THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ CÁC CHẾ
ĐỘ BHXH BẮT BUỘC TẠI BHXH TỈNH TUYÊN QUANG
GIAI ĐOẠN 2007-2010
2.1 Khái quát chung về đặc điểm KT- XH của tỉnh Tuyên Quang và công tác BHXH tại cơ
quan BHXH tỉnh Tuyên Quang.
2.1.1. Giới thiệu chung về tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, nằm ở giữa Tây Bắc và Đông Bắc của Tổ
quốc, cách Hà Nội 165 km đường bộ (theo Quốc lộ 2) về phía Bắc, với diện tích tự nhiên là
5.868 km2 chiếm 1,78% diện tích cả nước; dân số trên 720 ngàn người, với 22 dân tộc cùng
chung sống. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động là 387.992 người, chiếm 53,9% dân số.
Nguồn lao động của Tuyên Quang có thế mạnh là trẻ, 51,8% có trình độ văn hoá trung học cơ
sở và trung học phổ thông.
Trong cách mạng Tháng Tám , Tuyên Quang vinh dự là Thủ đô Khu giải phóng, được
Trung ương Đảng và Bác Hồ chọn làm trung tâm của cách mạng cả nước. Trong công cuộc
đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang tiếp tục phát huy truyền thống vẻ
vang của quê hương cách mạng, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, khai thác tiềm năng, phát
huy thế mạnh của địa phương, chủ động hội nhập kinh tế, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong
phát triển KT-XH.
Tính đến nay, trên toàn tỉnh đã có hơn 120 hợp tác xã thủ công nghiệp, gần 500 doanh
nghiệp lớn nhỏ đóng trên địa bàn góp phần đáng kể trong công tác thu hút lao động, giải quyết
việc làm, phát triển KT-XH địa phương. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh luôn
đạt 11,5% năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ,
thương mại, công nghiệp, giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp; đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Ngày 2-7-2010, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 27/NQ-CP về việc thành lập Thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên
Quang. Cùng lúc đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang vinh dự
được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất minh chứng cho những
cố gắng không ngừng nghỉ của toàn bộ cán bộ và nhân dân toàn tỉnh trong suốt thời gian qua
2.1.2. Khái quát chung về BHXH tỉnh Tuyên Quang
Ảnh: Trụ sở bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên quang.
Cùng với sự ra đời, xây dựng và phát triển của Hệ thống Bảo hiểm xã hội trong cả
nước, Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang được thành lập theo Quyết định số 93/QĐ-TC ngày
04/8/1995 của Tổng Giám Đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 01/9/1995.
Từ ngày 01/01/2003 thực hiện quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/01/2002 của
Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển giao BHYT sang BHXH và Nghị định số 100/2002/QĐ-
BHXH-TCCB ngày 17/12/2002 cuả Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức của BHXH tỉnh Tuyên Quang, BHYT được sáp nhập vào BHXH
tỉnh.
Bảo hiểm xã hội Tuyên Quang ban đầu được thành lập trên cơ sở tiếp thu nhiệm vụ
chuyển giao từ ngành Lao động-Thương binh và Xã hội, Liên đoàn lao động tỉnh và Cục thuế
tỉnh, hệ thống tổ chức bộ máy được xây dựng gồm 4 phòng nghiệp vụ ở BHXH tỉnh và ở 6
huyện thị xã. Đến nay sau 15 năm tại trụ sở của BHXH tỉnh đã có 9 phòng nghiệp vụ, 6 đơn vị
là BHXH huyện, thành phố; cơ sở vật chất từ chỗ tạm bợ, khó khăn, đến nay đã khang trang,
phương tiện làm việc từng bước được hiện đại hóa đủ sức đáp ứng với tiến trình hội nhập và
phát triển kinh tế của địa phương nói riêng và của cả nước nói chung. BHXH Tuyên Quang đã
ngày càng lớn mạnh cả về quy mô và chất lượng phục vụ thông qua việc mở rộng đối tượng
tham gia, mở rộng quy mô quỹ BHXH và giải quyết nhanh chóng, kịp thời các chế độ trợ cấp
BHXH cho người dân trong toàn tỉnh.
2.2 Tình hình thực hiện công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Tuyên
Quang.
