Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SKKN - TẠO HỨNG THÚ HỌC TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.1 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LỜI NÓI ĐẦU</b>



Nhân loại đã bước sang thế kỉ XXI – thế kỉ của khoa học kĩ thuật, của sự tiến
bộ và phát triển. Đất nước VN cũng đang chuyển mình ngày càng mạnh mẽ để hịa
nhập với sự phát triển của thế giới. Thời đại mới đang tạo cho chúng ta cơ hội
nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Để phát huy sức mạnh
truyền thống và tiềm năng của đất nước, con người VN, để VN tiến nhanh tiến
mạnh trên con đường phát triển xã hội, việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ có trí
thức, có năng lực, lý tưởng trở thành nhiệm vụ cấp thiết của xã hội. Nhận thức
được u cầu đó, Đảng ta rất coi trọng cơng tác giáo dục, coi “ giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của tồn dân”. Chính vì vậy,
việc tìm hiểu, năm bắt công tác giáo dục ở các trường phô thông là việc làm thường
xuyên và cần thiết, nhất là đối với người giáo viên – những ng trực tiếp tham gia và
góp phần khơng nhỏ vào sự nghiệp giáo dục nước nhà.


Xuất phát từ yêu cầu đó, hằng năm trường ĐHSP Thái Nguyên tổ chức cho
sinh viên năm thứ 3 đi kiến tập sư phạm để bước đầu vạn dụng kiến thức lý thuyết
giáo dục vào thực tế, học hỏi những ng đi trước để tích lũy kinh nghiệm về cơng
tác giáo dục cho bản thân. Vì thế, khi nhận được nhiệm vụ tại trường THCS Túc
Duyên, tập thể Tốn – Tin K43 chúng tơi mặc dù chỉ trong thời gian 3 tuần ngắn
ngủi đã nghiêm túc và tích cực học hỏi với tinh thần trách nhiệm cao. Qua đó, bản
thân tơi đã khơng những thu được những kinh nghiệm thực tế quý báu mà còn được
thực hành phương pháp nghiên cứu khoa học về TLGD khi thực hiện đề tài: “ Thực
trạng hứng thú học tập môn toán của học sinh lớp 6A2 trường THCS Túc
Duyên,Thái Nguyên”.


Đề tài được hoàn thành với sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của thầy Trần Văn
Sơn – Giảng viên khoa tâm lý giáo dục trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên và sự
giúp đỡ nhiệt tình của cơ Nhâm Thị Chung giáo viên giảng dạy mơn tốn lớp 6A2
cùng tồn thể các em học sinh trong lớp 6A2.



Xuất phát từ hoạt động học tập thực tế của trường nói chung và của lớp 6A2
nói riêng tơi đã nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này. Mặc dù việc nghiên cứu đã
hoàn thành nhưng đây là bài viết đầu tay và với vốn kinh nghiệm ít ỏi nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót tơi mong được ý kiến đóng góp của thầy cơ giáo cùng
tồn thể bạn đọc để đề tài này được hoàn thiện hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>PHẦN THỨ NHẤT</b>


<b>Những Vấn Đề Chung</b>


<b>I. Lý do chọn đề tài.</b>


Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng khá
phức tạp, như L. X. Vưgôtxki đã khẳng định: “Đối với việc nghiên cứu hầu như
khơng có vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con
người" [113, tr. 110]. Chính vì thế, lâu nay lĩnh vực hứng thú đã được nhiều nhà
khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, song vẫn còn nhiều vấn đề cần tìm tịi.


Hứng thú là một trong những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách, nó có
vai trị rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức
nói riêng. Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát
vọng hành động và hành động một cách say mê, sáng tạo, làm tăng sức làm
việc,...ở mỗi người. Trong họat động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi
thúc HS nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học
một mơn nào đó, HS sẽ tập trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát
của các em trở nên nhạy bén và chính xác, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ
dàng và sâu hơn, quá trình tư duy sẽ tích cực hơn, sự tưởng tượng sẽ phong phú
hơn... Các em sẽ tự giác, sáng tạo, say sưa, không biết mệt mỏi trong quá trình lĩnh
hội, và sự vận dụng những điều lĩnh hội được vào giải các bài tập sẽ linh hoạt, sáng
tạo hơn, nhờ đó kết quả học tập của họ sẽ ngày càng nâng cao, năng lực của HS
từng bước được hình thành, phát triển một cách tích cực. Điều này đã được đại văn
hào Macxim Goocki khái qt: “Tài năng, nói cho cùng là tình yêu đối với công


việc”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

kiến thức kỹ năng có tính cơ bản mở đầu, nếu hs học kém Toán sẽ hạn chế trong
năm học tiếp theo. Cho nên đối với cấp học, bậc học hay môn học nào cũng có mặt
mạnh, yếu của nó và điều có hs khá giỏi, trung bình yếu, kém nhưng với hs khá
giỏi thì các em tiếp thu được vốn tri thức được nhanh hơn so với hs yếu kém. Vì
vậy trong mơn Tốn việc hs giỏi hay khá cịn phụ thuộc rất nhiều vào cách truyền
đạt kiến thức và hứng thú của học sinh với môn học, khả năng tiếp nhận kiến thức
của mỗi học sinh hay do nhiều nguyên nhân khác nhau.


