Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.96 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH
TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2007
- 2010
2.1. Giới thiệu chung về huyện Yên Hưng và Bảo hiểm xã hội huyện Yên
Hưng
2.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội huyện Yên Hưng
Huyện Yên Hưng nằm phía tây nam tỉnh Quảng Ninh, phía bắc là thị xã
ng Bí và huyện Hồnh Bồ, phía đơng và nam là thành phố Hạ Long và biển,
phía tây là huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), được nối bởi phà Phà Rừng nằm
trên quốc lộ 10. Huyện có diện tích 331km², dân số là 145.000 người (2009),
gồm có 18 xã và 1 thị trấn là Quảng Yên.
Huyện Yên Hưng là vùng đất được phân chia ranh giới bởi Sông Chanh.
Huyện chia làm hai vùng có diện tích gần tương đương nhau là Hà Nam và Hà
Bắc. Vùng Hà Bắc có địa hình chủ yếu là đồi núi bát úp, với các đồi núi thấp.
Đất chủ yếu là đất feralit đỏ vàng. Đất đai thuận lợi cho việc trồng vây hoa màu
và cây cơng nghiệp như thơng, heo tai tượng, xà cừ có giá trị kinh tế cao. Vùng
Hà Nam là vùng có địa hình bằng phẳng. Vốn là vùng đất được bồi lắng ở cửa
sông Bạch Đằng. Vùng đất này được bao bọc xung quanh là hệ thống đê với
chiều dài 34 Km. Đất đai ở đây khá màu mỡ phù hợp cho việc trồng cây nông
nghiệp như lúa nước. Vùng này còn là vựa lúa lớn của tỉnh Quảng Ninh.
Yên Hưng là huyện ven biển nhưng địa hình khá đa dạng, có núi có sơng,
có rừng, có đồng bằng và các bãi bồi ven sơng biển. Nơi đây có khí hậu trong
lành, có nguồn lợi lớn về thuỷ sản và là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng so với nhiều
địa phương khác trong tỉnh và trên cả nước.
Là một huyện có vị trí ven biển nên các tài nguyên biển được coi là ưu thế
nổi trội của Yên Hưng, đặc biệt là nuôi trồng đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản.
Các ngành kinh tế khác như du lịch dịch vụ, nông lâm nghiệp, vận tải thủy… là
những ngành kinh tế thế mạnh của huyện. Trong những năm qua nền kinh tế
của huyện đã phát triển trên nhiều lĩnh vực, bộ mặt kinh tế xã hội của huyện có
nhiều đổi thay tích cực.
2.1.2. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng


Ngày 23/8/1995 Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam ra quyết định số
134QĐ/TC - CB thành lập BHXH huyện Yên Hưng với chức năng, nhiệm vụ cơ
bản là: Xây dựng chương trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách


BHXH, tổ chức thu BHXH, quản lý chi BHXH kịp thời, giám định chi khám
chữa bệnh ở các bệnh viện đúng quy định.
BHXH huyện Yên Hưng được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức
BHXH thuộc Phòng Tổ chức Lao động – Thương binh xã hội và Liên đoàn Lao
động huyện. Ngay từ khi thành lập về tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất ngành
rất khó khăn thiếu thốn. Trình độ chính trị, trình độ chun mơn nhiệm vụ về
chính sách BHXH khơng đồng đều, nơi làm việc chật chội, trang bị thiếu thốn,
công việc mới nên áp lực trong cơng tác rất lớn có lúc rất căng thẳng song
ngành BHXH Yên Hưng đã vượt lên khó khăn vất vả, đồn kết cùng thống nhất,
nhận thức là muốn thực hiện chính sách BHXH phải làm thật tốt cơng tác giải
quyết Chính sách BHXH cho người làm việc trong các cơ quan đơn vị đã đủ
điều kiện hưởng BHXH. Chính từ làm tốt cơng tác này một mặt đảm bảo quyền
lợi cho người lao động mặt khác tạo lập niềm tin cho người là đối tượng BHXH
và làm chuyển biến về nhận thức cho người lao động đã, sắp và sẽ tham gia
BHXH.
Được sự quan tâm và lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ, HĐND, UBND
huyện: BHXH Yên Hưng đã nhanh chóng ổn định tổ chức đi vào hoạt động hiệu
quả trong công tác. Đến nay, trụ sở của BHXH huyện Yên Hưng được xây dựng
tương đối khang trang, các bộ phận chức năng được sắp xếp theo một hệ thống
hợp lý. Các bộ phận đều được trang bị máy tính phục vụ cho cơng việc được
nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, mỗi cán bộ được trang bị một máy tính riêng
và máy in, phần mềm phục vụ cho công việc tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác lưu trữ hồ sơ, cho việc chi trả cho các chế độ…
So với những ngày đầu mới thành lập thì trình độ chun mơn nghiệp vụ,
chính trị của đội ngũ cán bộ của của đơn vị được nâng lên rõ rệt để bắt kịp với

xu hướng phát triển chung của xã hội. Công tác tổ chức cán bộ, đào tạo bồi
dưỡng là một trong những yếu tố quyết định đối với việc tổ chức và thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ mà cấp trên giao.
2.2. Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện
Yên Hưng
2.2.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH
2.2.1.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Đối tượng tham gia BHXH được hiểu là đối tượng quản lý của hệ thống
BHXH, là các cá nhân và thể nhân có lợi ích và nghĩa vụ liên quan đến quỹ


BHXH, thuộc phạm vi điều chỉnh và thực hiện chính sách chế độ BHXH. Đó
cũng chính là đối tượng có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo luật định, đồng thời
được thụ hưởng quyền lợi từ quỹ BHXH theo chế độ quy định của Nhà nước và
pháp luật. Một trong các mục tiêu của BHXH huyện Yên Hưng là quản lý cho
được các đối tượng tham gia BHXH phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà
BHXH tỉnh Quảng Ninh giao phó. Tình hình tham gia BHXH của BHXH huyện
Yên Hưng giai đoạn 2007 – 2010 được thể hiện qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc (2007 - 2010)
2007
Năm

Khối

Số
đơn vị
(đơn
vị)


Số
người
(người)

2008
Số
đơn vị
(đơn
vị)

Số
người
(người)

2009
Số
đơn vị
(đơn
vị)

2010

Số
Số đơn
người vị (đơn
(người)
vị)

Số
người

(ngườ
i)


DN
ngồi
quốc
doanh

15

964

19

1061

28

1181

32

1084

HCSN

75

2548


76

2627

77

2752

78

2815

Ngồi
cơng
lập

5

324

5

318

5

319

5


313

UBND
xã,
phường

19

300

19

311

19

327

19

323

Tổng

114

4136

119


4317

129

4579

134

4535

Nguồn: BHXH huyện n Hưng
Nhìn chung, số đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia BHXH
đều tăng nhưng tăng chậm. Qua 4 năm từ năm 2007 đến năm 2010 có khối
ngành tăng cả về số đơn vị tham gia và cả số người tham gia. Cụ thể, số đơn vị
tham gia và số lao động tham gia BHXH tăng giảm qua 4 năm như sau:
 Đối với khối doanh nghiệp ngoài Quốc doanh:
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, thực hiện q trình cơng nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (DNNQD) trước đây chưa được quan tâm đúng mức, nay được Đảng và
Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Hoà vào xu
hướng chung của cả nước, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở huyện Yên
Hưng cũng đạt được những chuyển biến đáng kể. Doanh nghiệp đóng trên địa
bàn huyện chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, số lao động không
lớn.


