LỜI NÓI ĐẦU
Nhân loại đã bước sang thế kỉ XXI – thế kỉ của khoa học kĩ thuật, của sự tiến
bộ và phát triển. Đất nước VN cũng đang chuyển mình ngày càng mạnh mẽ để hòa
nhập với sự phát triển của thế giới. Thời đại mới đang tạo cho chúng ta cơ hội
nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Để phát huy sức mạnh
truyền thống và tiềm năng của đất nước, con người VN, để VN tiến nhanh tiến
mạnh trên con đường phát triển xã hội, việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ có trí
thức, có năng lực, lý tưởng trở thành nhiệm vụ cấp thiết của xã hội. Nhận thức
được yêu cầu đó, Đảng ta rất coi trọng công tác giáo dục, coi “ giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân”. Chính vì vậy,
việc tìm hiểu, năm bắt công tác giáo dục ở các trường phô thông là việc làm thường
xuyên và cần thiết, nhất là đối với người giáo viên – những ng trực tiếp tham gia và
góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Xuất phát từ yêu cầu đó, hằng năm trường ĐHSP Thái Nguyên tổ chức cho
sinh viên năm thứ 3 đi kiến tập sư phạm để bước đầu vạn dụng kiến thức lý thuyết
giáo dục vào thực tế, học hỏi những ng đi trước để tích lũy kinh nghiệm về công
tác giáo dục cho bản thân. Vì thế, khi nhận được nhiệm vụ tại trường THCS Túc
Duyên, tập thể Toán – Tin K43 chúng tôi mặc dù chỉ trong thời gian 3 tuần ngắn
ngủi đã nghiêm túc và tích cực học hỏi với tinh thần trách nhiệm cao. Qua đó, bản
thân tôi đã không những thu được những kinh nghiệm thực tế quý báu mà còn được
thực hành phương pháp nghiên cứu khoa học về TLGD khi thực hiện đề tài: “ Tạo
hứng thú học tập môn toán cho học sinh lớp 6A2 trường THCS Túc
Duyên,Thái Nguyên”.
Đề tài được hoàn thành với sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của thầy Trần Văn
Sơn – Giảng viên khoa tâm lý giáo dục trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên và sự
giúp đỡ nhiệt tình của cô Nhâm Thị Chung giáo viên giảng dạy môn toán lớp 6A2
cùng toàn thể các em học sinh trong lớp 6A2.
1
Xuất phát từ hoạt động học tập thực tế của trường nói chung và của lớp 6A2
nói riêng tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này. Mặc dù việc nghiên cứu đã
hoàn thành nhưng đây là bài viết đầu tay và với vốn kinh nghiệm ít ỏi nên không
tránh khỏi những thiếu sót tôi mong được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo cùng
toàn thể bạn đọc để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, 3/12/2010.
2
PHẦN THỨ NHẤT
Những Vấn Đề Chung
I. Lý do chọn đề tài.
Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng khá
phức tạp, như L. X. Vưgôtxki đã khẳng định: “Đối với việc nghiên cứu hầu như
không có vấn đề nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con
người" [113, tr. 110]. Chính vì thế, lâu nay lĩnh vực hứng thú đã được nhiều nhà
khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, song vẫn còn nhiều vấn đề cần tìm tòi.
Hứng thú là một trong những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách, nó có
vai trò rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức
nói riêng. Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát
vọng hành động và hành động một cách say mê, sáng tạo, làm tăng sức làm
việc, ở mỗi người. Trong họat động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi
thúc HS nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn. Khi có hứng thú học
một môn nào đó, HS sẽ tập trung chú ý vào đối tượng nhận thức, nhờ đó quan sát
của các em trở nên nhạy bén và chính xác, chú ý trở nên bền vững, việc ghi nhớ dễ
dàng và sâu hơn, quá trình tư duy sẽ tích cực hơn, sự tưởng tượng sẽ phong phú
hơn Các em sẽ tự giác, sáng tạo, say sưa, không biết mệt mỏi trong quá trình lĩnh
hội, và sự vận dụng những điều lĩnh hội được vào giải các bài tập sẽ linh hoạt, sáng
tạo hơn, nhờ đó kết quả học tập của họ sẽ ngày càng nâng cao, năng lực của HS
từng bước được hình thành, phát triển một cách tích cực. Điều này đã được đại văn
hào Macxim Goocki khái quát: “Tài năng, nói cho cùng là tình yêu đối với công
việc”.