2.2.1. Công tác quản lý đối tượng hưởng và mức hưởng
Quản lý đối tượng hưởng và mức hưởng là công tác thường xuyên, liên
tục của cơ quan BHXH tỉnh, nhằm tránh tình trạng đối tượng chi trả không còn
tồn tại mà nguồn kinh phí chi trả vẫn được cấp gây ra sự tổn thất cho quỹ
BHXH, dẫn đến tình trạng trục lợi BHXH của các đơn vị và cá nhân.
Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể chính là bản thân người lao động và
gia đình họ, đối tượng được trợ cấp BHXH có thể được hưởng một lần hay hàng tháng, hàng
kỳ; hưởng trợ cấp nhiều lần hay ít tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và mức
độ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải.
Việc quản lý đối tượng hưởng và mức hưởng tại BHXH tỉnh Tuyên Quang được thực
hiện thông qua công tác quản lý hồ sơ đối tượng. Phòng Tiếp nhận – Quản lý hồ sơ của BHXH
tỉnh là đơn vị chịu trách nhiệm quản lý lưu trữ hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng, hồ sơ hưởng
BHXH một lần, hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
- Hiện nay, BHXH Tuyên Quang đang quản lý hơn 4 vạn hồ sơ đối tượng tham gia và
hưởng BHXH, BHYT. Công tác quản lý hồ sơ luôn được quan tâm, chú trọng và thực hiện tốt
về công tác lưu trữ, sắp xếp hồ sơ đối tượng khoa học, thuận tiện cho việc tra cứu, khai thác, sử
dụng. Năm 2010, đã tiếp nhận 6.676 hồ sơ giải quyết các chế độ về BHXH, BHYT; trả cho đối
tượng 6.329 hồ sơ; tiếp nhận 15.679 sổ BHXH; trả cho đối tượng 11.438 sổ; tiếp nhận 467.093
thẻ BHYT, trả cho đối tượng 459.171 thẻ.
- Thực hiện tốt nghị quyết số 94/QĐ- BHXH ngày 07/5/2009 về quy định quy trình thực
hiên tiếp nhận và trả kết quả tham gia, giải quyết chế độ BHXH, BHYT tại BHXH tỉnh Tuyên
Quang. Các thủ tục, hồ sơ, mẫu biểu và quy trình thời hạn giải quyết hưởng các chế độ BHXH
đối với người lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc và tự nguyện được thực hiện niêm
yết công khai theo quy định đảm bảo giải quyết nhanh gọn, đúng, đủ mọi quyền lợi cho người
lao động.
- Cán bộ làm công tác lưu trữ hồ sơ được tham dự đầy đủ các lớp tập huấn để nâng cao
nghiệp vụ, có đầy đủ các sổ sách theo dõi, thông kê. Tuy nhiên, việc cập nhật trên máy vi tính
chưa kịp thời, hoàn thiện.
- Trong năm qua, việc tra cứu hồ sơ phục vụ có hiệu quả cho công tác giải quyết khiếu
nại - tố cáo của công dân.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lưu trữ và quản lý hồ sơ được áp dụng triệt để
đã phục vụ hiệu quả cho việc tra cứu, khai thác, sử dụng. Trong công tác quản lý chi BHXH
trên máy vi tính, khi có sự biến động về chế độ như tăng lương hưu, trợ cấp BHXH, việc tính
lương hưu, trợ cấp BHXH theo mức mới cho đối tượng được nhanh chóng, chính xác. Ví dụ,
vào đợt điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH sau khi lập xong chương trình tính toán theo
phần mềm của BHXH Việt Nam, việc điều chỉnh lương hưu cho gần 40.000 người chỉ trong
vòng một tuần. Việc in ấn danh sách chi trả được điều chỉnh theo mức mới cho toàn tỉnh chỉ
trong 4 - 7 ngày. Hiện nay, BHXH và tất cả các đơn vị BHXH huyện, thị đều thực hiện nghiệp
vụ kế toán trên máy vi tính, tiết kiệm được thời gian luân chuyển chứng từ phát sinh, lặp đi, lặp
lại nhiều lần.
- BHXH Tuyên Quang đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong khâu xét duyệt hồ sơ,
đảm bảo giải quyết chế độ BHXH chính xác, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác và ý thức
trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức, viên chức.