Nhìn qua bảng số liệu ta thấy số đơn vị tham gia BHXH trong khối ngành
này có xu hướng tăng, qua 4 năm từ 2007 đến 2010 tăng 17 đơn vị tương ứng
113,3%. Tuy nhiên, số đơn vị và số lao động đăng ký tham gia BHXH vẫn

chưa đúng với số doanh nghiệp và số lao động thực tế phải tham gia BHXH bắt
buộc trên địa bàn huyện. Năm 2008, số đơn vị tham gia BHXH tăng 4 đơn vị
tương ứng với 97 lao động so với năm 2007. Năm 2009, số doanh nghiệp tham
gia BHXH tăng 9 đơn vị so với năm 2008 tương ứng với 120 lao động, đây là
năm có biến động mạnh nhất trong 4 năm, so với thực tế thì số doanh nghiệp
tham gia BHXH chiếm 77,78% (số doanh nghiệp thực tế phải tham gia BHXH
của huyện là 36 đơn vị), số lao động thực tế là 1325 lao động tức là còn 10,87%
lao động chưa tham gia BHXH. Đến năm 2010, tuy huyện có 32 doanh nghiệp
tham gia BHXH, tăng 4 doanh nghiệp nhưng số lao động tham gia BHXH lại
giảm 97 người so với năm 2009, trong thực tế huyện có 40 doanh nghiệp với
tổng số lao động là 1412 lao động, như vậy còn 20% doanh nghiệp và 23,23%
người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà chưa tham gia.
Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành luật BHXH của các chủ doanh
nghiệp chưa cao và nhận thức về BHXH của NLĐ còn thấp, do vậy nhiều doanh
nghiệp không tham gia BHXH cho bảo vệ, tạp vụ…
 Đối với khối hành chính sự nghiệp
Huyện Yên Hưng là một huyện thuần nơng đang trong q trình chuyển
dịch cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Nên trên địa
bàn huyện đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là các đơn vị hành chính sự
nghiệp. Đây là khối có các đơn vị sử dụng nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu
lại có số người tham gia BHXH lớn nhất trong 4 khối ngành.
Khối này có số đơn vị tham gia BHXH tăng đều qua 4 năm từ 75 đơn vị
(năm 2007) lên 78 đơn vị (năm 2010), cùng với sự gia tăng của số đơn vị tham
gia BHXH là sự tăng lên về số người tham gia, qua 4 năm tăng 267 lao động. Số
người tham gia tăng mạnh nhất vào năm 2009, số tăng là 4,8% tương ứng với
125 lao động so với năm 2008.
 Đối với khối ngồi cơng lập:
Khối ngồi cơng lập tại huyện Yên Hưng bao gồm các trường mầm non và
các trường phổ thơng dân lập. Đây là khối có số đơn vị tham gia BHXH ít nhất
trong 4 khối. Số đơn vị tham gia BHXH qua 4 năm từ 2007 đến 2010 không

thay đổi, luôn giữ ở mức 5 đơn vị. Trên đại bàn huyện hiện nay chỉ có 5 cơ sở
ngồi cơng lập và đều tham gia BHXH.


Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tuy số đơn vị tham gia BHXH không tăng
thêm nhưng số lao động tham gia BHXH qua 4 năm lại có xu hướng giảm, năm
2010 số lao động tham gia BHXH của khối này giảm 3,4% tương ứng với 11
người so với năm 2007. Đặc biệt năm 2010, số lao động tham gia BHXH giảm
1,9% tương ứng với 6 người, nguyên nhân là do một số người lao động đến tuổi
nghỉ hưu hoặc chuyển đi nơi khác.
 Đối với khối UBND xã, phường:
Các đơn vị tham gia BHXH trong khối này chỉ có UBND của 19 xã và thị
trấn. Qua bảng số liệu ta thấy trong suốt 4 năm (2007 – 2009) số đơn vị tham
gia BHXH không thay đổi, luôn giữ ở mức 19 đơn vị. Mặc dù vậy qua 4 năm số
lao động tham gia BHXH của khối này tăng 7,7% tương ứng với 23 người. Cụ
thể từ năm 2007 đến năm 2009 số lao động tham gia BHXH của khối này tăng
9,0% tương ứng với 27 người tuy nhiên đến năm 2010 số lao động tham gia
BHXH lại giảm 1,2% so với năm 2009 tương ứng với 4 người. Có thể thấy là số
lao động tham gia BHXH trung bình ở khối này chỉ khoảng 16 người, 17 người/
đơn vị tham gia BHXH, nguyên nhân là do số lao động tại mỗi đơn vị khơng
nhiều.
Như vậy có thể thấy số đơn vị tham gia BHXH ở các khối ngành nhìn
chung đều tăng qua 4 năm (2007 - 2010). Tuy nhiên, riêng năm 2009, số lao
động ở các khối ngành đều tăng lên làm cho số lao động tham gia BHXH trong
năm này cao hơn so với 3 năm kia. Qua bảng số liệu và những phân tích trên
cũng cho thấy lao động tham gia BHXH tại huyện Yên Hưng chủ yếu là lao
động làm việc trong các cơ quan nhà nước, số người tham gia BHXH chiếm
hơn 60% tổng số lao động tham gia BHXH trên toàn huyện, trong khi đó khối
doanh nghiệp của huyện thì cịn rất nhiều doanh nghiệp chưa tham gia BHXH
cho người lao động.