Vì vậy hứng thú càng trở nên quan trọng trong việc học tập mơn Tốn ở
trường THCS. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán HS mới
thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp
khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trị của tốn
học đối với đời sống và các ngành khoa học khác.


Trong những năm gần đây, hứng thú học mơn Tốn của HS ở nhiều trường
THCS nhìn chung vẫn cịn bị hạn chế, khơng ít em sợ tốn, coi việc học tốn là một
cơng việc nặng nhọc, căng thẳng,... Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do
các em chưa thật sự nhận biết tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học toán, chưa
được kích thích hành động tích cực, sáng tạo trong quá trình giải tốn...; cũng có
thể do nội dung mơn Tốn khô khan, phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp
dẫn,...


Mặt khác, trên thực tế những nghiên cứu hình thành hứng thú học tốn cho HS
THCS ở Việt Nam cịn chưa được nghiên cứu mang tính hệ thống.


Vì vậy, tơi chọn đề tài: “<i><b>Thực trạng hứng thú học tập môn toán của học</b></i>
<i><b>sinh lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên”.</b></i>



<b>II. Mục đích nghiên cứu</b>


Là một giáo sinh thực tập trong q trình kiến tập sư phạm mục đích nghiên
cứu của tơi là bước đầu tìm hiểu hứng thú học tập mơn tốn của học sinh lớp 6A2
trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khoa học và vận dụng tâm lý học, giáo dục học vào thực tế từ đó tìm ra cách tổ
chức cơng tác chủ nhiệm và xây dựng cho mình phương pháp giảng dạy thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục.


<b>III. Đối tượng và khách thể điều tra</b>


- Đối tượng nghiên cứu: thực trạng hứng thú học tập mơn tốn của học sinh
lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.


- Khách thể nghiên cứu: chính gồm 39 HS trong đó có 20 HS nam và 19 HS nữ
của lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.


Khách thể nghiên cứu bổ trợ là 30 GV gồm các GV trực tiếp dạy những HS
được nghiên cứu và các GV dạy các bộ môn ở các khối lớp 7, 8, 9.


Trưng cầu ý kiến 64 CMHS. Một số khách thể phỏng vấn sâu: 25 HS, 30
CMHS, 15 GV,...


<b>IV. Nhiệm vụ nghiên cứu</b>


Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: Hứng thú, hứng thú học tập, đặc điểm
hứng thú học mơn Tốn của HS nói chung, hứng thú học mơn Tốn của HS lớp
6A2 nói riêng; các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển hứng thú của
HS THCS.



Điều tra, phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng hứng thú học
mơn Tốn của HS ở một số trường THCS; xác định những đặc điểm của hứng thú
học môn Toán ở HS THCS.


Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp tâm lý sư phạm nhằm nâng cao
hứng thú học mơn Tốn cho HS.


Đề xuất kiến nghị sư phạm nhằm phát triển hứng thú học mơn Tốn của HS
THCS.


<b>V. Phương pháp nghiên cứu</b>


Để nghiên cứu một vấn đề có rất nhiều phương pháp tuy nhiên việc thực hiện các
phương pháp còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan. Do điều kiện
hạn chế nên tôi không vận dụng được tất cả các phương pháp trong q trình
nghiện cứu. Tơi đã vận dụng chủ yếu các phương pháp sau:


- Phương pháp quan sát: phương pháp này được sử dụng trong các giờ học các
giờ truy bài để nhận xét thái độ, ý thức học tập của học sinh.


- Phương pháp điều tra: phương pháp này được sử dụng dưới các hình thức
như phát phiếu điều tra, thu thập số liệu....để nắm được hứng thú của học
sinh với mơn học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

xử lí số liệu thu thập được. Trên cơ sở đánh giá, phân loại học sinh.


- Phương pháo đàm thoại: tiếp xúc, trò chuyện trực tiếp với học sinh và giáo
viên bộ mơn, từ đó nắm được tình hình chung của lớp và chất lượng học tập
của học sinh.



- Ngồi ra đề tài cịn được thực hiện nhờ việc đọc, phân tích các tài liệu có liên
quan.


<b>VI. Phạm vi và giới hạn của đề tài</b>


<i>- Về khách thể nghiên cứu: Do điều kiện hạn chế nên không thể nghiên cứu</i>
HS THCS từ lớp 6 đến lớp 9, chúng tôi chỉ chọn nghiên cứu được HS lớp 6A2 lớp
đặc trưng của trường THCS Túc Duyên.


<i>- Về đối tượng nghiên cứu: </i>


+ Nghiên cứu một số đặc điểm hứng thú học mơn Tốn của HS lớp 6A2.


+ Biện pháp tâm lý sư phạm: chủ yếu áp dụng một số tác động tâm lý thông
qua phương pháp dạy học của GV nhằm tăng tính chủ động, tìm tịi, sáng tạo và tạo
lập bầu khơng khí tâm lý HS tích cực trong q trình học tập để nâng cao hứng thú
học mơn Tốn.


