Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.89 KB, 34 trang )

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
I/ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHẢI CÓ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
1. Đặc điểm hoạt động của xe ô tô
Xe ô tô là loại xe hoạt động bằng chính động cơ của mình và được phép
lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Xe ô tô không chỉ là phương tiện vận
chuyển mà còn là một tài sản có giá trị lớn của các cá nhân và tổ chức. Trong
thời đại ngày nay ô tô là một phương thức vận tải phát triển nhanh nhất và năng
động nhất bởi một số ưu thế sau: năng động linh hoạt, tiếp cận nhanh mọi nhu
cầu vận tải của toàn xã hội, là phương tiện vận tải rất có hiệu quả đối với đường
ngắn và thích hợp với cơ chế thị trường và quy luật cung cầu.
Trong quá trình hoạt động, xe ô tô có một số đặc điểm sau:
- Xe ô tô có tính động cơ cao, tính việt giã tốt và nó tham gia triệt để quá
trình vận chuyển nên xác suất rủi ro đã lớn lại càng lớn hơn so với các phương
tiện vận chuyển khác.
- Số lượng ô tô tham gia giao thông ngày càng tăng lên đặc biệt ở các
nước có nền kinh tế đang phát triển, chậm phát triển. Lượng xe ô tô ở Việt Nam
từ hàng trăm chiếc vào đầu thế kỷ 20 nay đã tăng lên hàng triệu chiếc, tỷ lệ tăng
trưởng trung bình hàng năm đối với ô tô là 8 - 8,5%. Vì vậy tai nạn giao thông
xảy ra ngày càng tăng và mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng.
Bảng 1: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam giai đoạn
1999 - 2003
Năm Số vụ tai nạn
giao thông (vụ)
Số người chết
(người)
Số người bị
thương (người)
1999 20.733 6.670 23.911
2000 23.500 7.500 27.538
2001 29.713 10.477 34.000
2002 26.424 12.825 27.909


2003 20.774 11.864 20.704
(Nguồn: Tạp chí GTVT số 9/2003, số 1+2/2004)
Số liệu bảng 1 cho thấy năm 2003 là năm có nhiều chuyển biến tích cực
về tình hình trật tự an toàn giao thông. Số vụ tai nạn giao thông đã giảm đi đáng
kể, từ 26.424 vụ năm 2002 xuống còn 20.774 vụ, giảm 27,2%, số người chết
giảm 8,1% và số người bị thương giảm 34,8% so với năm 2002. Tuy nhiên mức
độ thiệt hại về người và của do tai nạn giao thông gây ra vẫn còn cao so với rủi
ro khác, thiệt hại về tài sản lên đến hàng trăm tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu
của các vụ tai nạn giao thông vẫn là sự thấp kém của cơ sở hạ tầng giao thông
và người dân còn thiếu ý thức chấp hành luật lệ giao thông một cách nghiêm
trọng ( trong đó lỗi của người tham gia giao thông chiếm tới 78%). Đối tượng
gây tai nạn giao thông phần lớn là xe máy (chiếm trên 70%) và ô tô (chiếm trên
24%). Điều này đã cảnh báo rằng cùng với đà tăng lên của các phương tiện vận
chuyển thì cũng kéo theo sự tăng lên của số vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại
rất lớn về người và của cho xã hội. Đối với một quốc gia chưa có cơ sở hạ tầng
giao thông hiện đại như nước ta hiện nay thì sự tăng nhanh về số lượng phương
tiện vận chuyển chưa hẳn đã có lợi.
- Xe ô tô tham gia giao thông phụ thuộc rất lớn vào thời tiết khí hậu, địa
hình, vào cơ sở hạ tầng giao thông của mỗi nước, vào ý thức chấp hành luật lệ
giao thông của mỗi người dân. í thức chấp hành luật lệ an toàn giao thông của
mỗi người dân đặc biệt là chính các chủ phương tiện thì mức độ thiệt hại cho
phương tiện càng thấp.
- Xe ô tô tham gia bảo hiểm liên quan đến rất nhiều bộ luật của mỗi quốc
gia như: luật dân sự, luật hình sự nên nếu hệ thống luật pháp không đồng bộ thì
việc giải quyết khiếu nại bồi thường đôi khi rất phức tạp.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ô tô
2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe ô tô
Hiện nay xe ô tô ngày càng được sử dụng nhiều bởi những ưu thế so với
các phương tiện vận tải khác, tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đó cũng vẫn
còn tồn tại những nhược điểm trong quá trình vận chuyển bằng ô tô. Đó là