2.2.1.2. Quản lý danh sách đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp xảy ra là tất yếu khách quan do
các yếu tố thị trường lao động ln có xu hướng cung nhiều hơn cầu, do áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, do cạnh tranh…. Do vậy, cần phải có các
giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết thất nghiệp. Từ ngày 01-01-2009 chính
sách bảo hiểm thất nghiệp lần đầu tiên được thực hiện. Đối tượng áp dụng bảo
hiểm thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động, bị mất
việc làm nhưng luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Mới chỉ qua 2 năm thực hiện
nhưng tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở huyện Yên Hưng đã thu được


kết quả cao. Cụ thể, tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở huyện Yên Hưng
được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp (2009 - 2010)
Năm

2009

2010

DN ngồi quốc doanh

1044

1082

HCSN

509


1673

Ngồi cơng lập

245

313

Tổng

1798

3068

Khối

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp
tăng lên đáng kể qua 2 năm. Năm 2010, tổng số người tham gia bảo hiểm thất
nghiệp tăng 70,63% tương đương với 1270 người so với năm 2009. Do số người
tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở các khối ngành đều tăng lên qua 2 năm, trong
đó khối doanh nghiệp ngồi quốc doanh tăng thấp nhất là 38 người, khối ngồi
cơng lập tăng 68 người, riêng khối HCSN là tăng cao nhất trong 3 khối ngành
với 1164 người tương ứng với 228,7% so với năm 2009. Dự báo đối tượng của
bảo hiểm thất nghiệp khó khăn hơn một số chế độ BHXH khác, nguyên nhân là
do dự báo thất nghiệp có nhiều yếu tố tác động như sự chuyển dịch lao động
trong cơ chế thị trường, do thay đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cơng nghệ…. Bên
cạnh đó, lực lượng lao động có tính chuyển dịch lớn do các doanh nghiệp thiếu
tính bền vững, ổn định hoặc do người lao động, nhất là lao động nhập cư thường
hay thay đổi nơi làm việc và nơi cư trú.

2.2.1.3. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế đã được khẳng định ở nước ta thì nhu cầu về BHXH được
tăng lên rất nhiều. Do vậy, ngày 01-01-2008 chính sách BHXH tự nguyện được
triển khai nhằm bảo đảm quyền tham gia BHXH cho mọi người lao động thuộc
mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở vận động, khuyến khích họ tiết kiệm chi tiêu
khi cịn trong độ tuổi lao động, có sức khoẻ, có việc làm, có thu nhập hãy tham


gia đóng góp cho quỹ BHXH, để khi khơng may gặp rủi ro xã hội hoặc khi tuổi
già và khi từ trần thì được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH; bảo đảm ổn định cuộc
sống cho NLĐ và gia đình họ, giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước,
cho cộng đồng, góp phần đảm bảo cơng bằng và an sinh xã hội. Qua 3 năm thực
hiện chính sách BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng đã đạt được kết quả
như sau:
Bảng 3: Tình hình tham gia BHXH tự nguyện (2008 - 2010)
Năm
Số người tham gia

2008

2009

2010

67

68

96


Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn chung số người tham gia BHXH tự nguyện ở huyện n Hưng vẫn
cịn thấp. Năm 2008 có 67 người tham gia đến năm 2010 số người tham gia tăng
thêm 29 người. Số người tham gia BHXH tự nguyện ở huyện Yên Hưng có xu
hướng ngày càng tăng lên. Do đặc trưng của nhóm đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện phần lớn là khơng ổn định về loại hình và tính chất công việc, về chỗ
làm việc, về thời gian làm việc và về thu nhập. Nên khi triển khai chính sách
BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện tốt cơng tác tun
truyền cho người dân trên tồn địa bàn đặc biệt là đẩy mạnh tuyên truyền vận
động ở các xã như Hà An, Cộng Hoà, Minh Thành, Yên Giang…
2.2.2. Quản lý sổ BHXH
Sổ BHXH đối với NLĐ là một chứng lý chứng minh quá trình tham gia
BHXH, phần nào phù hợp và thuận tiện cho họ trong suốt quá trình làm việc dù
ở cơ quan nào, đơn vị nào, thuộc thành phần kinh tế nào vẫn được đảm bảo
quyền lợi về chế độ BHXH theo luật định. Đối với cơ quan BHXH, sổ BHXH là
một trong những công cụ được sử dụng để quản lý, theo dõi, giải quyết chế độ
BHXH cho NLĐ được thuận lợi. Điều nổi bật nhất của việc sử dụng sổ BHXH
là đã giúp cho các cấp, các ngành, các đơn vị và NLĐ thuộc diện tham gia
BHXH có nhận thức rõ hơn về chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước; thấy
được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH.
2.2.2.1. Công tác quản lý sổ BHXH bắt buộc
Sau khi đã tiếp nhận và xử lý các hồ sơ tham gia BHXH, thẩm định hồ sơ
hợp lệ, những lao động mới tham gia sẽ được cấp sổ bảo hiểm. Cấp sổ BHXH là


một trong những quyền đầu tiên của NLĐ tham gia BHXH, đồng thời cũng là
cơng cụ để thơng qua đó việc quản lý đối tượng tham gia được thực hiện chặt
chẽ hơn.
Việc cấp sổ BHXH cho người tham gia BHXH đã tạo niềm tin cho họ, một

phần đã có tác dụng khuyến khích mọi người tự giác tham gia đóng BHXH để
bảo vệ quyền lợi chính họ. Cơng tác này cũng tạo điều kiện cho tổ chức cơng
đồn thực hiện bảo vệ quyền lợi cho NLĐ ở đơn vị của họ. Sổ BHXH có tác
dụng hữu hiệu trong việc kiểm tra, kiểm soát về mức nộp, thời gian nộp, việc
nộp có đúng đủ hay khơng; đồng thời sổ BHXH cịn có tác dụng tạo điều kiện
cho NLĐ thúc đẩy, đơn đốc NSDLĐ nộp BHXH đầy đủ kịp thời. Do vậy, công
tác cấp sổ BHXH luôn được BHXH huyện Yên Hưng chú trọng thực hiện một
cách nhanh chóng, kịp thời.
Bảng 4: Quản lý cấp sổ BHXH bắt buộc (2007 - 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Số lao động tham gia

4136

4317

4579

4535

Số lao động được cấp sổ


4101

4230

4365

4495

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số lượng lao động tham gia BHXH
ngày càng nhiều, và số lao động tham gia BHXH được cấp sổ cũng tăng lên qua
các năm. Tuy nhiên, số lao động tham gia BHXH được cấp sổ trong 4 năm qua
đều ít hơn số lao động tham gia. Số lao động chưa được cấp sổ năm 2009 cao
nhất là 4,67% tương ứng với 214 người, năm 2008 là 2,0% tương ứng với 87
người, đến năm 2010 đã giảm xuống chỉ còn 0,88% tương ứng với 40 người. Số
lao động tham gia BHXH chưa được cấp sổ BHXH chủ yếu do các nguyên
nhân: lao động mới hợp đồng, sự hiểu biết về hồ sơ, thủ tục, quy trình tham gia
BHXH cịn hạn chế gây chậm chễ trong việc cấp sổ, thiếu chứng từ như chứng
minh thư nhân dân, quyết định tuyển dụng, hay NLĐ chỉ làm một tờ khai cá
nhân,…Điều đó làm cho cán bộ quản lý thu và cấp sổ thẻ không thể tiến hành
đối chiếu, thẩm định hồ sơ để tiến hành cấp sổ theo quy định được. Qua việc
thực hiện cấp sổ BHXH, người sử dụng lao động và người lao động đã nhận
thức được tầm quan trọng trong việc quản lý, lưu giữ hồ sơ cá nhân, thấy được
trách nhiệm trong việc đóng BHXH đầy đủ, kịp thời.


Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH cấp huyện theo quy định của BHXH Việt
Nam trong công tác quản lý sổ BHXH cho người tham gia thì công tác chốt sổ

BHXH cho người lao động cũng là việc làm cần thiết. BHXH huyện Yên Hưng
cũng đã có rất nhiều công gắng trong việc thực hiện công tác chốt sổ BHXH
cho người lao động. Cụ thể qua bảng thống kê sau:

Bảng 5: Quản lý công tác chốt sổ BHXH bắt buộc (2007 – 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Số sổ phải chốt

926

4317

1098

1125

Số sổ đã chốt

854

4256


987

1069

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Qua bảng số liệu trên ta thấy số sổ BHXH đã chốt được của huyện chiếm
khoảng 90% tổng số sổ phải chốt trong năm. Trong đó, riêng năm 2008 số
BHXH sổ phải chốt lên tới 4317 sổ cao hơn hẳn so với số sổ phải chốt của 3
năm còn lại, nguyên nhân là từ ngày 01/01/2009 BHXH huyện Yên Hưng bắt
đầu thực hiện việc cấp sổ BHXH theo mẫu sổ mới cho người lao động. Do vậy
mà đến 31/12/2008 BHXH huyện cần phải chốt hết sổ BHXH cũ để sang đầu
năm 2009 in sổ BHXH mới cho người lao động. Từ năm 2008 trở về trước, sổ
BHXH của người lao động là quyển sổ bìa xanh đậm nhưng từ 01/01/2009 sổ
BHXH cũ được thay bằng sổ mới tiện dụng hơn, gồm có 1 tờ bìa có thơng tin
của người lao động và qua trình làm việc của người lao động được in vào tờ rời.
Mặc dù vậy, số sổ đã chốt được chiếm 98,6% còn 2,4% sổ chưa chốt tương ứng
với 61 sổ, nguyên nhân chủ yếu là do một số đơn vị còn nợ đọng BHXH. Tuy
nhiên, năm 2009 số sổ chưa chốt lên tới 111 sổ tương ứng với 10,1%.
2.2.2.2. Công tác quản lý sổ BHXH tự nguyện
Người tham gia BHXH tự nguyện nộp tờ khai cá nhân cho cơ quan BHXH
huyện Yên Hưng. Mẫu tờ khai cá nhân do BHXH Việt Nam quy định. Trong
thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ của người tham gia BHXH tự
nguyện, cơ quan BHXH huyện có trách nhiệm cấp sổ BHXH; trường hợp không


cấp thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Công tác quản lý cấp và chốt
sổ BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện được BHXH huyện Yên Hưng
thực hiện như sau:
Bảng 6: Quản lý cấp và chốt sổ BHXH tự nguyện (2008 - 2010)

Năm

2008

2009

2010

Số người tham gia

67

68

96

Số người được cấp sổ

67

68

96

Số sổ được chốt

0

1


4

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, người tham gia BHXH tự nguyện được cấp
sổ đầy đủ qua 3 năm thực hiện. BHXH tự nguyện mới được triển khai năm 2008
nên số người tham gia còn thấp dẫn tới số sổ BHXH được cấp cũng thấp. Số
người tham gia BHXH tự nguyện chốt sổ cũng rất ít, năm 2010 mới có 4 sổ phải
chốt.
2.2.3. Quản lý hồ sơ
2.2.3.1. Quản lý hồ sơ tham gia BHXH
Hồ sơ tham gia BHXH là công cụ quản lý đối tượng tham gia không thể
thiếu trong một hệ thống BHXH. Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng tiếp nhận và
quản lý hồ sơ tham gia BHXH của NLĐ đảm bảo khoa học để thuận tiện khai
thác và sử dụng. Kết quả thực hiện công tác quản lý hồ sơ tham gia BHXH của
BHXH huyện Yên Hưng được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Quản lý hồ sơ tham gia BHXH (2007 – 2010)
2007

2008

2009

2010

Hồ sơ đã tham gia

3929

4101


4297

4500

Hồ sơ tham gia mới

172

196

203

226

Năm


Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số hồ sơ tham gia BHXH tăng lên qua 4 năm
nhưng với tốc độ tăng chậm trung bình 5%/ năm. Năm 2007 số hồ sơ tham gia
là 4101 đến năm 2010 số hồ sơ tham gia tăng lên 4726 hồ sơ, tăng 15,2%. Số hồ
sơ tham gia mới cũng tăng lên qua các năm, tuy nhiên số tăng cũng chưa nhiều.
Nguyên nhân là do đối tượng tham gia BHXH của huyện tăng lên qua các năm
nhưng tăng chậm.
2.2.3.2. Quản lý hồ sơ hưởng BHXH
 Chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK
- Hồ sơ giải quyết chế độ ốm đau
+ Sổ bảo hiểm xã hội.
+ Xác nhận của người sử dụng lao động về điều kiện làm việc đối với
người lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm

việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
+ Giấy xác nhận của người sử dụng lao động về thời gian nghỉ việc để
chăm sóc con ốm đau, kèm theo giấy khám bệnh của con đối với người lao động
nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau.
+ Danh sách người nghỉ ốm và người nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau
do NSDLĐ lập.
- Hồ sơ giải quyết chế độ thai sản
+ Sổ bảo hiểm xã hội.
+ Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh của con hoặc giấy
chứng tử trong trường hợp sau khi sinh con mà con chết hoặc mẹ chết. Trường
hợp lao động nữ đi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, người
lao động thực hiện các biện pháp tránh thai phải có giấy xác nhận của cơ sở y tế
có thẩm quyền; nhận ni con ni dưới bốn tháng tuổi phải có chứng nhận
theo quy định của pháp luật.
+ Danh sách người hưởng chế độ thai sản do NSDLĐ lập.
- Hồ sơ giải quyết chế độ TNLĐ - BNN
+ Sổ bảo hiểm xã hội.


+ Biên bản điều tra TNLĐ, trường hợp bị tai nạn giao thơng được xác định
là TNLĐ thì phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông; biên bản đo đạc
mơi trường có yếu tố độc hại.
+ Giấy ra viện sau khi đã điều trị TNLĐ - BNN.
+ Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng
Giám định y khoa.
+ Văn bản đề nghị giải quyết chế độ TNLĐ - BNN.
- Hồ sơ giải quyết chế độ DSPHSK
+ Danh sách người đã hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN mà
sức khoẻ còn yếu do NSDLĐ lập.
+ Văn bản đề nghị giải quyết trợ cấp DSPHSK.