<i>- Địa bàn nghiên cứu: </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>PHẦN THỨ HAI</b>



<b>Nội dung và các kết quả nghiên cứu</b>


<b>I. Lịch sử vấn đề nghiên cứu</b>


Hứng thú là vấn đề hấp dẫn và phức tạp cho việc nghiên cứu. Vì thế đã có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu về hứng thú có giá trị trên thế giới, đặc biệt là của các
nhà tâm lý học nổi tiếng. Từ những cơng trình nghiên cứu có giá trị ấy có thể khái
quát lịch sử nghiên cứu theo các xu hướng sau:



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đề tài này đã được nhiều tác giả trong và ngồi nước nghiên cứu, tơi cũng nhận
thấy đề tài này rất hay và lý thú nhưng trong giới hạn của đề tài nên tôi chỉ nghiên
cứu một mặt mới đó là nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập mơn tốn của học
sinh lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên nói riêng, từ đó có một số
nhận định về hứng thú học tập mơn tốn của học sinh THCS nói chung.


<b>II. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu</b>


Lịch sử đã chứng minh có rất nhiều con đường để tiếp thu và nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo như bằng lao động sản xuất, bằng các hoạt động xã hội, bằng hoạt
động dạy học. Trong các con đường đó thì con đường dạy học là con đường ngắn
nhất, thuận lợi nhất giúp người học có thể nắm vững khối lượng kiến thức nhiều
nhất trong một thời gian ngắn nhất. Hiện nay dạy học rrat được coi trọng, được
Đảng và nhà nước ta quan tâm. Mục đích của dạy học là đào tạo những con người
độc lập có năng lực, trí tuệ, có bản lĩnh để đưa đất nước theo kịp với sự phát triển
của khoa học, công nghệ, theo kịp với các quốc gia trên thế giới. Để đạt được mục
đích này chúng ta cần phải có chất lượng giáo dục cao. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Một trong những yếu tố đó thì hứng
thú học tập đóng vai trị quan trọng tạo nên chất lượng học tập. Chính vì vậy việc
tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh là điều kiện cần thiết và tất yếu đối với mỗi
giáo viên, giúp ng giáo viên có hướng giảng dạy và giáo dục thích hợp, khơng tạo
cho học sinh sự gị ép trong họ tập, tạo điều kiện cho các em lĩnh hội tri thức có
hiệu quả cao nhất,. Trong q trình đó người giáo viên phải tích lũy cho mình kinh
nghiệm, tri thức, tự rèn luyện hồn thiện mình đáp ứng nhu cầu nhận thức ngày
càng cao của học sinh. Dạy học là một trong những con đường đặc trưng và cơ bản
nhất của nhà trường để thực hiện mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa hai quá trình hoạt
động dạy của thầy và hoạt động học của trị. Trong đó người thầy là người được xã
hội giao cho nhiệm vụ giáo dục cho thanh thiếu niên, giáo dục con người. Học sinh


tiếp thu tri thức, giá trị văn hóa của lồi người đồng thời vận dụng những tri thức
đó vào cuộc sống nhằm tái tạo và phát triển di sản văn hóa làm cho kho tàng tri
thức của nhân loại ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Trong mối quan hệ giữa
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trị thì mọi hoạt động tổ chức của ng
thầy đều nhằm vào thúc đẩy sự nhận thức của học sinh. Bằng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình ng thầy cần tạo cho học sinh có sự say mê trong học tập. Người
học với nhu cầu nhận thức của mình mà tạo cho mình hứng thú học tập. Hứng thú
là thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc
sống, vừa có khả năng mang lại khối cảm cho cá nhân trong q trình hoạt động.
Hứng thú học tập là thái độ thích học hay khơng thích học ở mỗi em học sinh, là sự
say mê hấp dẫn, sự tập trung chú ý cao độ của các em trong học tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

+ Điều kiện khách quan đó là điều kiện, hồn cảnh tác động đến học sinh tạo cho
các em tập trung chú ý học tập như: do thầy dạy tốt, do có điều kiện học tập tốt, do
cha mẹ quan tâm...


+ Điều kiện chủ quan đó là bản thân mỗi em học sinh thích, say mê học các mơn
học.


+ Do mn tạo cho học sinh có hứng thú học, người thầy phải có phương pháp
giảng dạy, cách truyền đạt trí thức thế nào để tạo cho học sinh cảm giác thích học,
say mê với mơn học và chính bản thân mỗi em học sinh cần tự tạo cho mình hứng
thú học tập.


Hứng thú học tập của học sinh còn bị ảnh hưởng của vốn kiến thức phong phú, sâu
rộng của thầy và năng lực tiếp thu của trị, thầy dạy có giỏi, học sinh tiếp thu bài
nhanh, sáng tạo thì trở thành động lực thúc đẩy các em say mê học tập.


+ Hứng thú học tập được biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp
dẫn bởi nội dung bài học, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Do vậy sự tập trung


chú ý cao đọ cảu các em trong mỗi bài học có điều kiện, hồn cảnh khác nhau, có
đặc điểm tâm lý khác nhau. Do đó việc khơi gợi hứng thú cho học sinh cũng khác
nhau.