những thiệt hại do ô tô gây ra trong quá trình vận chuyển không phải là nhỏ.
Phần lớn những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra đều có sự góp mặt
của ô tô. Tai nạn giao thông đường bộ xuất hiện ở khắp mọi nơi không trừ một
quốc gia nào kể cả những nước có hệ thống hạ tầng giao thông hiện đại như:
Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Ở nước ta, cùng với đà tăng lên về số lượng ô tô cũng là
sự tăng lên của số vụ tai nạn giao thông đường bộ và mức độ thiệt hại. Các chủ
xe luôn phải đối mặt với không ít những nguy cơ rủi ro khác nhau trong quá
trình vận chuyển như:
- Nguy cơ rủi ro về tài sản
- Nguy cơ rủi ro về trách nhiệm pháp lý
- Nguy cơ rủi ro về nguồn nhân lực
Những rủi ro trên đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các chủ xe, làm cho họ mất
mát về tài sản, làm ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh và đặc biệt là ảnh
hưởng lớn đến nguồn tài chính của họ.
Để đối phó với những tổn thất do các rủi ro trên gây ra, chủ xe có thể
thực hiện các biện pháp như: lập một quỹ dự phòng dùng vào việc khắc phục
tổn thất xảy ra cho xe ô tô, đi vay hoặc rút tiền gửi ngân hàng, mua bảo hiểm vật
chất xe ô tô. Trong số những biện pháp đó thì biện pháp mua bảo hiểm tỏ ra có
hiệu quả hơn hẳn bởi tính chắc chắn và ổn định của nó. Việc mua bảo hiểm
chính là việc chủ xe chuyển giao rủi ro của họ cho doanh nghiệp bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có trách nhiệm bồi thường cho họ những tổn thất
thuộc phạm vi bảo hiểm. Xe ô tô là loại tài sản có giá trị lớn trong các phương
tiện giao thông đường bộ bởi vậy thiệt hại đối với xe ô tô đôi khi cũng gây ra
gánh nặng vô cùng lớn cho các chủ xe đặc biệt đối với những xe dùng vào việc
kinh doanh. Rủi ro tai nạn là rủi ro bất ngờ không thể biết trước lúc nào sẽ xảy
ra, do đó việc nộp phí bảo hiểm sẽ tạo ra thói quen đề phòng cho các chủ xe
trước những rủi ro đó. Do đó việc mua bảo hiểm vật chất xe ô tô đã trở nên hết
sức cần thiết đối với các chủ xe hiện nay. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
việc mua bảo hiểm vật chất xe ô tô rất được người dân quan tâm tới bởi phương
tiện đi lại của họ chủ yếu là xe ô tô và các phương tiện công cộng. Sự cần thiết

