểm của hai
phương pháp này là gì? Trong phần này chúng ta sẽ so sánh sự giống và khác
nhau của hai phương pháp này:
* Giống nhau: Cả hai phương pháp đều là phương pháp phân tán rủi ro,
chuyển rủi ro có thể xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm sang người bảo
hiểm hoặc các nhà tái bảo hiểm.
* Sự khác nhau giữa hai phương pháp:
Hình thức
Tiêu chí
Tái bảo hiểm Đồng bảo hiểm
Điểm xuất phát Được xuất phát từ người bảo
hiểm.
Xuất phát từ người
tham gia.
Tính chịu trách nhiệm Chỉ trịu trách nhiệm đối với
công ty bảo hiểm gốc.
Chịu trách nhiệm
trước người tham
gia bảo hiểm.
Các bên tham gia Có thể chỉ cần một nhà tái
bảo hiểm hoặc nhiều hơn.
Phải có ít nhất hai
nhà bảo hiểm trở
lên.
Khi có tổn thất xảy ra Có thể huy động vốn bồi
thường một cách nhanh
chóng, công ty tái bảo hiểm
có thể trích trước để giải

quyết sự cố.
Huy động vốn bồi
thường rất khó
khăn và mất nhiều
thời gian gây khó
khăn cho người
tham gia bảo hiểm.
Để hiểu rõ hơn ta đi nghiên cứu quan hệ giữa tái bảo hiểm và đồng bảo
hiểm thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ1: Mối quan hệ giữa nhà tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm.
1.2. Lịch sử phát triển của tái bảo hiểm.
Trên thị trường bảo hiểm thế giới.
Vào giai đoạn cuối cùng của thời Đại Trung Cổ, khi ngành bảo hiểm bắt
đầu phát triển và mở rộng ở Châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và
ngày càng tăng nhanh cùng với sự phát triển của nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa.
Bản giao ước cổ nhất được biết đến có tính chất pháp lý như một hợp đồng tái
bảo hiểm được ký kết vào tháng 12/1370 tại thành phố Genoa - Italy, bảo hiểm
cho một chuyến hàng từ Genoa tới Flader (Belgium). Với sự phát triển rộng rãi
Nh Tái bà ảo
hiểm C
Nh Tái bà ảo
hiểm B
Nh Tái bà ảo
hiểm A
Nh Tái bà ảo
hiểm D
Người bảo hiểm
Người tham gia
Công ty B Công ty C Công ty DCông ty A
các mối quan hệ thương mại giữa các thành phố của Italia cũng như các nước

Bắc Âu dịch vụ tái bảo hiểm cũng phát triển theo. Điển hình là ở Anh, nhưng
sau đó do có nhiều vụ lợi dụng tái bảo hiểm nên chính phủ Hoàng Gia Anh đã
ra lệnh cấm hoạt động tái bảo hiểm trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa trên
biển từ 1746-1864. Tuy nhiên các loại hình tái bảo hiểm khác vẫn phát triển
như: tái bảo hiểm cháy, tái bảo hiểm nhân thọ...
Đến giữa thế kỷ XIX, nhờ áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất,
kinh tế các nước tư bản phát triển mạnh, giao lưu hàng hoá được tăng cường
cho nên tái bảo hiểm cũng có điều kiện hình thành các tổ chức độc lập. Năm
1864, công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên ra đời tại Đức lấy tên là
Công ty tái bảo hiểm Cologne (Kolnishe Ruck AG). Tiếp theo đó là sự ra đời
của hàng loạt các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp như:
* Công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re) năm 1863.
* Công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance Co.,Ltd)
năm 1869.
* Công ty tái bảo hiểm Munich (Munchenes Ruck AG) năm 1880.
Việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là một sự kiện có
tính chất quan trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Bằng cách tái
bảo hiểm, các công ty bảo hiểm đã có sẵn trong tay nguồn đảm bảo đắc lực cho
hoạt động kinh doanh của họ. Do đó, khả năng cạnh tranh của các công ty bảo
hiểm gốc và khả năng phục vụ của các công ty tái bảo hiểm cũng được cải tiến
bằng việc mở rộng tái bảo hiểm cho các loại hình bảo hiểm với các thị trường
bảo hiểm nước ngoài. Hai cuộc chiến tranh thế giới làm ảnh hưởng tới sự phát
triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng, nhất là các công
ty tái bảo hiểm ở Đức. Đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ II đã ảnh hưởng
đến nền kinh tế các nước là rất lớn, làm cho hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm
bị ngưng trệ, thậm chí ở một số nước, nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ
bảo hiểm để phục vụ chiến tranh. Vì vậy mà hoạt động tái bảo hiểm gặp rất
nhiều khó khăn. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm ở Thụy Sĩ vẫn
rất phát triển.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện Thế giới đã thay đổi, hệ thống