+ Hứng thú có vai trị quan trọng trong đời sống cá nhân làm tăng hiệu quả của quá
trình nhận thức vào đối tượng, khiến cho việc nhận thức sâu sắc và nhạy bén hơn.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, hành động sáng tạo, khi đó hứng thú
trở thành động lực, động cơ thúc đẩy lôi cuốn cá nhân hành động để thỏa mãn hứng
thú đó. Chính vì vậy nó giúp con người trong quá trình hành động, đem lại hiệu quả
cao. Hứng thú làm tăng cường sức làm việc, khi làm việc tạo cho cá nhân có sức
chịu đựng khó khăn làm việc rất dẻo dai.


+ Học sinh có hứng thú học tập, các em nảy sinh khát vọng học tập. Khi đó nó thúc
đẩy, lơi cuốn các em tập trung chú ý, say mê học tập nghiên cứu, các em tiếp thu
bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, do đó chất lượng học tập của các em cao hơn.


+ Ý nghĩa của việc tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh thơng qua sự tập trung
chú ý cao độ của các em trong học tập giúp chúng ta biết được thái độ của các em
đối với mơn học, từ đó phần nào ta có thể biết được kết quả học tập của các em,
nếu các em thích học mơn nào đó, các em có sự say mê nghiên cứu nó thì chắc
chắn các em sẽ đạt kết quả cao, ngược lại nếu các em phải học với sự gị ép thì kết
quả khơng cao, giúp người giáo viên tự điều chỉnh mình, rút kinh nghiệm trong
phương pháp giảng dạy. Đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đó là nâng cao chất lượng
học tập và giáo dục ở trường THCS.


<b>II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu</b>
<b>1. Cơ sở thực tiễn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nữ. Đa số các em ngoan ngỗn lễ phép, có nề nếp, có năng lực quản lý lớp. Các
thành viên trong lớp hăng say học tập. Trong thời gian 3 tuần tơi đã thực hiện tìm


hiểu hứng thú học tập của các em lớp 6A2 bằng cách:


- Tham dự giờ học và trò chuyện với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn và
các em học sinh lớp 6A2.


- Lập phiếu điều tra hứng thú học tập và phát phiếu cho 39/39 học sinh.
- Lấy số liệu kết quả học tập của 3 mơn: Tốn, Anh, Văn để so sánh.


Từ đó tơi có thể tìm hiểu được hứng thú học tập mơn tốn của các em và tìm ra
những nguyên nhân, biện pháp nhằm tạo ra hứng thú học tập cho các em.


<b>2. Tinh thần thái độ</b>


Đa số các em có tinh thần học tập hăng hái, thái độ say mê hào hứng đối với mơn
tốn.


<b>3. Kết quả cơng tác điều tra</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

HS học kém toán ở trường THCS nói chung và lớp 6A2 ln có, số lượng HS nhiều
hay ít là do mỗi trường,mỗi lớp có biện pháp giúp đỡ tốt hay không? Và HS yếu
kém ở mỗi mơn học là tất yếu, có lúc HS này khơng thích học nên việc học được
tốt mơn tốn là rất hạn chế vì đặc trưng của mơn tốn là suy luận, tư duy và khái
quát cao nên các em cần phải tự phát hiện, tìm tịi rất khó với HS, nhưng nói như
vậy khơng phải là khó hồn tồn nếu ta biết cách học sẽ học tốt, nó có nhiều ứng
dụng trong cuộc sống. Qua việc tìm hiểu ý kiến của HS thì có rất nhiều HS khơng
thích học tốn, HS ngại và sợ tính tốn, mặc dù các em đều đạt điểm 9,10 nhưng
câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao khơng thích học tốn mà đạt điểm cao, một câu hỏi
khó mà trả lời được, với những lí do đó tơi tự mình tìm hiểu, thật ra là qua việc tiếp
xúc và trị chuyện thì các em nói rằng: “ Mơn Tốn thật lịng các em khơng thích,
em thích Tiếng Việt, Nhạc, Mĩ thuật… học tốn phải tính, suy nghĩ mệt mà có lúc