của bảo hiểm vật chất xe ô tô càng được khẳng định hơn khi mỗi chủ xe hiểu rõ
về tác dụng của nghiệp vụ này.
2.2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe ô tô
Việc mua bảo hiểm vật chất xe ô tô có một số tác dụng tích cực sau:
* Đối với các chủ xe:
- Giúp các chủ xe nhanh chóng khắc phục được những khó khăn về mặt
tài chính đặc biệt đối với những khoản chi phí vượt quá khả năng tài chính của
họ, giúp các chủ xe là các doanh nghiệp hạn chế được ngắn nhất thời gian gián
đoạn kinh doanh có thể xảy ra do gặp rủi ro và khôi phục sản xuất kinh doanh
sau khi tổn thất xảy ra đối với xe.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của chủ xe, thúc đẩy họ phải thực hiện
các biện pháp an toàn khi lái xe đề phòng thiệt hại và luôn chăm lo giữ gìn xe.
- Tạo tâm lý an toàn cho người điều khiển xe góp phần tích cực ngăn
ngừa và đề phòng các vụ tai nạn giao thông.
- Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng thường gặp giữa chủ xe với nạn nhân
của các vụ tai nạn. Từ đó làm giảm bớt những bất đồng trong việc tham gia giao
thông đường bộ.
* Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm:
- Việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô đã góp phần tăng
thu cho ngân sách Nhà nước thông qua khoản thuế thu nhập doanh nghiệp để từ
đó có điều kiện đầu tư trở lại nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
- Với số phí bảo hiểm thu được từ các chủ xe, doanh nghiệp bảo hiểm có
điều kiện tạo ra nguồn quỹ lớn để thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn
thất như: đặt các biển cảnh báo trên những đoạn đường nguy hiểm, tham gia
làm đường lánh nạn, đặt gương cầu lồi ở những đoạn đường đèo dốc… do đó
góp phần làm giảm số vụ tai nạn giao thông Điều này mang một ý nghĩa xã hội
rất lớn cho đất nước.
- Số phí bảo hiểm còn giúp doanh nghiệp xây dựng được quỹ tài chính
tương đối lớn một mặt phục vụ công tác bồi thường, chi quản lý…một mặt có

thể dùng để đầu tư ngắn hạn đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất
nước như: cho vay, mua trái phiếu, kinh doanh bất động sản, tham gia vào thị
trường chứng khoán…
Như vậy với những tác dụng tích cực như trên việc triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm vật chất xe ô tô là cần thiết khách quan nhất là trong tình hình nền
kinh tế thế giới không ngừng phát triển như hiện nay.
II/ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ
1. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm là đối tượng ở trong tình trạng chịu sự đe doạ của rủi
ro. Vì mục đích đảm bảo an toàn, phục hồi, tái tạo lại đối tượng bảo hiểm mà
một hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết.
Khác với loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ ba và đối với hành khách trên xe được áp dụng bắt buộc bằng pháp
luật đối với chủ xe, bảo hiểm vật chất xe ô tô là loại hình bảo hiểm tự nguyện.
Bảo hiểm vật chất xe ô tô có đối tượng bảo hiểm là thiệt hại vật chất của
xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ ngoài sự kiểm soát của chủ xe trong những
trường hợp cụ thể do quy tắc bảo hiểm quy định. Chủ xe có thể tham gia bảo
hiểm toàn bộ xe hoặc cũng có thể tham gia bảo hiểm từng tổng thành của chiếc
xe. Căn cứ vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật, xe ô tô được chia thành 7 tổng thành
sau:
- Tổng thành động cơ gồm động cơ, bộ chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc
gió, bầu lọc dầu, bộ li hợp và các thiết bị điện.
- Tổng thành thân vỏ xe: có ba nhóm
Nhóm A: Thân vỏ: Ca bin, kalăng, cabrô, chắn bùn, toàn bộ cửa kính,
toàn bộ vỏ kim loại, nhựa và gỗ, các cần gạt, bàn đạp ga, côn, số, phanh.
Nhóm B: Ghế đệm nội thất: Toàn bộ ghế ngồi hoặc nằm, các trang thiết
bị điều hoà nhiệt độ, quạt, đài…
Nhóm C: Sắt xi gồm: khung xe bađờ sốc, các cơ cấu bắt chặt vào khung
xe, tổng bơm, phanh, dẫn động phanh chính và phanh tay, dẫn động côn, các
bình chứa hơi phanh, bình chứa nhiên liệu, các đường ống và tuyến dẫn nhiên