Trong 4 năm qua BHXH huyện n Hưng ln hồn thành tốt cơng tác chi
trả chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK cho NLĐ. Kết quả thực
hiện các chế độ thể hiện qua bảng sau:
Bảng 8: Số người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK
(2007 – 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Ốm đau

2558

2985

3305

3942

Thai sản

239

268


307

345

Hàng tháng

25

29

29

31

Một lần

3

0

1

2

76

93

102


133

TNLĐBNN

DSPHSK

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy:


+ Chế độ ốm đau: số người hưởng chế độ ốm đau chiếm tỷ lệ tương đối
cao. Số người hưởng tăng lên qua các năm, cao nhất là năm 2010 tăng 19,27%
tương ứng với 637 người so với năm 2009. Nguyên nhân là do năm 2010 có
nhiều bệnh dịch như: cúm, tả…
+ Chế độ thai sản: số người hưởng chế độ thai sản tăng lên qua các năm.
Cụ thể: năm 2008 số lao động hưởng chế độ tăng 29 người so với 2007 (tăng
12,13%); năm 2009 số lao động nghỉ tăng 39 người so với 2008 (tăng 14,55%);
năm 2010 số lao động nghỉ tăng 38 người so với 2009 (tăng 12,38%). Sự gia
tăng này do một số ngành nghề của huyện như thuỷ sản, du lịch, giáo viên mầm
non… yêu cầu một số lượng lớn lao động nữ nên số lao động nữ trong độ tuổi
sinh nở khá lớn.
+ Chế độ TNLĐ – BNN: số người hưởng chế độ không biến động nhiều
qua các năm. Số người hưởng chế độ TNLĐ – BNN một lần ít, chủ yếu là người
hưởng hàng tháng. Số người tăng lên hàng năm có xu hướng giảm, đó là do ý
thức của NLĐ tăng lên và NSDLĐ ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề bảo hộ
lao động và an toàn lao động cho NLĐ của mình.
+ Chế độ DSPHSK: đây là một chế độ cần thiết cho NLĐ khi bị suy giảm
sức khoẻ tạm thời do ốm đau, thai sản hoặc TNLĐ – BNN, NLĐ cần được nghỉ
việc trong một thời gian nhất định để phục hồi sức khoẻ, tái sản xuất sức lao

động. Số người hưởng chế độ tăng lên qua các năm, cao nhất là năm 2010 tăng
30, 39% tương đương với 31 người so với năm 2009.
 Chế độ hưu trí
- Hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí cho người tham gia BHXH bắt buộc:
+ Sổ bảo hiểm xã hội.
+ Quyết định nghỉ việc đối với người đang đóng bảo hiểm xã hội; đơn đề
nghị hưởng lương hưu đối với người bảo lưu thời gian đóng BHXH.
+ Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng
Giám định y khoa đối với người nghỉ hưu.
- Hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí cho người tham gia BHXH tự
nguyện:
+ Sổ bảo hiểm xã hội;
+ Tờ khai cá nhân theo mẫu do tổ chức bảo hiểm xã hội quy định.


Kết quả thực hiện chế độ hưu trí trong giai đoạn 2007 - 2010 của BHXH
huyện Yên Hưng được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 9: Số người hưởng chế độ hưu trí (2007 – 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Số người đã hưởng


3491

3575

3682

3813

Số người mới hưởng

111

136

154

167

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Qua bảng số liệu ta thấy, hưu trí là một chế độ dài hạn nên số đối tượng
hưởng chế độ này tương đối lớn và tăng dần qua từng năm từ năm 2008 đến
năm 2010 với tốc độ tăng bình quân là 3,38%/năm. Số người mới được hưởng
chế độ cũng tăng lên qua 4 năm. Năm 2008 số người mới hưởng tăng cao nhất
22,52% tương ứng 25 người so với năm 2007, năm 2009 số người mới hưởng
tăng 18 người tương ứng 13,24% so với năm 2008, đến năm 2010 số người mới
được hưởng tăng 8,44% tương ứng 13 người so với năm 2009.
 Chế độ tử tuất
- Hồ sơ giải quyết chế độ tử tuất
+ Sổ bảo hiểm xã hội;
+ Giấy chứng tử, báo tử hoặc quyết định của Toà án tuyên bố là đã chết;

+ Tờ khai của thân nhân theo mẫu do tổ chức BHXH quy định;
+ Biên bản điều tra TNLĐ, bệnh án điều trị BNN trong trường hợp chết do
TNLĐ, BNN.
Chế độ tử tuất được BHXH huyện Yên Hưng thực hiện qua 4 năm từ 2007
đến năm 2010 như sau:
Bảng 10: Số người hưởng chế độ tử tuất (2007 – 2010)
Năm
Chỉ tiêu
NSNN

Hàng tháng

2007

2008

2009

2010

464

511

589

625


Một lần


7

5

8

Mai táng phí

19

22

17

20

Hàng tháng

146

185

223

267

Một lần

2


1

1

3

Mai táng phí

Quỹ
BHXH

9

8

7

6

9

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Qua bảng số liệu ta thấy, tử tuất là một chế độ dài hạn nên số đối tượng
hưởng tăng dần qua từng năm với tốc độ tăng bình quân là 12,89%/năm, số đối
tượng hưởng do NSNN đảm nhận lớn hơn trung bình 2,74 lần so với số đối
tượng hưởng của quỹ BHXH. Số đối tượng hưởng đa phần là bố, mẹ hoặc con
cái, trường hợp là vợ hoặc chồng chiếm rất ít nên thời gian hưởng trợ cấp khá
dài, thường từ 10 đến 25 năm.
 Chế độ BHXH một lần

- Hồ sơ giải quyết chế độ BHXH một lần
+ Sổ bảo hiểm xã hội.
+ Một trong những giấy tờ sau: Quyết định nghỉ việc; quyết định phục
viên, xuất ngũ, thôi việc; biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động
của Hội đồng Giám định y khoa; bản sao giấy tờ định cư ở nước ngoài; Đơn đề
nghị hưởng BHXH 1 lần của người lao động.
Kết quả thực hiện chế độ BHXH một lần cho NLĐ được thể hiện qua bảng
sau:
Bảng 11: Số người hưởng chế độ BHXH một lần (2007 – 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Số người hưởng

351

362

396

421

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số người hưởng chế độ tăng lên qua các
năm từ 2007 đến năm 2010 với tốc độ tăng trung bình là 6,28%/năm. Cụ thể