khơng hiểu gì…” rất nhiều ý kiến nhưng vấn đề ở đây khơng biết có phải là cách tổ
chức dạy học của GV không sinh động, hấp dẫn thu hút HS không tạo được hứng
thú trong học tập, nên các em không quan tâm tới, cứ học từ từ, khơng cần phải
quan tâm đến kết quả có đúng khơng khi làm sai, khi gọi các em giải thích tại sao
làm như vậy thì HS khơng giải thích được mà chỉ im lặng. Điều đó cho thấy các
em học mà không hiểu, chứng tỏ là chép bài của bạn nên khơng lí giải được, nên
khơng biết đúng hay sai chỗ nào, chỉ đối phó với GV. Vấn đề ở đây nó thể hiện hai
mặt, một mặt việc học kém tốn xuất pháp từ phía HS học mà khơng cố gắng cũng
như khơng chịu tự khám phá, tìm tòi trong lúc học tập hoặc do ý thức học tập của
các em chưa cao, xác định động cơ chưa đúng…. Hay bắt nguồn từ phía gia đình,
hoặc GV chưa có phương pháp hay hình thức học tập chưa lôi cuốn HS, chưa tạo
điều kiện cho các em thể hiện năng lực của mình, nên hạn chế khả năng sáng tạo
của HS, việc dạy và hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức là khó khăn địi hỏi GV phải
tận tình giúp đở mới đạt được kết quả như mong muốn. Thực tế cho thấy qua việc
em được dự thao giảng 1 tiết tốn do cơ Nhâm Thị Chung ở lớp 6A2: “Thứ tự trong
tập hợp số nguyên<i><b>” </b></i>tiết dạy cũng tốt nhưng còn nhiều vấn đề ở đây là trong việc
hình thành các kiến thức mới thì qua việc HS được học rồi các giá trị tuyệt đối thì
GV cần dùng những câu hỏi là HS có thể làm được, nhưng GV vẫn hướng dẫn còn
HS chăm chú lắng nghe khơng cần phải động não vì khi hỏi HS, HS trả lời không
đúng ý định, rồi sửa chữa rất mất nhiều thời gian, hướng dẫn xong việc hình thành
kiến thức rồi qua phần bài tập thì bài đầu tiên tất nhiên GV phải hướng dẫn, đối với
bài tập 9 GV nên cho nhắc lại cách so sánh các số, sau đó cho HS làm bài trong 2
phút rồi cho HS lên bảng làm, ở đây GV cho 2 HS lên bảng làm ln, phải tính
tốn rất lâu, rồi sửa bài mất nhiều thời gian, rồi tiếp tục làm câu b) tương tự như bài
a) GV cho HS đọc lại. Qua bài tập 10 không làm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

một điều rất lạ là hs học tốn trong lớp đều được điểm 9,10 mà lại khơng thích học
tốn ,cũng khơng biết học mơn Tốn dễ hay khó nữa và các em đều cho là khơng
biết, câu hỏi đặt ra tại sao lại như vậy? Phần dông hs học được tốn có thể là các
em được học thêm hay trên lớp được GV hướng dẫn hết hs không cần phải suy


nghỉ cũng như xác định đề yêu cầu làm gì, hỏi gì, chỉ ghi lại kết quả mà không cần
suy luận, mà khi ghi kết quả lại hs cũng ghi sai nữa. Vì vậy trong lúc thực tập dạy
học thì đa số hs thích học mơn Tiếng Việt, Mĩ Thuật, Âm Nhạc,…các em khơng
thích học tốn, nhưng chất lượng học vẫn cao. Đây không phải là chất lượng thực
sự. Trong giáo dục ngành học hay môn học nào cũng có hs giỏi, khá và yếu, nếu
trong việc dạy học mà ta chấp nhận lấy chất lượng học tập của hs thật sự thì việc
dạy và học có thể nâng cao, nhưng thực tế thì cho thấy trong tất cả các lớp sự yếu
kém của hs có lẽ GV còn e ngại, cố dấu đi sự yếu kém của hs trước sự thăm dò của
sinh viên (SV) và cho đó là một số hs học vẫn tốt nhưng điểm vẫn trên 5, thật sự hs
là không hiểu bài nên không vận dụng vào làm bài tập được, sự tiếp thu của hs rất
yếu nên các em chỉ việc chép bài là xong, đối phó với GV chớ không khi nào tự
giác làm bài. Như thế làm hạn chế sự phát triển của hs, nếu như GV chúng ta cho
hs thuộc dạng yếu kém tốn mà qua đó tìm hiểu nguyên nhân, các biện pháp để
giúp đỡ hs học tốn như vậy mới tốt………


Để tìm hiểu cụ thể về hứng thú học tập của các em học sinh lớp 6A2 tôi đã
lập phiếu điều tra hứng thú học tập mơn tốn. Trong phiếu tơi đặt ra một số câu hỏi
như: em hãy cho biết thái độ của em đối với mơn tốn như thế nào? Em nhận thức
thế nào về vai trị của mơn tốn trong chương trình học tập của nhà trường? Em
thích học mơn tốn vì lý do nào?... Sau đó tơi phát phiếu điều tra cho 39/39 học
sinh lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên. Kết quả thu được như bảng
sau:


Bảng 1: bảng mức độ hứng thú học tập mơn tốn


Rất thích Thích Bình thường Khơng thích


Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ


Bảng 2: Bảng mức độ hứng thú học tập của các em ở các mơn tốn, văn và anh


Mơn học Mức độ hứng thú


Rất thích Thích Bình thường Khơng thích
Tốn


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Bảng 3: Kết quả học tập ba mơn văn, tốn , anh của học sinh tính theo %
Mơn


học


Tốn Văn học Ngoại ngữ


Xếp
loại


Giỏi Khá TB Yếu Giỏi Khá Tb Yếu Giỏi Khá TB Yếu
Nam


Nữ
Tổng


<b>3. Phân tích kết quả điều tra</b>


Qua việc phát phiếu điều tra hứng thú học tập mơn tốn tơi thấy đa số học sinh
thích học mơn tốn trong đó số học sinh nam nhiều hơn học sinh nữ. Tơi nói
chuyện với một số học sinh nam có điểm tổng kết cao được các em trả lời:“ chúng
em thích học tốn vì nó gắn liền với thực tế và là môn chúng em phải thi sau này.
Cô giáo giảng bài rất dễ hiểu“. Em Đỗ Văn Hải nói “ em thích học cả 3 mơn tốn,
văn, ngoại ngữ vì phương pháp giảng dạy của các thầy cô lôi cuốn em với những
điều mới. Trong mỗi tiết học cô hay gợi cho chúng em sự thích thú. Cịn đối với


mơn tốn là một trong những mơn học em dự định thi đại học.