liệu, hơi, dây dẫn điện, bộ điều hoà lực phanh, mâm xoay…
- Tổng thành hộp số gồm có các hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn
động cơ.
- Tổng thành hệ thống lái gồm vô lăng lái, trục tay lái, hộp tay lái, bộ trợ
lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc…
- Tổng thành trục trước (cầu trước) gồm có dầm cầu, trục láp, hệ thống
treo nhíp, mayơ trước, cơ cấu phanh, si lanh phanh…
- Tổng thành trục sau (cầu sau) bao gồm vỏ cầu, toàn bộ trục cầu, cụm
mayơ sau, cơ cấu phanh, silanh phanh, trục láp ngang, hệ thống treo cầu sau…
- Tổng thành lốp gồm toàn bộ lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả lốp dự trữ).
Ngoài ra một số loại xe như xe cứu thương, xe cứu hoả, xe chở container, cần
cẩu, xe chở xăng dầu… còn có tổng thành thứ 8 gọi là tổng thành chuyên dùng.
Trên cơ sở phân chia như trên, doanh nghiệp bảo hiểm có thể nhận bảo
hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận xe theo yêu cầu của chủ xe trong
phạm vi bảo hiểm. Trong số các tổng thành xe ô tô, tổng thành thân vỏ chiếm tỷ
trọng cao nhất (khoảng 50%) cũng như chịu ảnh hưởng nhiều nhất những hậu
quả tai nạn. Chính vì vậy, hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
2. Phạm vi bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất
của xe xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của chủ xe, lái xe
trong những trường hợp sau:
- Tai nạn do đâm va, lật đổ;
- Cháy nổ, hoả hoạn;
- Những tai hoạ bất khả kháng do thiên nhiên như: bão, lũ, lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa đá;
- Mất cắp toàn bộ xe;
- Tai nạn rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất cho chiếc xe được bảo hiểm
trong những trường hợp trên, doanh nghiệp bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe

tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý phát sinh trong tai nạn
thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm;
- Bảo vệ xe và đưa xe bị thiệt hại đến nơi sửa chữa gần nhất;
- Giám định tổn thất.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường trong một vụ tai nạn
không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm dù cho
chủ xe có tham gia bảo hiểm vật chất xe ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác
nhau đi chăng nữa.
Đồng thời doanh nghiệp bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi
thường những thiệt hại vật chất xe trong những trường hợp sau:
* Những điểm loại trừ chung:
- Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe;
- Xe không có Giấy chứng nhận kiểm định an toàn và bảo vệ môi trường
hợp lệ;
- Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ
như:
+ Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ;
+ Lái xe có nồng độ cồn, rượu bia vượt quá quy định của pháp luật
hiện hành trong khi điều khiển xe;
+ Xe vận chuyển chất cháy, nổ trái phép;
+ Xe sử dụng để tập lái, đua xe, chạy thử sau khi sửa chữa;
+ Xe đi đêm không có đèn chiếu sáng theo quy định;
+ Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm;
+ Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định;
- Những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương
mại, ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác;
- Thiệt hại do chiến tranh;
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam (trừ khi có thoả thuận khác);
* Những điểm loại trừ riêng:

- Hao mòn do sử dụng, lão hoá, mất giá, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư
hỏng thêm do sửa chữa, trong quá trình sửa chữa;
- Hư hỏng về điện hoặc các bộ phận máy móc thiết bị mà không phải do
tai nạn gây ra;
- Tổn thất với săm lốp trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng nguyên
nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một tai nạn;
- Mất cắp bộ phận xe (nhưng nếu chủ xe có nhu cầu thì nhà bảo hiểm vẫn
chấp nhận bảo hiểm với mức miễn thường không khấu trừ);
Ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền
bồi thường cho chủ xe trong trường hợp chủ xe:
- Không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin ban đầu về đối
tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm;
- Khi xảy ra tai nạn, không kịp thời thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo
hiểm, không áp dụng các biện pháp kịp thời để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất
gia tăng, tự ý tháo dỡ, sửa chữa xe mà chưa có sự đồng ý hoặc giám sát của
doanh nghiệp bảo hiểm hay đại diện của họ;
- Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong việc
gây ra thiệt hại của phương tiện cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác
thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên nếu chủ xe
cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu
cầu.
3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
3.1. Số tiền bảo hiểm
Khi nhận bảo hiểm vật chất xe ô tô việc đầu tiên của các doanh nghiệp
bảo hiểm là phải xác định được giá trị bảo hiểm của xe. Do đó giá trị bảo hiểm
là yếu tố quyết định số tiền bảo hiểm của xe.
Giá trị bảo hiểm là giá trị bằng tiền của tài sản. Nó thường được xác định
bằng giá trị thực tế của tài sản vào thời điểm ký kết hợp đồng. Đây là căn cứ để