xã hội chủ nghĩa đã ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa giành nhiều thắng lợi, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa bị
khủng hoảng đã ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động tái bảo hiểm. Cụ thể là thời
kỳ này hoạt động tái bảo hiểm trên thế giới có 3 đặc điểm sau:
* Sự phục hồi các công ty tái bảo hiểm của cộng hoà liên bang Đức.
* Thành lập các công ty tái bảo hiểm của các nước xã hội chủ nghĩa với
đặc điểm thực hiện độc quyền về tái bảo hiểm và hạn chế các mối quan hệ với
các nước tư bản.
* Các nước chậm phát triển mới giành độc lập cũng thực hiện độc quyền
tái bảo hiểm như Achentina, Brazil, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và một số nước
ở Châu Phi, Đông Nam Á... làm thu hẹp thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
Cho đến nay, hoạt động tái bảo hiểm ngày càng phát triển mạnh mẽ, rộng
khắp và có mối quan hệ giữa các nước làm cho sức cạnh tranh trong hoạt động
tái bảo hiểm tăng lên đáng kể.
Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ra đời muộn hơn so với thế giới rất nhiều.
Năm 1965, một công ty hoạt động với tính chất thương mại ra đời gọi là Công
ty bảo hiểm Việt Nam, hoạt động độc quyền trong khoảng 30 năm, sau đó đổi
thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Năm 1993 khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, nước ta đã có những bước phát triển đáng kể và ngành
bảo hiểm cũng có sự khởi sắc. Trước đây, các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo
hiểm đều do Bảo Việt đảm nhận thì nay, sau khi nghị định 100 - CP
(18/12/1993) của Chính Phủ ban hành, một loạt các công ty bảo hiểm được
thành lập và đi vào hoạt động như: Bảo Minh, Bảo Long, Pjico, PVI, PTI,
Allianz, VIA, IAI, BIDV-QBE, SamsungVina, .... ngoài ra còn có các công ty
bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam (mới
chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ) tạo ra sự sôi động cho thị trường bảo
hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, đối với một thị trường bảo hiểm còn non trẻ và mới
bắt đầu phát triển thì việc hình thành một công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là
rất cần thiết cho hoạt động của thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời tăng

cường mối quan hệ với thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới. Chính vì
vậy, cùng với sự ra đời và phát triển của các công ty bảo hiểm gốc, hoạt động
tái bảo hiểm ở Việt Nam cũng ra đời và phát triển.
Có thể khái quát một số nét về hoạt động tái bảo hiểm ở nước ta như sau:
* Từ năm 1965-1975: giai đoạn độc quyền của Bảo Việt nhưng cũng chỉ
thực hiện tái bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu và thân tàu thuỷ với các
nước xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn thử nghiệm quá trình phát triển hoạt
động bảo hiểm và tái bảo hiểm.
* 1975-1994: hoạt động tái bảo hiểm đã được mở rộng và phát triển hơn.
Trước tháng 2-1993 Bảo Việt giữ lại 5% và tái đi 10% cho các nước xã hội chủ
nghĩa và 85% cho hội tái bảo hiểm Tây Âu. Đối với dịch vụ bảo hiểm hàng
không, tái bảo hiểm toàn bộ giá trị bảo hiểm thân máy bay, mức trách nhiệm giữ
lại rất ít (2%). Còn tái bảo hiểm dầu khí là 80-90% cho các công tái bảo hiểm
trên thế giới.
* Tuy hoạt động tái bảo hiểm có sự phát triển nhưng mức giữ lại của các
công ty bảo hiểm gốc là rất thấp và hầu như tái đi toàn bộ, dù được hưởng phần
hoa hồng nhưng ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty tái. Để khắc phục những
hiện trạng đó, chính phủ đã ra quyết định thành lập công ty tái bảo hiểm Quốc
gia Việt Nam (viết tắt là Vinare) ngày 20/12/1994 với vốn điều lệ là 40 tỷ đồng
và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/01/1995.
2. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM.
Có 2 hình thức tái bảo hiểm chính là tái bảo hiểm tạm thời và tái bảo
hiểm cố định. Xét về xuất xứ thì tái bảo hiểm tạm thời ra đời trước, tuy nhiên
hình thức này dần bộc lộ nhiều nhược điểm khiến nó được sử dụng ít đi và thay
vào đó là hình thức tái bảo hiểm cố định. Ngoài ra còn có một hình thức tái bảo
hiểm nữa là sự kết hợp giữa 2 hình thức trên gọi là tái bảo hiểm lựa chọn-bắt
buộc.
2.1. Tái bảo hiểm tạm thời (Facultative Reinsurance).
a. Khái niệm.
Tái bảo hiểm tạm thời hay còn gọi là tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn, là hình

thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty bảo hiểm
gốc chuyển nhượng cho công ty tái bảo hiểm từng dịch vụ hay từng đơn bảo
hiểm một cách riêng lẻ. Về phần mình, công ty tái bảo hiểm có quyền nhận hay
từ chối dịch vụ và đơn bảo hiểm đó. Công ty bảo hiểm gốc có toàn quyền quyết
định tái bảo hiểm cho dịch vụ nào, với tỷ lệ bao nhiêu, cho công ty tái bảo hiểm
nào là tuỳ họ. Mặt khác công ty tái bảo hiểm có quyền nhận hay từ chối hoặc
chỉ nhận tái bảo hiểm với một tỷ lệ mà họ cho là thích hợp.
Công ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ phải cung cấp cho công ty tái bảo hiểm
mọi thông tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trên thực tế nhà tái bảo
hiểm cũng tiến hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ rồi quyết định có nhận
tái bảo hiểm hay không mà không cần đầy đủ các chi tiết.
b. Ưu nhược điểm.
* Ưu điểm:
- Phương pháp này cho phép các công ty bảo hiểm nhỏ, với kinh nghiệm
tương đối hạn chế có thể cạnh tranh để nhận những dịch vụ lớn nằm ngoài khả
năng của mình, bởi vì họ có thể sử dụng được chuyên môn nghiệp vụ và khả
năng vốn của các thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
- Cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoại phạm vi
khai thác thông thường của mình. Những dịch vụ như vậy chủ yếu là theo yêu
cầu đặc biệt của khách hàng mà công ty bảo hiểm gốc phải chấp nhận để giữ uy
tín cho mình.
- Một nhóm các công ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân thiết có khả năng
trao đổi các rủi ro được đánh giá là tốt trên cơ sở tạm thời để tiến hành phân tán
rủi ro và đảm bảo doanh thu ổn định.
* Nhược điểm
- Đòi hỏi nhiều thời gian vì mỗi dịch vụ phải được giải quyết riêng lẻ.
Công ty bảo hiểm gốc phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước khi nhận một
dịch vụ, do đó việc quyết định nhận bảo hiểm sẽ bị chậm lại cho đến khi thu xếp
xong toàn bộ tái bảo hiểm tạm thời. Như vậy, công ty bảo hiểm gốc có khả năng
phải nhường dịch vụ cho những đối thủ cạnh tranh lớn mạnh hơn, hoặc nhận

bảo hiểm mà không được bảo vệ đầy đủ bằng tái bảo hiểm và đôi khi làm mất
thiện chí với khách hàng do chậm trễ.
- Những công việc liên quan đến đàm phán, soạn thảo hợp đồng và thanh
toán rất tốn kém và do đó giảm lợi nhuận thu được.
- Trước mỗi thời kỳ tái bảo hiểm tiếp tục, công ty bảo hiểm gốc lại phải
lặp lại toàn bộ quy trình đàm phán trước khi trao đổi với khách hàng của mình.
Chưa kể việc hủy bỏ hay thay đổi có thể gây ra thêm nhiều công việc khác
không cần thiết.
- Sự cần thiết phải tiết lộ những thông tin về dịch vụ nhận bảo hiểm có
thể dẫn đến việc rò rỉ tin tức cho các đối thủ cạnh tranh.
2.2. Tái bảo hiểm cố định (Obligatory-Reinsurance).
a. Khái niệm.
Tái bảo hiểm cố định hay còn gọi là tái bảo hiểm bắt buộc, là hình thức
tái bảo hiểm mà theo đó công ty nhượng phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất
cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận và quy định trong
hợp đồng. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn
bộ các rủi ro đó.
b. Ưu, nhược điểm.
* Ưu điểm:
- Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro
bảo hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến của của nhà tái bảo
hiểm, do đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được ký kết .
- Công ty nhượng được nhà tái bảo hiểm bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc
phạm vi hợp đồng, do đó khả năng an toàn của công ty bảo hiểm được đảm bảo.
- Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo
hiểm nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn
lẻ. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên tắc "quy
luật số đông" giúp nhà tái bảo hiểm có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của
ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới.
* Nhược điểm:

- Thông thường nó có tính ổn định cho một giai đoạn nhất định, do đó
thiếu tính linh hoạt trước những thay đổi của công ty chuyển nhượng.
- Vì mọi rủi ro phải đem tái đi cho nên đứng về phía công ty nhượng
những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem tái đi trong khi khả
năng tài chính của họ vẫn có khả năng đảm đương được.
- Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất việc ký kết hợp
đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm rất khó lường trước
được.
2.3. Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory
Reinsurance).
a. Khái niệm.
Tái bảo hiểm hiểm lựa chọn - bắt buộc là một hình thức bảo hiểm mà
công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình
nhận bảo hiểm, nhưng ngược lại nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận các
dịch vụ mà công ty nhượng đã đưa vào thoả thuận này với điều kiện là những
dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã qui ước của hợp đồng
tái bảo hiểm thoả thuận. Các bên tham gia hợp đồng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa
chọn- bắt buộc cần phải có sự trung thực tuyệt đối để đảm bảo lợi ích cho các
nhà nhận tái bảo hiểm.
b. Ưu, nhược điểm.
* Ưu điểm:
- Công ty nhượng tái bảo hiểm không bắt buộc phải nhượng tất cả những
dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm. Họ có lựa chọn dịch vụ để chào tái bảo hiểm
từng phần trách nhiệm vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hoặc một số
nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay vì đem phân chia toàn bộ các phần vượt
quá khả năng ấy cho các nhà tái bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty nhượng không
được lợi dụng hình thức tái bảo hiểm này để lựa chọn những rủi ro xảy ra tổn
thất đưa vào hợp đồng và giữ lại những rủi ro có độ an toàn cao hơn. Để phòng
ngừa trường hợp này xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải nắm được ý đồ của công ty
nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và thường

xuyên canh chừng diễn biến của thoả ước mà mình đã ký kết.
- Người nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu được một nguồn phí tái bảo
hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với các hình thức tái bảo hiểm tạm
thời.
- Công ty nhượng tái bảo hiểm có điều kiện đem chào tái bảo hiểm bảo
hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình cho
một nhà tái bảo hiểm duy nhất hay cho một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn
thay cho việc phải đem phân chia tất cả phần thặng dư so với khả năng tự giữ lại
của mình cho các nhà tái bảo hiểm. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế này
thường chỉ có thể thực hiện được bằng cách chào cho các nhà tái bảo hiểm có
tiềm lực thật lớn vì chỉ có họ mới có thể nhận các giá trị bảo hiểm cao.
* Nhược điểm:
- Nhà tái bảo hiểm không có quyền từ chối nhưng rủi ro mà người tái bảo
hiểm chuyển cho họ. Tuy nhiên, những rủi ro đó phải phù hợp với nội dung và
điều khoản đã quy ước trong hợp đồng tái bảo hiểm cố định.
- Hình thức này không thuận lợi lắm cho các nhà tái bảo hiểm, bởi vì
nguồn dịch vụ đưa vào hợp đồng này không thường xuyên và tổn thất gây ra rất
thất thường. Các bên tham gia hợp đồng cần phải có sự trung thực tuyệt đối để
đảm bảo cho các nhà tái bảo hiểm nhận được các dịch vụ hợp lý.
- Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần đem tái bảo hiểm
thì chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức này rất tốn kém.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM.
* Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm).
* Tái bảo hiểm phi tỉ lệ (tái bảo hiểm theo mức bồi thường).
3.1. Tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm,
là phương thức tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái
bảo hiểm và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo
tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Phương thức này
được chia làm hai loại:

- Tái bảo hiểm số thành.
- Tái bảo hiểm mức dôi.
3.1.1. Tái bảo hiểm số thành.
Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất
định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Do đó, phí bảo hiểm và số tiền
bảo hiểm cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm theo tỷ lệ
tương ứng. Ưu điểm của phương thức này là tính toán đơn giản, ít tốn kém và
công ty nhận tái bảo hiểm tham gia vào mọi rủi ro cho nên phân tán đều tổn
thất. Do đó, đảm bảo cân đối thu chi cho cả hai công ty nhượng và công ty nhận
tái. Tuy nhiên, phương thức này buộc công ty nhượng phải tái đi mọi rủi ro cho
nên không khai thác hết khả năng của công ty làm ảnh hưởng đến lợi nhuận,
mặt khác công ty nhượng không khống chế được tỷ lệ bồi thường đối với mức
giữ lại nên cũng ảnh hưởng đến kết quả kinh doạnh.
Tái bảo hiểm số thành được sử dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự,
bảo hiểm vận chuyển hàng hoá, ... và thường kết hợp tái bảo hiểm mức dôi.
3.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi.
Đặc trưng của của tái bảo hiểm mức dôi là công ty nhượng ấn định mức
giữ lại, số dôi ra tái đi. Trong tái bảo hiểm mức dôi trách nhiệm của người nhận
được xác nhận theo lớp, tức là bội số của mức giữ lại. Do đó, phí bảo hiểm và
số tiền bảo hiểm bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa công ty
nhượng và nhà tái bảo hiểm. Phương thức này có nhiều điểm tích cực hơn so
với tái bảo hiểm số thành. Thứ nhất là người nhượng có thể chủ động tính toán
và giữ lại được một cách ổn định số phí cho phù hợp với khả năng tài chính của
mình. Thứ hai là đối với những hợp đồng có số tiền bảo hiểm nhỏ thì người
nhượng có thể được giữ lại toàn bộ. Khác với tái bảo hiểm số thành, người nhận
tái trong tái bảo hiểm theo mức dôi sẽ không tham gia vào mọi đơn vị rủi ro mà
chỉ can thiệp khi đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm lớn hơn mức giữ lại của
người nhượng.
Hạn chế của tái bảo hiểm dưới hình thức này là người nhượng này vẫn có
bị đe doạ bởi những trường hợp tích tụ rủi ro và không thể áp dụng cho bảo

hiểm trách nhiệm dân sự không giới hạn. Hơn nữa đây còn là một hình thức đòi
hỏi công tác quản lý hợp đồng phức tạp và tốn kém.
3.1.3. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi.
Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên được tiến hành
theo trình tự từng hợp đồng. Trước hết tiến hành phân bổ cho hợp đồng mức
dôi. Kết hợp giữa hình thức tái bảo hiểm số thành và tái bảo hiểm mức dôi có
tác dụng làm giảm nhẹ trách nhiệm của hợp đồng số thành, đồng thời công ty
nhượng phải lo thu xếp tái bảo hiểm tạm thời.
3.2. Tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ hay còn gọi là tái bảo hiểm theo mức bồi thường
bảo hiểm, là một phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái bảo
hiểm ấn định giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu
cho tổn thất, là hậu quả của từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà
mình đảm trách, còn phần tổn thất vượt quá mức giới hạn đó được chuyển cho
nhà tái bảo hiểm gánh chịu. Các phương thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan
đến các mức tỷ lệ của giá trị đối tượng chịu rủi ro. Trong khi các phương thức
tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác và được dựa trên các tổn thất
chứ không phải là số tiền bảo hiểm. Có hai phương thức tái bảo hiểm cơ bản
sau:
* Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường.
* Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
3.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường.
Theo phương thức này, công ty nhượng ấn định số tổn thất vượt quá điểm
tự bồi thường chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm, và nhà tái bảo hiểm nhận tái
theo từng lớp.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có các dạng sau:
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức.
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố.
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo tai hoạ khốc liệt.
3.2.2. Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.

Theo phương thức này, công ty nhượng khống chế trách nhiệm bồi
thường một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ bồi thường vượt quá mức quy định được
chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm. Phương pháp này giúp cho công ty nhượng
chống lại sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm
hay một dạng dịch vụ bảo hiểm nào đó trong một thời gian quy định, bất luận
tình trạng đó do nguyên nhân nào xảy ra.
Số tiền bồi thường
Tỷ lệ bồi thường = ------------------------------
Phí thu
3.2.3. Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi và vượt mức bồi thường.

×