Nhìn vào bảng 1 ta thấy phần lớn các em học sinh đều có hứng thú học mơn
tốn. Ở mơn tốn các em chuẩn bị bài rất tốt trước khi đến lớp. Nhiều em tích cực
tham gia phát biểu ý kiến như: Cao Phương Anh, Vũ Đình Biển, Đỗ Văn Hải, Đinh
Hồng Tuyên, Bùi Quốc Khánh...


Ở bảng 3 ta thấy xét chung các em đều đạt kết quả khá cao ở cả 3 mơn tốn –
ngoại ngữ - văn số học sinh đạt tỉ lệ yếu kém là rất ít, số học sinh đạt loại giỏi
chiếm tỉ lệ tương đối 8.8%.


Tất nhiên kết quả cụ thể của 3 mơn vẫn có sự chênh lệch tuy nhiên là khơng
lớn.


Mơn Văn là mơn có số học sinh xếp loại giỏi nhiều nhất: 4 em chiếm 7%,
mơn tốn có 2 em chiếm 3.5%, và mơn ngoại ngữ khơng có em nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>PHẦN THỨ BA</b>


<b>Kết luận và nhận xét</b>


<b>1. Kết luận</b>


Các em đã có hứng thú học tập và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên vẫn cịn tình trạng
nhiều em chưa chú trọng vào học tập mơn tốn và kết quả học tập chưa cao.


<b>2. Nguyên nhân</b>


<i><b>- Đối với HS: </b></i>


+ HS chưa nắm vững các kiến thức cơ bản trong mơn Tốn.



+ HS cịn q yếu chưa theo kịp bạn bè, trong mơn Tốn thiếu sự tích cực, chủ
động, sáng tạo cũng như sự linh hoạt, khơng có sự tìm tịi, tự giác giải quyết các
bài tập, phần lớn là chờ vào sự hướng dẫn hay giải của GV.


+ Các em còn sợ học mơn Tốn vì phải tính tốn rất nhiều số, các em chưa thích
học Tốn vì nó phức tạp và suy luân hơi cao.


+ Do tâm lý sợ, thiếu tự tin, lười học, cẩu thả, chán ngán e sợ khi học Tốn.


+ Các em cịn chưa biết cách học, tự tập luyện, đa số là các em học thêm chứ chưa
tự nghiên cứu bài tập ở nhà.


+ Khơng có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng cơ bản yếu.


+ Các em còn e sợ, ngại bạn bè chê cười khi các em hỏi những thứ mà các em
không hiểu. Như vậy vấn đề không hiểu dẫn đến ngày càng các em bị mất căn bản
và rất nguy hiểm cho các lớp học tiếp theo.


+ Các em còn chủ quan, ham chơi chưa thật sự quan tâm đến việc học.
+ GV ra đề và dặn HS về nhà làm nhưng các em vẫn không làm.


+ Các em học mà không hiểu, khi nêu các quy tắc là ghi ra dược cơng thức, nhưng
các em đọc được lí thuyết mà ghi công thức không được.


+ HS chưa được sự quan tâm từ phía gia đình, gia dình khơng nhắc nhở HS trước
khi vào lớp là làm bài tập, nhưng qua kiểm tra thì ngày nào các em yếu kém điều
vẫn không làm bài tâp.


+ Chưa nắm vững kiến thức nên việc vân dụng vào tính tốn, giải tốn găp nhiều
khó khăn.



+ Vì những kiến thức chỉ được học một lần trên lớp nên HS khó mà nắm vững, gây
ảnh hưởng đến các kiến thức sau.


+ Các lớp dưới ,1,2,3,4 các em đã bị mất căn bản nên khó mà học tốt các lớp sau.
+ Do hồn cảnh gia đình như: Gia dình khơng hạnh phúc, ly hơn…Làm cho các em
thiếu tự tin, chán ngán học hành, mà học toán dòi hỏi các em phải tư duy và suy
luận.


+ Các em cịn có thái độ trong chờ vào GV, hay vào lớp mượn bài chép của bạn là
xong, không cần phải suy nghĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

+ Vì khi đã thực hiện truy bài đầu giờ hằng ngày, nhắc lại thường xuyến các q
tắc, cơng thức, cũng như các cách tính của từng bài tập, nhưng do ý thức của từng
HS, một số HS hiểu bài thì làm bài tốt, một số HS đọc vẫn đọc nhưng khi làm bài
thì khơng được, sai rất nhiều mà sai chủ yếu là cách đổi đơn vị, cách tính tỉ số phần
trăm, giải tốn về chu vi, thể tích…


+ Các em đọc đề nhầm hoặc không kỉ, dẫn đến kết quả sai.