năm 2008 số người hưởng tăng 3,13% tương ứng 11 người so với năm 2007,
năm 2009 số người hưởng chế độ tăng nhiều nhất với 34 người tương ứng
9,39% so với năm 2008, đến năm 2010 số người hưởng tăng 6,31% tương ứng
25 người so với năm 2009.
2.2.4. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH
Chính sách tiền lương chính là căn cứ đóng BHXH và là cách xác định
tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng. Như vậy để quản lý được mức đóng, cơ
quan BHXH huyện Yên Hưng trước hết phải quản lý được tổng quỹ lương làm
căn cứ đóng. Trách nhiệm của cơ quan BHXH huyện Yên Hưng là căn cứ vào
các quy định của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương
của cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương
không đúng quy định, cơ quan BHXH huyện Yên Hưng từ chối thu BHXH theo
yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động thực hiện. Hơn nữa, cơ quan BHXH huyện
Yên Hưng còn phải quản lý, theo dõi chặt chẽ diễn biến thu nhập của từng cá
nhân NLĐ trong từng đơn vị sử dụng lao động. Đối với các đơn vị có tăng giảm
về số lao động hoặc tăng giảm về tiền lương thì phải báo cáo ngay với cán bộ
chuyên trách quản lý quỹ lương đóng BHXH để kịp thời điều chỉnh mức tăng
giảm. Qua đó BHXH huyện Yên Hưng thường xuyên kiểm soát đối chiếu tổng
quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động hàng tháng, trên cơ sở đó tính số tiền
đơn vị sử dụng lao động phải nộp vào quỹ BHXH.
2.2.4.1. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH bắt buộc
Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng chỉ có thể nắm tốt số tiền lương trên
giấy tờ mà các cơ quan đơn vị tham gia BHXH và thường khơng khơng kê khai
được chính xác quỹ lương thực tế. Điều này gây nhiều khó khăn cho cơ quan
BHXH. Thực tế chủ doanh nghiệp thường kê khai quỹ lương thấp hơn thu nhập
thực tế cũng có doanh nghiệp kê khai hơn thu nhập thực tế. Nhiều đơn vị có thu

nhập thực tế cao hơn gấp nhiều lần nhưng chỉ đăng ký đóng lương cơ bản.Trong
4 năm qua, BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện công tác quản lý quỹ lương và
công tác thu BHXH bắt buộc như sau:
Bảng 12: Tổng quỹ lương và số thu BHXH bắt buộc (2007 – 2010)
Năm

2007

2008

2009

2010

Tổng quỹ lương
(triệu đồng)

68062,2

74093,4

86660,2

102037,1


Tổng số tiền phải
thu (triệu đồng)

12878,1


15081,3

17344,4

23011,4

Tổng số tiền đã thu
(triệu đồng)

12467,1

14654,2

17217,2

22763,1

Số tiền nợ đọng
(triệu đồng)

411

427,1

127,2

248,3

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng

Qua bảng số liệu ta thấy: Tổng quỹ lương có xu hướng tăng liên tục qua 4
năm nhưng với tốc độ chậm. Năm 2008, quỹ lương tăng 6031,2 triệu đồng so
với năm 2007 tương ứng 8,86%. Đến năm 2009, quỹ lương đã tăng thêm
16,96% so với năm 2008 ứng với 12566,8 triệu đồng. Nhưng đến năm 2010,
con số này đã tăng lên 102037,1 triệu đồng tức là so với năm 2009, quỹ lương
tăng 17,74% tương ứng 15376,9 triệu đồng. Một trong những nguyên nhân làm
quỹ lương thay đổi là do mức lương trích nộp tăng thơng qua các quyết định
tăng lương của Chính phủ. Do cơ sở để tính tốn mức đóng và hưởng BHXH
phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Nên khi Nhà nước
nâng lương tối thiểu lên đồng nghĩa với việc mức đóng BHXH cũng tăng lên.
Quỹ lương tăng là điều đáng mừng thể hiện đời sống người lao động được nâng
lên.
Về tổng số phải thu BHXH: năm 2007 là 12878,1 triệu đồng, đến năm
2010 là 23011,4 triệu đồng, vậy qua 4 năm số phải thu đã tăng gấp 1,8 lần tương
ứng với 10133,3 triệu đồng. Tổng số phải thu tăng lên là do tổng quỹ lương
trích nộp BHXH tăng và số lao động tham gia BHXH cũng tăng lên.
Về tổng số đã thu BHXH: qua 4 năm từ năm 2007 đến năm 2010 đã thu
được từ 12467,1 triệu đồng lên 22763,1 triệu đồng, gấp 1,83 lần tương ứng với
10296 triệu đồng. Do nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động
ngày càng được nâng cao, họ thấy được vai trò của BHXH trong đời sống cũng
như trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hàng tháng chậm nhất vào ngày cuối
tháng của tháng, đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện Yên Hưng đóng
BHXH cho người lao động vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH huyện
mở tại ngân hàng hoặc kho bạc Nhà nước.
Về số tiền nợ đọng quỹ BHXH: Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng luôn cố
gắng phấn đấu thực hiện công tác quản lý thu tốt nhất để có thể đạt được hiệu


quả cao nhất có thể, giảm tỷ lệ nợ BHXH xuống mức thấp nhất. Các năm qua
nhờ có sự đơn đốc nhắc nhở của cán bộ thu mà tình trạng nợ đọng BHXH huyện

Yên Hưng giảm được đáng kể, số tiền nợ đọng đã có xu hướng giảm qua các
năm.
2.2.4.2. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng bảo hiểm thất
nghiệp
Hàng năm trên cả nước có hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động,
nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn. Mặt khác, một bộ
phận không nhỏ lao động bị mất việc. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời góp phần ổn
định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm
đưa họ trở lại làm việc. Do vậy, quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành từ sự
đóng góp của 3 bên : NLĐ, NSDLĐ và nhà nước để đảm bảo sự cân đối trong
thu chi tài chính, tạo ra sự ràng buộc về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các bên. Mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp được quy định phù hợp với khả
năng của người lao động và các chính sách của nhà nước. Qua 2 năm thực hiện,
BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện một cách nghiêm túc cơng tác quản lý
quỹ lương trích nộp bảo hiểm thất nghiệp và công tác thu bảo hiểm thất nghiệp.
Bảng 13: Tổng quỹ lương và số thu bảo hiểm thất nghiệp (2009 – 2010)
Năm

2009

2010

Tổng quỹ lương (triệu đồng)

6140,2

11532,0

Tổng số tiền phải thu (triệu đồng)


1981,3

3141,4

Tổng số tiền đã thu (triệu đồng)

1567,1

2763,2

Số tiền nợ đọng (triệu đồng)

414,2

378,2

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Do tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng mạnh từ 2009 đến
2010 nên tổng quỹ lương cũng tăng mạnh. Năm 2009 tổng quỹ lương là 6140,2
triệu đồng đến năm 2010 tổng quỹ lương tăng 87,8% tương đương với 5391,8
triệu đồng. Do vậy, tổng số tiền phải thu cũng tăng từ 1981,3 triệu đồng (2009)
lên 3141,4 triệu đồng (2010). Năm 2009 tuy là năm đầu tiên thực hiện bảo hiểm
thất nghiệp nhưng BHXH huyện Yên Hưng đã thu được 1567,1 triệu đồng


tương đương với 79,1% tổng số phải thu. Đến năm 2010 BHXH huyện đã hoàn
thành 88% tổng số phải thu, vì vậy đã giảm số tiền nợ đọng xuống 8,7% ứng
với 36 triệu đồng.
2.2.4.3. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH tự nguyện
Người tham gia BHXH tự nguyện có đặc điểm là họ khơng có thu nhập

thường xuyên và định kỳ như những người làm cơng hưởng lương. Chính vì
vậy, luật BHXH quy định: “Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở
mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp
hơn mức lương tối thiểu chung” (Điều 5), hay “Mức thu nhập làm cơ sở để tính
đóng BHXH được thay đổi tuỳ theo khả năng của người lao động ở từng thời
kỳ, nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng hai mươi
tháng lương tối thiểu chung” (Điều 100). Như vậy, việc xác định mức đóng
BHXH tự nguyện trên cơ sở thu nhập của người lao động sẽ do người lao động
lựa chọn trong khoảng mức thu nhập giới hạn của sàn dưới và trần trên theo quy
định của Luật. Qua 3 năm thực hiện BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng
đã thu được kết quả như sau:
Bảng 14: Số thu BHXH tự nguyện (2008 – 2010)
Năm