- Xây dựng Kế hoạch triển khai phân cấp cho BHXH các huyện, thành phố giải quyết
hưởng BHXH một lần theo Quyết định số 777/QĐ-BHXH ngày 17/5/2010 của BHXH Việt
Nam trong việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
- Thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH theo Nghị định số 28,29/2010/NĐ-CP;
hàng tháng theo dõi danh sách tăng, giảm; lập danh sách chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH cho
trên 4 vạn đối tượng kịp thời; lập thủ tục chuyển đi, chuyển đến cho các trường hợp đảm bảo
kịp thời và đúng quy định.
- Nhằm bảo vệ quyền lợi về BHXH của người lao động được giải quyết nhanh chóng, gắn
trách nhiệm vật chất của cơ quan BHXH cấp tỉnh trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả giải quyết công việc của cấp tỉnh, những hồ sơ giải
quyết không đúng mà BHXH Việt Nam trả lại BHXH tỉnh phải tổ chức thu hồi phần giải quyết
không đúng, nếu không thu hồi được phải chịu trách nhiệm vật chất đối với phần giải quyết
chế độ không đúng quy định theo công thức Giám đốc BHXH tỉnh 50%, Trưởng phòng chức
năng 30% và cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ 20%.
2.2.2. Công tác kế hoạch tài chính và chi trả BHXH
2.2.2.1. Công tác kế hoạch tài chính.
BHXH tỉnh Tuyên Quang thực hiện nhận kinh phí chi trả các chế độ BHXH theo 2
nguồn:
- Đối với nguồn kinh phí cấp từ NSNN để chi trả cho người nghỉ hưởng BHXH trước
ngày 01 tháng 01 năm 1995 và kinh phí thực hiện chế độ hưu trí đối với quân nhân trực tiếp
tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước, có 20
năm trở lên phục vụ quân đội đã phục viên, xuất ngũ: thực hiện lập dự toán sử dụng kinh phí
và quyết toán kinh phí theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Kế toán và các văn
bản hướng dẫn. Hàng tháng, ngân sách nhà nước cấp kinh phí vào Quỹ bảo hiểm xã hội bắt
buộc để Bảo hiểm xã hội Việt Nam trả đủ và kịp thời lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội cho
những đối tượng thụ hưởng ở trên.
- Đối với nguồn quỹ BHXH bắt buộc: thực hiện lập dự toán, sử dụng kinh phí và quyết
toán kinh phí theo quy định của Luật Kế toán, các văn bản hướng dẫn Luật Kế toán và chế độ
kế toán BHXH do Bộ Tài chính ban hành. Hằng năm, dựa trên cơ sở kế hoạch tài chính được
Thủ tướng Chính phủ giao, Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao nhiệm vụ chi trả
về cho BHXH tỉnh.
Hiện nay, để quản lý công tác tài chính thống nhất BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Văn
phòng BHXH Việt Nam, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc đăng ký mở các tài khoản tiền gửi tại
chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) các cấp để quản lý
và thanh toán tiền thu, chi các quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm y tế; kinh phí quản lý bộ máy, các quỹ cơ quan và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
* Tài khoản “Tiền gửi chi bảo hiểm xã hội”: Tài khoản này dùng để thanh toán chi
BHXH giữa BHXH cấp tỉnh và BHXH cấp huyện, giữa BHXH tỉnh với các đơn vị sử dụng lao
động, các cơ sở khám chữa bệnh do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý; chi trả trực tiếp cho những
người được hưởng các chế độ BHXH.
- Bên có phản ánh:
+ Nhận kinh phí chi BHXH do BHXH Việt Nam chuyển về;
+ Nhận tiền do các đơn vị sử dụng lao động, các cơ sở khám chữa bệnh, các đối tượng hưởng
BHXH trả lại;
+ Nhận lãi từ số dư trên tài khoản tiền gửi chi BHXH do chi nhánh NHNo&PTNT trả;
+ Nhận các khoản chi hộ để chi cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH (nếu có)
- Bên nợ phản ánh:
+ Chuyển kinh phí chi BHXH cho BHXH huyện;
+ Chuyển kinh phí chi BHXH cho các đơn vị sử dụng lao động, các cơ sở khám chữa bệnh do
BHXH tỉnh trực tiếp quản lý;
+ Chi trả trực tiếp cho những đối tượng hưởng BHXH qua tài khoản thẻ ATM;
+ Rút tiền mặt về quỹ để chi trả trực tiếp cho đối tượng hưởng BHXH;
+ Chuyển lãi tiền gửi về BHXH Việt Nam;
+ Thanh toán cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH các khoản nhận chi hộ
(nếu có)
+ Thanh toán các khoản chi hộ cho các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH (nếu có)
Số dư: Tài khoản này có số dư có, phản ánh số kinh phí chi BHXH của BHXH tỉnh còn gửi tại
Chi nhánh NHNo&PTNT.
Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng của BHXH tỉnh vẫn tồn tại một quy
trình đã duy trì từ thời bao cấp: lập danh sách người nhận, nhận tiền từ ngân hàng về cơ quan
BHXH, chuyển tiền cho các ban đại diện chi trả ở phường -xã, thông báo cho người tới nhận.
Sau khi chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH xong, ban đại diện chi trả quyết toán số thực chi và
chuyển lại những trường hợp chưa nhận về cơ quan BHXH. Quy trình này tốn rất nhiều thời
gian công sức của nhiều người, đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập. Dễ phát sinh rủi ro, thậm chí
tiêu cực, mất tiền bạc trong quá trình vận chuyển hoặc trong khi cất giữ và cấp phát.
2.2.2.2. Công tác chi trả BHXH
Trong giai đoạn 2007 – 2010, kết quả chi trả các chế độ BHXH được thể hiện như sau:
Bảng 1: Kết quả chi trả các chế độ BHXH bắt buộc giai đoạn 2007- 2010
Đv: triệu đồng
Nguồn
Năm
Nguồn NSNN Nguồn quỹ BHXH Tổng chi
Số người Số tiền Số người Số tiền Số người Số tiền
2007 21,665 217,712 6,658 113,974 28,623 331,687
2008 23,229 265,118 8,318 167,030 31,547 432,149
2009 24,137 307,009 9,775 234,576 33,912 541,585
2010 26,975 323,004 11,307 289,003 38,282 612,007
(Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính – BHXH tỉnh Tuyên Quang)
Nguồn
Năm
Tốc độ pt nguồn
NSNN
Tốc độ pt nguồn quỹ
BHXH
Tốc độ pt tổng chi
Số người Số tiền Số người Số tiền Số người Số tiền
2007
- - - - - -
2008
5,7 21,7 24,9 46,5 10,2 30,2
2009
3,9 15,8 17,5 40,4 7,4 25,3
2010
11,7 5,2 15,6 23,2 12,8 13
Bảng 2: Phân tích tốc độ phát triển và tỷ trọng chi các nguồn tài chính BHXH giai đoạn
2007- 2010
Đv: %
(Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính – BHXH tỉnh Tuyên Quang)
Qua 2 bảng số liệu trên ta có thể thấy, trong 4 năm từ 2007 đến 2010 tổng số người
được hưởng và tổng số tiền chi trả trợ cấp BHXH qua các năm đều tăng cao, với tốc độ tăng
thay đổi qua các năm.
- Tổng số người được hưởng trợ cấp BHXH hàng năm tăng lên khá cao từ 28.623
người (năm 2007) lên 38.282 người (năm 2010) tăng 9.659 người tương đương 1,33 lần, với
tốc độ phát triển bình quân là 10% năm. Điều này là tổng hợp sự tác động của 2 nhân tố chính:
thứ nhất, do số người được hưởng trợ cấp từ nguồn ngân sách nhà nước hàng năm đều tăng,
cao nhất là 11,7% năm 2010, trong đó từ 21.665 người (2007) lên 26.975 người (2010) tăng
5.310 người; thứ hai, do số người được hưởng trợ cấp từ nguồn quỹ BHXH hàng năm cũng
tăng đều từ 6.658 người (2007) lên 11.307 người (2010) tăng 4649 người, cao nhất là năm
2008 tốc độ phát triển là 24,9%.
- Tổng số tiền chi trả cho các chế độ trợ cấp cũng đều tăng lên với tỷ lệ tương đối cao,
nếu năm 2007 mới là 331 tỷ đồng thì đến năm 2010 đã tăng lên 612 tỷ đồng tăng 281 tỷ đồng
xấp xỉ 1,85 lần. Trong đó số tiền chi từ nguồn ngân sách nhà nước luôn chiếm tỷ lệ lớn hơn từ
nguồn quỹ BHXH. Chi từ nguồn NSNN từ 217 tỷ đồng (2007) lên 323 tỷ đồng năm 2010 tăng
106 tỷ đồng gần 1,5 lần, năm có tốc độ phát triển cao nhất là 2008 với 21,7 %. Chi từ nguồn
quỹ BHXH từ 2007- 2010 là 113 tỷ đồng lên 289 tỷ đồng tăng 176 tỷ đồng tương đương tăng
2,5 lần, năm 2008 cũng là năm có tốc độ phát triển cao nhất 46,5 %.