xác định số tiền bảo hiểm.
Trong bảo hiểm vật chất xe ô tô, cách thức bảo hiểm toàn bộ hay bảo hiểm bộ
phận sẽ chi phối việc thoả thuận về số tiền bảo hiểm của hợp đồng.
Đối với bảo hiểm toàn bộ xe, số tiền bảo hiểm dựa vào việc xác định giá
trị bảo hiểm của xe. Giá trị bảo hiểm của xe ô tô là giá trị thực tế trên thị trường
của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.Việc xác định đúng
giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường
chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá xe trên
thị trường luôn luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó
khăn cho việc xác định giá trị xe. Hiện nay ở Việt Nam rất nhiều xe đã qua sử
dụng, sửa chữa tân trang lại nên việc xác định đúng giá trị thực tế của xe là vô
cùng khó khăn và phức tạp.
Về nguyên tắc để xác định giá trị xe một cách đầy đủ chính xác nhất thì phải
thành lập một hội đồng đánh giá giá trị hoặc tổ chức đấu giá. Nhưng trong thực
tế thì các bên không đủ chi phí và thời gian để làm như vậy với hàng trăm chiếc
xe ô tô tham gia bảo hiểm. Do đó trước khi tham gia bảo hiểm các công ty bảo
hiểm và các chủ xe sẽ tiến hành thoả thuận đánh giá giá trị thực tế của xe theo
cách sau:
* Đánh giá giá trị thực tế của xe theo thị trường: doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ cùng với chủ xe thảo luận xác định giá trị thực tế của xe trên thị trường kết
hợp với giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình sử dụng. Việc xác
định giá trị thực tế của xe trên thị trường căn cứ vào các yếu tố sau:
- Giá mua ban đầu của xe
- Giá mới của xe cùng loại trên thị trường vào thời điểm hiện tại có tham
khảo bảng giá trị xe mới do doanh nghiệp bảo hiểm ban hành hàng năm và giá
xe tại các hãng xe ô tô trên cơ sở sự biến động về giá cả xe mới trên thị trường.
- Xu hướng tiêu dùng các loại xe của thị trường, tình hình sản xuất trong
nước hoặc nhập khẩu của các xe cùng loại hay các phụ tùng thay thế.
- Tình trạng hao mòn thực tế của xe: Có thể dựa vào các căn cứ sau để
đánh giá:

+ Số km đã khai thác trên thực tế
+ Số năm đã sử dụng xe, mục đích sử dụng xe
+ Tần suất sử dụng xe hay hệ số khai thác
+ Đặc điểm địa hình hoặc điều kiện đường xá của vùng hay tuyến
mà xe thường xuyên hoạt động
+ Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế.
- Giá mua bán trên thị trường của các xe tương đương cùng loại.
Với các căn cứ và cách đánh giá trên, chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm
có thể thoả thuận đi đến thống nhất một giá trị xe tham gia bảo hiểm hợp lý. Nói
chung mọi quá trình đánh giá xác định giá trị xe chỉ cho một kết quả tương đối
và doanh nghiệp bảo hiểm cũng khó tìm được một kết quả tuyệt đối mà chỉ
mong muốn một kết quả hợp lý để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên.
* Cách tính giá trị xe theo sổ sách:
Khi chủ xe là các doanh nghiệp hay các cơ quan tổ chức hành chính sự
nghiệp thì xe ô tô là một trong các loại tài sản cố định. Theo quy định hiện hành
của Nhà nước về chế độ kế toán khấu hao tài sản cố định, thì có một cách xác
định giá trị xe gọi là cách tính giá trị xe theo sổ sách như sau:
Đối với bảo hiểm bộ phận xe (thân vỏ xe), số tiền bảo hiểm được xác
định trên cơ sở giá trị bảo hiểm toàn bộ xe và tỷ lệ (%) về phần giá của bộ phận
đó trên giá trị toàn bộ xe (tỷ lệ này nhà bảo hiểm đã quy định đối với từng loại
xe).
* Đối với xe ô tô nhập khẩu miễn thuế, công thức tính giá trị thực tế của
xe như sau:
GT
TT
=CIF * (100% + T
S
.T
NK
) * (100% + T

