Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.39 KB, 13 trang )

lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ.
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
a. Trên thế giới:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức bảo
hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, ngời đợc bảo hiểm là William
Gybbon. Nh vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhng lại không có điều
kiện phát triển ở một số nớc do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống nh một trò
chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con ngời, nên bảo
hiểm nhân thọ phải tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự
phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con ngời đợc cải thiện rõ rệt, thêm vào đó
là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có
điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Với sự xuất hiện các phép tính xác suất
Pascal và Fermat thì sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhng chỉ bán
các hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công
ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc
phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa đợc thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những
loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo
hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hu trí, mỗi công ty bảo
hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp ứng nhu cầu tài
chính của từng khu vực dân c và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng
quốc gia.
Ngời ta cũng thờng có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là
tai nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn bảo hiểm
của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng trên).
Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50% doanh


số của ngành bảo hiểm.
Dới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các khu vực
trên thế giới trong hai năm 1990, 1996.
Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở
các khu vực
Đơn vị tính: %
Năm
Khu vực
1990 1996
Châu á
33,8 75
Châu Âu 31,4 50
Châu Mỹ 34,8 43
Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996.
Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm là
61,1 tỷ USD, doanh số của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% ,
doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%.
Có thể đa ra đây một số ví dụ về sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở một số nớc
nh sau:
Bảng 2: Phí bảo hiểm nhân thọ ở một số nớc trên thế giới năm 1993.
Tên nớc Tổng phí
bảo hiểm
(tr.USD)
Nhân thọ
(%)
Phi
nhân
thọ (%)
Phí BHNT
trên đầu

ngời(US/
1000ngời)
Tỷ lệ
BHNT
trên GDP
(%)
Bảo hiểm
phi nhân
thọ trên
GDP (%)
Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Singapor
Philipin
Thái Lan
Malaixia
Inđonêxia
Mỹ
Đức
Pháp
Anh
36.050
320.143
9.886
1.666
1.238
2.127
1.989
1.233

522.468
107.403
84.303
102.360
79,66
73,86
68,77
62,42
59,43
53,64
46,45
30,25
41,44
39,38
56,55
64,57
20,34
26,14
31,23
37,28
40,57
43,36
53,55
69,75
58,56
60,62
43,65
35,43
651.201
1.909.870

325.311
358.620
11.294
19.470
48.125
1.974
838.223
524.138
826.320
1.141.450
8,68
5,61
3,14
1,89
1,38
0,92
1,43
0,26
3,41
2,25
3,80
7,00
2,21
1,98
1,43
1,14
0,82
0,80
1,65
0,60

4,82
3,46
2,82
3,85
Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân.
b.Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ,
trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp
vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt
Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nớc tầm vĩ
mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nh-
ng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dới nhiều
hình thức khác nhau.
Trớc năm 1954, ở miền Bắc, những ngời làm việc cho Pháp đã đợc bảo hiểm
và một số gia đình đã đợc hởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp
trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hng Việt bảo hiểm đã
triển khai một số loại hình bảo hiểm nh An sinh giáo dục, Bảo hiểm trờng
sinh (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm,
nhng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm
không đợc biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào
Việt Nam, nhng vào lúc đó điều kiện đất nớc còn gặp nhiều khó khăn nh:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thờng
ngày, phần tiết kiệm rất ít.
- Cha có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu t. Công
ty bảo hiểm lúc đó cha đợc phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu t, môi trờng đầu t
cha phát triển.

- Cha có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ
giá công ty bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho ngời đợc
bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài
chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai Bảo hiểm sinh mạng con ngời thời
hạn 1 năm.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may ngời chủ gia đình bị mất mà chỉ tính
đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý ngời tham gia loại hình bảo hiểm
này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng đợc nhu
cầu cho những ngời già.
- Mọi ngời tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có đợc
nhận lại gì không?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam
trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu
tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình mang
tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo
hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký
quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân
thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bớc ngoặt mới trong sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài ngời trong số họ
phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên đợc ghi vào lịch sử là năm
1583, ở thị trờng Luân đôn một nhóm ngời đã thoả thuận góp tiền và số tiền này
sẽ đợc trả cho ngời nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống
của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần không

nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm
nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của ngời dân các nớc phát triển cũng nh
các nớc đang phát triển.ở châu á, những năm gần đây bảo hiểm nhân thọ phát
triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân, tạo nguồn đầu t dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng
vay vốn nớc ngoài với lãi suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ,
năm 1996, ở châu á, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí
bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nớc phát triển có môi tr-
ờng đầu t tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nớc, góp phần giải
quyết một số vấn đề xã hội nh vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu
hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm duy trì
hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trờng hợp ngời chủ
công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thơng tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đờng lối đổi
mới dới sự lãnh đạo của Đảng, đất nớc ta đã đạt đợc những thành tựu đáng phấn
khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra
đợc những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nớc, cho phép
chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội văn minh".
Muốn thực hiện đợc thắng lợi mục tiêu chiến lợc kinh tế xã hội đã đề ra thì
nhân tố vốn đầu t là rất quan trọng. Vốn đầu t chủ yếu đợc lấy từ quĩ tích luỹ của
nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nớc ngoài. Theo kinh nghiệm của một số
nớc phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt Nam thì nhất thiết phải
tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là biện pháp
chính. Có tích luỹ từ trong nớc thì mới tiếp nhận đợc nguồn vốn từ bên ngoài. Mà
quĩ tích luỹ này đợc hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy nguồn vốn này
cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản vốn cần thiết để phát triển kinh tế.
Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nớc ta thời gian qua là nguồn
vốn đầu t phát triển bằng nguồn vốn trong nớc tăng không đáng kể, mặc dù theo

điều tra, vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu t số ra gần đây cho biết:
Nguồn vốn trong dân ớc tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.
Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP.
Cùng với tốc độ tăng trởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng trởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả
về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với ngời dân, ngoài khả năng gửi
tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thờng rất ít khả năng để đầu t những khoản tiền
nhàn rỗi.
Nh vậy cùng với việc tăng nhanh số lợng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà n-
ớc cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn
trong dân cho đầu t phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động đợc
một lợng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bớc đầu, lợng ngời tham gia bảo hiểm cha
lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng cha nhiều, nhng lợng vốn
mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động đợc cũng là hết sức cần thiết
trong điều kiện kinh tế nớc ta hiện nay. Nếu nh đối với nghiệp vụ bảo hiểm khác
thời gian bảo hiểm thờng ngắn, mức phí đóng thờng là thấp thì ở nghiệp vụ " An
Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí định kỳ cao. Điều này cho thấy
huy động vốn bằng cách tăng cờng triển khai nghiệp vụ "An Sinh Giáo Dục " là
hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm nhân thọ.
II - Mục đích, ý nghĩa và đặc trng của bảo hiểm nhân
thọ
1.Mục đích
Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tơng hỗ - đó là mục
đích chính, và do đó bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số tiền đợc
trả cho thân nhân và gia đình ngời tham gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro đ-

ợc bảo hiểm sẽ giúp những ngời thân chi trả những khoản chi tiêu rất lớn nh: tiền
thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn định cuộc sống,
chi phí giáo dục con cái, nuôi dỡng chúng nên ngời.
Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhng không ai biết nó đến lúc nào. Việc mua
một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia đình.
Và nếu nh may mắn trong suốt thời hạn bảo hiểm không có rủi ro thì ngời đợc
bảo hiểm vẫn nhận lại đợc số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ hoạt động của công ty
bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản tiền lớn để chi
tiêu cho những công việc lớn, hoặc nh dành dụm cho con bằng cách mua hợp
đồng An sinh giáo dục thì khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản tiền để cấp vốn
cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại học. Chi phí giáo dục - một
vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở nên nóng bỏng
trong tơng lai.
So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có u điểm sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thờng xuyên và có kế hoạch. Khi
đã quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ đóng
hàng tháng đợc coi nh là các chi phí thờng xuyên nh tiền ăn, tiền điện, tiền n-
ớc...và ngời đại lý chính là ngời thờng xuyên nhắc nhở và thu khoản tiền này.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình
ngời đợc bảo hiểm khi ngời đợc bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay
cả khi họ mới kịp tiết kiệm đợc một khoản tiền rất nhỏ.
2 . ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ
Cũng giống nh các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có vai trò
đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói riêng và của xã
hội nói chung .
a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình .
- Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của ngời chủ gia đình đối
với con cái hay những ngời phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển

×