Bảng 3: Tỷ trọng các nguồn chi giai đoạn 2007- 2010
Đv: %
Nguồn
Năm
Số tiền Số người
NSNN Quỹ BHXH NSNN Quỹ BHXH
2007 65.5 34,5 76,7 23,3
2008 61,3 38,7 73,6 26,4
2009 56,7 43,3 71,2 28,8
2010 52,8 47,2 70,5 29,5
(Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính – BHXH tỉnh Tuyên Quang)
Xét về cơ cấu 2 nguồn chi trả cho các chế độ ta có thể dễ dàng nhận thấy đang có sự
thay đổi rõ nét trong tỷ trọng cơ cấu giữa nguồn chi từ ngân sách nhà nước với nguồn chi từ
quỹ BHXH. Nếu như số tiền chi tuyệt đối vẫn tăng đều trên cả 2 nguồn thì xét về tỷ trọng cơ
cấu trên tổng số tiền chi trả và số người được chi trả nguồn chi từ ngân sách nhà nước đang có
xu hướng giảm dần qua các năm (quỹ tiền: từ 65,5% năm 2007 giảm xuống 52,8% năm 2010,
giảm 12,7%; quỹ người: từ 76,7% năm 2007 xuống còn 70,5% năm 2010, giảm 6,2%) đồng
nghĩa với việc tỷ trọng nguồn chi từ nguồn quỹ BHXH đang tăng lên (quỹ tiền: 34,5% năm
2007 lên 47,2% năm 2010, tăng 12,7%; quỹ người: 23,3% năm 2007 lên 29,5% năm 2010, tăng
6,2%).
Sở dĩ có sự thay đổi như vậy là do số người hưởng BHXH từ năm 1995 trở về trước
đang giảm dần theo tuổi tác trong khi số người hưởng BHXH từ năm 1995 trở đi vẫn liên tục
được bổ sung. Điều này cũng cho thấy, quỹ BHXH đang ngày càng lớn mạnh để đủ sức đáp
ứng nhu cầu chi trả cũng như ngày càng độc lập hơn so với nguồn ngân sách
Sau đây là bảng tổng hợp chi tiết kết quả chi trả BHXH bắt buộc từ 2 nguồn ngân sách
và quỹ BHXH trong giai đoạn 2007- 2010:
Bảng 4: Kết quả chi trả BHXH bắt buộc từ nguồn ngân sách nhà nước
giai đoạn 2007- 2010 Đv: triệu đồng
NSNN
Lương
hưu
Mất
sức lao
động
Trợ
cấp
91
TNL
Đ
BNN
Mai
táng
phí
Tử
tuất
Lệ
phí
chi
trả
Khác
Tổng
TCkv1
lần
TC
613
2007 178,345 33,163 237 331 1,034 2,982 1,620 217,712
2008 216,633 40,216 296 389 1,684 3,927 1,973 265,118
2009 239,484 44,187 318 434 1,914 4,723 2,285 13,662 307.007
2010 261,387 47,081 343 480 2,002 5,452 2,404 1,447 2,404 323.000
(Nguồn: Phòng Kế hoạch- Tài chính – BHXH tỉnh Tuyên Quang)
Theo kết quả chi trả BHXH bắt buộc từ nguồn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang thì ngân sách nhà nước hiện nay vẫn phải gánh một khối lượng khá lớn các chế
độ trợ cấp chi trả cho người lao động như:
+ Chi trả chế độ hưu trí từ 178.345 triệu đồng (2007) lên 261.387 triệu đồng (2010)
tăng 83.042 triệu đồng.
+ Chi trả chế độ trợ cấp mất sức lao động từ 33.163 triệu đồng (2007) lên 47.081 triệu
đồng (2010) tăng 13.918 triệu đồng.
+ Chi trả chế độ trợ cấp theo nghị định số 91 từ 237 triệu đồng (2007) lên 323 triệu
đồng (2010) tăng 106 triệu đồng.