S
.T
TTĐB
)
Trong đó:
-
Chi phí sửa
chữa lớn, đại
tu (nếu có)
Giá trị
còn lại
của xe
Khấu hao tài
sản theo
thời gian sử
dụng
Nguyên
giá
+
=
GT
TT
: Giá trị thực tế của xe
CIF: Giá CIF (*)
T
S
.T
NK
: Thuế suất thuế nhập khẩu
T

S
.T
TTĐB
: Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt
(*): Giá CIF là giá xe ô tô về đến cảng gồm:
- C (Cost): Giá mua ô tô tại cửa khẩu nước xuất khẩu
- I (Insurance): Phí bảo hiểm cho chiếc xe trong quá trình vận chuyển từ
nước xuất khẩu về Việt Nam.
- F (Freight): Cước phí vận chuyển
Do việc xác định giá trị của những xe nhập khẩu là khó khăn nên thông thường
các công ty bảo hiểm luôn phải tính toán kỹ lưỡng trước khi chấp nhận bảo
hiểm.
3.2. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải trả cho nhà bảo hiểm khi
tham gia bảo hiểm vật chất xe ô tô. Biểu phí mà nhà bảo hiểm thu trên cơ sở
biểu phí do bộ tài chính quy định. Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối
với mỗi loại xe được tính theo công thức sau:
P = f + d
Trong đó: P - Phí thu mỗi đầu xe
f - Phí bồi thường
d - Phụ phí
Căn cứ vào số tiền bảo hiểm, nhà bảo hiểm xác định phí bảo hiểm theo
công thức sau:
P = S
b
* R
Trong đó: S
b
: Số tiền bảo hiểm
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm

Tỷ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Xác suất thống kê các vụ tai nạn xảy ra nói chung
- Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn nói chung
- Địa hình và phạm vi hoạt động của chiếc xe
- Tình hình sửa chữa lớn và hiện đại hoá xe
- Thời hạn bảo hiểm: Thông thường thời hạn bảo hiểm là một năm tuy
nhiên nếu chủ xe có yêu cầu thì nhà bảo hiểm vẫn nhận bảo hiểm ngắn hạn và
chủ xe sẽ được giảm phí theo tỷ lệ giảm phí do bộ tài chính quy định.
Bảng 2: Biểu phí ngắn hạn theo quy định của Bộ Tài chính
Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Đến 3 tháng 30%
Trên 3 đến 6 tháng 60%
Trên 6 đến 9 tháng 90%
Trên 9 đến 12 tháng 100%
Bảng 3: Biểu phí dài hạn theo quy định của Bộ Tài chính
Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Trên 12 đến 15 tháng 124%
Trên 15 đến 18 tháng 144%
Trên 18 đến 21 tháng 162%
Trên 21 đến 24 tháng 168%
Trên 24 đến 30 tháng 208%
Trên 30 đến 36 tháng 240%
Bảng 4a: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô của Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam (chưa tính thuế VAT)
Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm
Bảo hiểm toàn bộ xe 1,36% số tiền bảo hiểm
Bảo hiểm thân vỏ xe 2,27% số tiền bảo hiểm
(Nguồn: Công ty Bảo Việt Hà Nội)

×