+ Do hiện nay công nghệ thông tin phát triển, các em luôn bị lôi cuốn vào chúng
nên các em bị chi phối, thời gian học ít, chơi nhiều, dẫn đến kết quả yếu kém.


<i><b>- Đối với GV</b></i>:


+ Nội dung phương pháp chưa thật sự thu hút và lôi cuốn HS vào việc học tốn.
+ Phương pháp học khơng thích hợp.


+ Khơng có phương tiện dạy học hay tổ chức ở trường chưa phù hợp với từng đối
tượng HS.



+ Thời gian không đảm bảo viễc truyền thụ và rèn kĩ năng cho HS.
+ GV ôm làm hết và HS chỉ biết chép là xong.


+ GV chưa chú ý đến HS yếu và chưa bao quát HS.


+ Cách thức hướng dẫn của GV chưa kỉ lắm, nặng về cách giải nên HS khơng cần
suy nghĩ, tìm tịi cách giải nên khó mà giải bằng năng lực thật sự của mình.


+ Chưa thật sự quan tâm sâu sát đến HS yếu.


+ Thời gian trên lớp quá ngắn nên không chú ý nhiều đến HS.


+ GV chứa phối hợp tốt đối với gia đình và nha trường tróng việc kèm và
hướngdẩn HS kém tốn.


+ Dạy q nhiều phân mơn nến khơng có thời gian để hướng củng như ôn luyện
thường xuyên cho HS.


+ Chưa có biện pháp cụ thể đối với từng HS.


+ Chưa tạo ra nhiều tình huống học tập để giúp đở HS học tốt mơn Tốn hơn.
+ Chưa tác động kịp thời đến từng HS, để hạn chế khả năng học kém toán
<b>3. Ý kiến đề xuất</b>


Trên cơ sở các ngun nhân thì có những đề xuất trên cơ sở lí luận như sau:


1. Đối với HS kém Tốn cần bồi dưỡng thêm kiến thức một cách có hệ thống, GV
cần quan tâm hướng dẫn thật sát đối với HS, tạo điều kiện cho các em có động lực
học tập đúng đắn, khuyến khích các em cố gắng học hiểu và vận dụng các nguyên


tắc vào bài tập một cách hợp lí và chính xác. Khơng để cho HS học mà khơng hiểu
(cũng như học thuộc lịng mà khơng vận dụng). GV cần hướng dẫn cách tự học, lí
thuyết và cách học như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

+ Về cách học: Học phải hiểu chớ khơng học thuộc lịng, máy móc, chỉ hiểu trên
lớp cịn về nhà thì đã qn mất, làm hạn chế suy nghĩ của HS, đọc đề mà không
hiểu, cũng như các em làm biếng suy nghĩ, nghĩ mà không hiểu, làm cho việc học
cứ thong thả, từ từ ai học thì cứ học, các em chỉ lo chơi , khơng tạo ra một cách học
tích cực, tự mình tìm hiểu các bài tập, tạo thói quen sợ, ngại, làm bài tập khó vì
theo ý nghĩ quá khó của các em nên các em không bao giờ vượt qua sự trở
ngại.Cho nên GV và gia đình nên cần động viên HS cố gắng hết sức mình trong
quá trình học tập của mình.


2. Thời gian lên lớp là q ít, cần có thời gian học mơn tốn như: Dạy thêm,dạy
kèm HS yếu, tăng lượng bài tập cho HS, Đối với HS giỏi thì bồi dưỡng nâng cao,
cho thêm các bài tập khó hơn để đáng giá khả năng học tâp của HS. Từ đó sẽ có
biện pháp bồi dưỡng từng HS trong lớp, dối với HS yếu GV cần:


+ Hướng dẫn bài tập một cách cận kẽ


+ Ra các bài tập cho HS yếu kém giải để cải thiện việc học tập của các em.


+ Cần phối hợp với gia đình và nhà trường cho gia đình và nhà trường quan tâm
hơn đến việc học hành của các em, cũng như kèm và nhắc nhở làm bài tập, hướng
dẫn và chỉ bảo phát hiện kịp thời những kiến thức mà HS bị hỏng.


+ GV cần cho HS giỏi theo dõi hoặc kèm HS kém tốn để các em có thể kiểm tra
lại mức độ kiến thức cũng như sự tiến bộ của HS, cần tạo đôi bạn thân thiện cùng
nhau học tâp để HS có sự tự tin trong việc học tốn.



+ Lợi dụng 15 phút truy bài đầu giờ để kèm HS yếu, Gv chó bài tập lên bảng gọi
HS kém tốn lên bảng làm bài, GV cần hướng dẫn tận tình nếu làm đúng thì tuyên
dương, làm sai thì động viên các em cố gắng lần sau.


+ Luôn động viên khuyến khích sự tiến bộ, cố gắng của HS cho dù là nhỏ nhất.
+ Tạo sự thân thiện giữa GV và HS để các em có động cơ học tập đúng đắn.