2008

2009

2010

Số tiền thu (triệu đồng)

140,7

228,4

321

Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số thu BHXH tự nguyện tăng lên qua 3 năm

triển khai thực hiện. Năm 2008 số thu là 140,7 triệu đồng đến năm 2010 số thu
tăng 128,14% tương đương với 180,3 triệu đồng. Năm 2009 số người tham gia
BHXH tự nguyện chỉ tăng thêm 1 người nhưng số thu BXHH tự nguyện đã tăng
thêm 87,7 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do người đang tham gia BHXH
tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập tháng làm
căn cứ đóng BHXH tự nguyện với tổ chức BHXH. Việc đăng ký lại phương
thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng được thực hiện ít nhất là sau
6 tháng kể từ lần đăng ký trước. Bên cạnh đó cịn có các ngun nhân khác như
mức lương tối thiểu tăng, nhận thức của người dân cũng được nâng lên...


2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH ở
BHXH huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Những thành tựu đạt được
• Trong 4 năm trở lại đây BHXH huyện n Hưng ln hồn thành tốt và
vượt kế hoạch được giao về số đơn vị sử dụng lao động và số lao động
tham gia, dẫn đến số thu ngày càng tăng lên. Công tác tuyên truyền phổ
biến và những văn bản quy định bắt buộc đối với người tham gia BHXH
(bao gồm cả BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện) được kết hợp với các
chế tài xử vi phạm BHXH đã được giao đến từng cơ quan đơn vị, phường
xã,… Nên số người tham gia đã tăng lên tương đối.
• Cán bộ BHXH huyện Yên Hưng được trau dồi phẩm chất, nâng cao trình
độ chun mơn, nghiệp vụ, ý thức, trách nhiệm, tinh thần vì người tham
gia và thụ hưởng mà phục vụ. Cán bộ BHXH cũng đã dành phần lớn thời
gian đến từng đơn vị sử dụng lao động được phân công phụ trách để tuyên
truyền, giải thích, hướng dẫn và cùng cơ sở xử lý kịp thời những vướng
mắc, khó khăn trong việc thực hiện chính sách cho người lao động.
• Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục
hành chính trong cơng tác quản lý và giải quyết chế độ chính sách cho
người lao động thơng qua việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý

sổ và cơ chế "một cửa liên thông" đem lại hiệu quả tích cực; hồ sơ, thủ tục
giấy tờ liên quan đến việc tham gia và hưởng chế độ đã từng bước được
đơn giản hố; các qui định, qui trình nghiệp vụ ngày càng phù hợp với thực
tiễn, dễ hiểu, dễ thực hiện hơn; các thủ tục người sử dụng lao động và
người lao động phải làm ngày càng giảm; thời gian giải quyết được rút
ngắn hơn; khiếu nại, kêu ca về những sai sót, phiền hà, chậm giải quyết
chế độ, chính sách cho người lao động đã giảm bớt đáng kể...
• BHXH thường xuyên phối hợp với các sở ban ngành có liên quan tổ chức
các đồn kiểm tra liên ngành để kiểm tra về an toàn lao động và thực hiện
chính sách xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp. Qua kiểm
tra, cán bộ BHXH còn tuyền truyền cho chủ sử dụng lao động và người lao
động hiểu rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH, từ đó làm
chuyển biến về nhận thức của chủ sử dụng và người lao động; đồng thời
kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thực hiện xử phạt những đơn vị cố
tình vi phạm Luật BHXH và cũng đề xuất UBND tỉnh khen thưởng những
doanh nghiệp điển hình làm tốt cơng tác BHXH.


• Thông qua công tác vận động, tuyên truyền, nhận thức về BHXH của các
cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị, nhất là người lao động và chủ sử dụng
lao động từng bước được nâng lên. Các Công ty: Cơng ty TNHH đầu tư
phát triển và thương mại Hồng Lộc, công ty cổ phần cơ điện Yên Hưng,
công ty TNHH Hồng Điệp, công ty TNHH thiết bị khai thác hầm mỏ, công
ty cổ phần thương mại và xây dựng Phong Vân, cơng ty TNHH Bình
Khánh, cơng ty cổ phần thép Việt Pháp... đã thực hiện khá tốt công tác này.
• Sự phát triển của BHXH Huyện Yên Hưng là bền vững thể hiện kết quả
các mặt công tác năm sau đều tăng hơn năm trước, giải quyết chế độ
BHXH cho người lao động ngày càng nhanh hơn, tiện ích hơn. Đơn thư
khiếu nại được giải đáp và giải quyết dứt điểm từ cơ sở nên khơng có đơn
thư vượt cấp phức tạp xảy ra.

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, BHXH huyện Yên Hưng cũng tồn tại
nhiều mặt hạn chế và yếu kém trong công tác quản lý đối tượng tham gia, cần
phải được nhanh chóng sửa đổi và khắc phục. Đó là:
• Thứ nhất: Chưa nắm vững được số đơn vị và số người tham gia trên địa
bàn huyện.
o Có trường hợp đơn vị kê khai đăng ký khơng chính xác số người tham
gia lẫn mức lương trích nộp dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng
lao động dưới 3 tháng hoặc không ký hợp đồng lao động…, một số đơn
vị sử dụng trên 10 lao động nhưng vẫn chưa tham gia BHXH như công
ty TNHH Kim Liên, công ty TNHH thương mại và dịch vụ Hạ long
xanh...
o Tình trạng người sử dụng lao động khơng đóng BHXH cho người lao
động, đóng khơng đúng thời gian, khơng đúng mức qui định, đóng
khơng đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn xảy ra
nhiều. Nhiều trường hợp đơn vị sử dụng lao động lập danh sách báo tăng
giảm chậm, thời gian tăng giảm không đúng với các quyết định hoặc
hợp đồng lao động của người lao động.
o Luật BHXH qui định: “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng, người sử dụng lao
động nộp hồ sơ tham gia BHXH cho tổ chức BHXH”. Nhưng thực tế tại
huyện Yên Hưng có một số doanh nghiệp đi vào hoạt động, có sử dụng


lao động từ những năm 2004, 2006 (như Công ty TNHH liên doanh thuỷ
sản Nam Hải) đến nay vẫn chưa tham gia BHXH cho người lao động.
• Thứ hai: Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người lao
động nói riêng bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt của BHXH. Người
lao động chưa hiểu đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia
BHXH. Nhiều người cịn có thành kiến khơng tốt về BHXH, hiểu sai về

bản chất của BHXH.
• Thứ ba: Một trong những tồn tại lớn nhất trong việc thực hiện những qui
định về BHXH hiện nay là công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH
huyện Yên Hưng cũng như các phòng ban, ngành chức năng chưa nắm
chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các doanh nghiệp ngồi quốc doanh,
ngồi cơng lập. Có những doanh nghiệp ngồi quốc doanh có đăng ký
thành lập trên địa bàn huyện nhưng khơng có trụ sở giao dịch, không hoạt
động theo nội dung đăng ký, giải thể sau khi thành lập và hoạt động một
thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động... Cũng không cơ quan
nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những doanh nghiệp đã
đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng khơng có trụ sở làm việc thực
chất có hoạt động hay khơng, cịn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi
phạm vi hoạt động. Ngoài ra, khu vực ngồi cơng lập cịn có nhiều nhà trẻ
mầm non tư thục, các quán bar, ... không ký kết hợp đồng với người lao
động. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu cầu người sử dụng lao động thực
hiện chính sách BHXH cho người lao động theo luật định ở các đơn vị này
thực sự là vấn đề không dễ đảm bảo.
• Thứ tư: Trình độ của cán bộ, cơng nhân viên chức trong BHXH huyện n
Hưng vẫn cịn bất cập. Đa số là các cán bộ thuộc ngành khác chuyển sang,
chưa nắm vững được công tác BHXH. BHXH huyện còn thiếu cán bộ, một
cán bộ phải đảm đương nhiều công việc dẫn đến hiệu quả công việc chưa
cao. Cán bộ, viên chức trong BHXH huyện lại thường xuyên biến động
như năm 2009, một cán bộ chuyên thu được điều chuyển lên BHXH tỉnh,
một cán bộ sổ thẻ mới về, năm 2010 phó giám đốc BHXH huyện được
điều chuyển sang huyện khác. Điều đó gây khó khăn cho cơng tác nắm tình
hình của các đơn vị trên địa bàn huyện.


• Thứ năm: Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục

vụ, thiếu kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thoả đáng cho
những đơn vị, cá nhân thực hiện tốt công tác BHXH.
2.3.3. Ngun nhân của những mặt hạn chế
• Về phía người lao động:
Do áp lực về việc làm nên một bộ phận người lao động không nghĩ hoặc
không dám đấu tranh địi hỏi những quyền lợi chính đáng của mình. Vì lợi
nhuận, một số chủ sử dụng lao động sẵn sàng bất chấp các quy định của
pháp luật, chiếm dụng tiền BHXH, BHYT dùng vào mục đích khác, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của
Đảng và Nhà nước. Sự phối hợp kiểm tra, thanh tra và xử lý của các cơ
quan chức năng chưa thoả đáng, chưa triệt để.
• Về phía đơn vị sử dụng lao động:
o Nhiều doanh nghiệp do mới thành lập sản xuất kinh doanh chưa ổn định,
nguồn vốn chưa lớn nên chưa có điều kiện tham gia BHXH, nhất là đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân.
o Do thay đổi về cơ chế quản lý, chuyển đổi hình thức sở hữu, mơi trường
cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên một số đơn vị gặp khó khăn, phải
tạm dừng sản xuất kinh doanh, hoạt động cầm chừng hoặc chờ xử lý
xong công nợ mới tiếp tục phương án sản xuất kinh doanh mới.
o Các doanh nghiệp của huyện đa số có quy mơ vừa và nhỏ, lao động làm
việc theo mùa vụ, ý thức của người sử dụng lao động và người lao động
chưa cao; nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được Bộ Luật Lao động và
luật BHXH, khi hoạt động không đăng ký thang bảng lương cụ thể với
cơ quan quản lý lao động, ký hợp đồng lao động không đúng quy định
hoặc khơng ký hợp đồng lao động, gây khó khăn cho cơ quan BHXH
trong việc xác lập tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.
o Đội ngũ cán bộ làm cơng tác BHXH ở một số cơ quan Doanh nghiệp
không ổn định phải kiêm nhiệm nhiều việc, chủ yếu là cán bộ kế tốn
kiêm ln cả làm cơng tác BHXH, nên chưa thực sự hiểu rõ về chính
sách và chế độ BXHH, việc bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ về chính

sách BHXH còn nhiều hạn chế.


• Về nhận thức:
o Người lao động chưa hiểu biết nhiều về BHXH, ngay cả những người
lao động đã tham gia BHXH cũng biết rất ít về BHXH, điều đó dẫn tới
việc thiếu quan tâm, ít biết về quyền lợi chính đáng của mình được
hưởng.
o Nhận thức của người lao động và NSDLĐ về nghĩa vụ và quyền lợi đối
với việc tham gia BHXH cho người lao động còn hạn chế, chưa nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định của Nhà nước về BHXH. Nhiều doanh
nghiệp ngồi quốc doanh chưa có tổ chức cơng đồn hoặc có những hoạt
động yếu kém vì thế mà chưa bảo vệ được lợi ích cho người lao động.
• Về cán bộ BHXH:
o Cán bộ chuyên thu khi làm công tác đôn đốc việc thu nộp vẫn chưa kiên
quyết đối với các trường hợp chậm nộp. Nguyên nhân là do một số cán
bộ còn ngại va chạm, đôn đốc thúc nộp.
o Công tác thông tin tuyên truyền của BHXH huyện Yên Hưng đến người
lao động và người sử dụng lao động còn chưa sâu rộng đến từng cơ quan
đơn vị về BHXH. Nội dung còn đơn giản, hình thức chưa hấp dẫn làm
cho người dân khơng mấy quan tâm. Trình độ các cán bộ tuyên truyền
chưa cao, khiến NLĐ và NSDLĐ chưa hiểu sâu sắc về sự cần thiết và
tính nhân văn của chính sách BHXH.
• Về phía cơng đồn:
o Cơng đồn là tổ chức đại hiện hợp pháp đứng ra bảo vệ quyền lợi cho
người lao động. Thế nhưng ở các doanh nghiệp trốn đóng BHXH tiếng
nói của cơng đồn khơng có trọng lượng, chưa đủ sức để lên tiếng buộc
doanh nghiệp thực hiện đúng luật. Một số cơng đồn cở sở khác cịn lơ
là khơng làm đúng chức trách của mình, mặc cho doanh nghiệp làm trái
luật.

o Việc thành lập cơng đồn cơ sở tại khu vực ngồi quốc doanh cịn rất
hạn chế do khơng có cán bộ chun trách, đa số sử dụng lực lượng công
nhân của doanh nghiệp thành lập BCH công đồn nên khi chủ doanh
nghiệp vi phạm chính sách lao động, tổ chức cơng đồn khơng mạnh
dạn đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người lao động.


×