+ GV luôn theo dõi và quan tâm nhiều đến HS để từng bước uốn nắn, hỗ trợ kiến
thức cho các em để các em tự tin trước bạn.


+ GV cần tổ chức các hình thức đa dạng như học nhóm, bồi dưỡng nhau học tập để
HS yếu có thể hòa nhập và tâp thể, tạo sự phấn đấu vươn lên.


3. GV cần bồi dưỡng động cơ tạo hứng thú trong q trình học tốn, vì động cơ và
hứng thú là rất quan trọng tùy thuộc vào mỗi GV có cách thức và phương pháp
khác nhau, nhưng dạy để đạt hiệu quả là tạo ra động lực trong học tập, để các em
có thể tiếp nhận kiến thức một cách tốt hơn và hiểu bài nhanh hơn.


4. GV cần tìm hiểu các nguyên nhân vì sao mà HS lại học kém tốn, có phải bắt
nguồn từ gia đình, hay ý thức của các em chưa đúng, lười biếng, cẩu thả…hay còn
nhiều nguyên nhân khác nữa. Tùy thuộc các ngun nhân mà cần có biện pháp
thích hợp đối với từng HS rồi mới bồi dưỡng HS được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

+ Vì chưa có ý thức học tập đúng đắn: Lứa tuổi các em còn lo ham chơi nhiều. Vì
vậy GV cần uốn nắn từ từ, đặt kỉ luật ngay từ đầu, dần dần sẽ tạo ra nề nếp học tập
tốt, trong lớp học thấy các bạn học giỏi nếu mình khơng cố gắng thì các bạn sẽ chê
cười, và thua về mặt thành tích.


+ Về lười biếng: Trị bệnh lười biếng bằng cách mỗi ngày giao 1 đến 2 bài tập cho
HS làm, GV nhớ kiểm tra và hướng dẫn cho HS, nếu Hs khơng hồn thành thì sẽ


phạt, hoặc cho làm bài tập tăng gấp đôi, làm nhiều lần như vậy HS sẽ sợ mà phải
nghe theo lời của GV mà hoàn thành bài.


+ Về cẩu thả: HS tiểu học là có tính ẩu làm rồi chẳng xem lại bài đôi lúc làm sai do
tính khơng cẩn thận khi làm bài tập. Nếu HS cứ như vậy hồi thì GV nhắc nhở hoặc
trừ điểm HS.


5. Việc GV phát hiện HS yếu kém hoặc không hiểu về những kiến thức nào thì GV
cần phải có phương pháp, hình thức sao cho việc dạy học đạt hiệu quả như việc
tính tốn HS khơng biết cách đổi m3<sub>, dm</sub>3<sub>… thì Gv cần giải thích cách đổi, trực</sub>


tiếp hướng dẫn, chẳng hạn như giải toán có lời văn HS khơng tìm ra cách giải thì
GV phải hướng dẫn từ từ. Đầu tiên là cho HS đọc đề va yêu cầu HS xác định đề là
đề bài đã cho ta cái gì? u cầu tính gì? Mà cái ta cần tính đã có chưa?, nếu chưa có
thì ta đi tìm và tiến hành tính, hướng dẫn từng bước cho HS hiểu chớ không thiên
về giải để Hs tự phát hiện và tìm cách lí luận cho bài giải của mình. Từ đó sẽ hình
thành thói quen tự tìm hiểu đề, xác định đề của HS và tự mình giải đề tốn.


Qua đợt thực tập sư phạm 1 tại trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên tôi
đã thực sự học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu từ các thầy cô đi trước về
công tác giáo dục, quản lí học sinh. Đặc biệt qua việc tiến hành nghiên cứu đề tài
tôi đã được thực trạng học tập của các em. Mặc dù chỉ nghiên cứu trong phạm vi 3
mơn tốn – văn – anh của học sinh lớp giảng dạy nhưng tôi đã thấy được cái nhìn
thực tế về hứng thú học tập của các em. Từ đó tìm hiểu ngun nhân và đề xuất
những biện pháp nâng cao hứng thú học tập cho các em. Song điều quan trọng và ý
nghĩa hơn cả là qua dịp này tôi càng hiểu và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của
ng giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Để hồn thành được trách nhiệm của
mình, người giáo viên khơng chỉ cần có năng lực sư phạm, kiến thức phong phú,
sâu sắc mà đòi hỏi phải có tình thương, lịng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết
với nghề nghiệp. Đặc biệt phải cho các em thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng


của học tập từ đó có các hình thức và biện pháp giúp các em đạt kết quả học tập tốt
hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


[1] Báo cáo về công tác chủ nhiệm trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
[2] Báo cáo của ban giám hiệu trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.


[3] Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm ( Khoa tâm lý giáo dục –
ĐHSP Thái Nguyên)


[4] Giáo trình giáo dục học phần II (Khoa tâm lý giáo dục – ĐHSP Thái Nguyên)
[5] Học bạ học sinh lớp 6A2


[6] Sổ chủ nhiệm lớp 6A2


Giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy mơn tốn: Cơ Nhâm Thị Chung
[7] Sổ điểm lớp 6A2


</div>

<!--links-->

×