Trong trường phổ thông nói chung, trường trung học cơ sở nói riêng, Môn
Toán là môn học đầy thú vị và rất hay nếu chúng ta biết tận dụng, biết phương pháp
học sẽ rất dễ và giúp ích cho học sinh (hs) và rất cần thiết trong cuộc sống. Thật
vậy, do tính chất trừu tượng, khái quát cao, sự suy luận lôgic chặt chẽ, toán học có
3
khả năng hình thành ở người học óc trừu tượng, năng lực tư duy lôgic chính xác.
Việc tìm kiếm cách chứng minh một định lý, tìm lời giải hay cho một bài toán có
tác dụng trong việc rèn luyện cho HS các phương pháp tư duy khoa học trong học
tập, trong việc giải quyết các vấn đề, biết cách quan sát, phân tích, tổng hợp, so
sánh, dự đoán, suy luận, chứng minh qua đó rèn luyện cho HS trí thông minh sáng
tạo. Không những thế, môn Toán còn góp phần tích cực vào việc giáo dục cho các
em những phẩm chất đáng quí trong học tập, lao động và cuộc sống, như: tính kỷ
luật, tính kiên trì, tính chính xác, biết cảm thụ cái đẹp trong những ứng dụng phong
phú của toán học, tìm ra cái đẹp của những lời giải hay, Khi nhận ra điều này, HS
ngày càng yêu thích, say mê môn Toán hơn, tích cực học tập, ứng dụng nó, từ đó
mà chất lượng học toán ngày càng cao hơn. Ngược lại môn Toán làm cho hs sợ trở
nên chán ngán, lo sợ, thiếu tự tin gây ức chế trong giờ học Toán và càng ngày khó
học các môn học khác. Trong chương trính toán lớp 6, tuy mức độ hơi khó nhưng
kiến thức kỹ năng có tính cơ bản mở đầu, nếu hs học kém Toán sẽ hạn chế trong
năm học tiếp theo. Cho nên đối với cấp học, bậc học hay môn học nào cũng có mặt
mạnh, yếu của nó và điều có hs khá giỏi, trung bình yếu, kém nhưng với hs khá
giỏi thì các em tiếp thu được vốn tri thức được nhanh hơn so với hs yếu kém. Vì
vậy trong môn Toán việc hs giỏi hay khá còn phụ thuộc rất nhiều vào cách truyền
đạt kiến thức và hứng thú của học sinh với môn học, khả năng tiếp nhận kiến thức
của mỗi học sinh hay do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Vì vậy hứng thú càng trở nên quan trọng trong việc học tập môn Toán ở
trường THCS. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán HS mới
thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp
khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của toán
học đối với đời sống và các ngành khoa học khác.
Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Toán của HS ở nhiều trường
THCS nhìn chung vẫn còn bị hạn chế, không ít em sợ toán, coi việc học toán là một
4
công việc nặng nhọc, căng thẳng, Nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do
các em chưa thật sự nhận biết tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học toán, chưa
được kích thích hành động tích cực, sáng tạo trong quá trình giải toán ; cũng có
thể do nội dung môn Toán khô khan, phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp
dẫn,
Mặt khác, trên thực tế những nghiên cứu hình thành hứng thú học toán cho HS
THCS ở Việt Nam còn chưa được nghiên cứu mang tính hệ thống.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Tạo hứng thú học tập môn toán cho học sinh lớp
6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên”.
II. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo sinh thực tập trong quá trình kiến tập sư phạm mục đích nghiên
cứu của tôi là bước đầu tìm hiểu hứng thú học tập môn toán của học sinh lớp 6A2
trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
Đối với học sinh lớp 6 là đối tượng đang chuẩn bị cho mình hướng đi tương
lai. Tôi hiểu nhờ đâu mà các em có hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp, gián tiếp đến hứng thú học tập. Bước đầu biết cách làm một đề tài nghiên cứu
khoa học và vận dụng tâm lý học, giáo dục học vào thực tế từ đó tìm ra cách tổ
chức công tác chủ nhiệm và xây dựng cho mình phương pháp giảng dạy thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục.
III. Đối tượng và khách thể điều tra
- Đối tượng nghiên cứu: thực trạng hứng thú học tập môn toán của học sinh
lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
- Khách thể nghiên cứu: chính gồm 39 HS trong đó có 20 HS nam và 19 HS nữ
của lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
Khách thể nghiên cứu bổ trợ là 30 GV gồm các GV trực tiếp dạy những HS
được nghiên cứu và các GV dạy các bộ môn ở các khối lớp 7, 8, 9.
Trưng cầu ý kiến 64 CMHS. Một số khách thể phỏng vấn sâu: 25 HS, 30
5
CMHS, 15 GV,
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: Hứng thú, hứng thú học tập, đặc điểm
hứng thú học môn Toán của HS nói chung, hứng thú học môn Toán của HS lớp
6A2 nói riêng; các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển hứng thú của
HS THCS.
Điều tra, phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng hứng thú học
môn Toán của HS ở một số trường THCS; xác định những đặc điểm của hứng thú
học môn Toán ở HS THCS.
Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp tâm lý sư phạm nhằm nâng cao
hứng thú học môn Toán cho HS.
Đề xuất kiến nghị sư phạm nhằm phát triển hứng thú học môn Toán của HS
THCS.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu một vấn đề có rất nhiều phương pháp tuy nhiên việc thực hiện các
phương pháp còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan. Do điều kiện
hạn chế nên tôi không vận dụng được tất cả các phương pháp trong quá trình
nghiện cứu. Tôi đã vận dụng chủ yếu các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát: phương pháp này được sử dụng trong các giờ học các
giờ truy bài để nhận xét thái độ, ý thức học tập của học sinh.
- Phương pháp điều tra: phương pháp này được sử dụng dưới các hình thức
như phát phiếu điều tra, thu thập số liệu để nắm được hứng thú của học
sinh với môn học.
- Phương pháp toán học: đây là phương pháo được áp dụng trong khi thống kê,
xử lí số liệu thu thập được. Trên cơ sở đánh giá, phân loại học sinh.
- Phương pháo đàm thoại: tiếp xúc, trò chuyện trực tiếp với học sinh và giáo
viên bộ môn, từ đó nắm được tình hình chung của lớp và chất lượng học tập
6
của học sinh.
- Ngoài ra đề tài còn được thực hiện nhờ việc đọc, phân tích các tài liệu có liên
quan.
VI. Phạm vi và giới hạn của đề tài
- Về khách thể nghiên cứu: Do điều kiện hạn chế nên không thể nghiên cứu
HS THCS từ lớp 6 đến lớp 9, chúng tôi chỉ chọn nghiên cứu được HS lớp 6A2 lớp
đặc trưng của trường THCS Túc Duyên.
- Về đối tượng nghiên cứu:
+ Nghiên cứu một số đặc điểm hứng thú học môn Toán của HS lớp 6A2.
+ Biện pháp tâm lý sư phạm: chủ yếu áp dụng một số tác động tâm lý thông
qua phương pháp dạy học của GV nhằm tăng tính chủ động, tìm tòi, sáng tạo và tạo
lập bầu không khí tâm lý HS tích cực trong quá trình học tập để nâng cao hứng thú
học môn Toán.
- Địa bàn nghiên cứu:
Chỉ triển khai nghiên cứu tại lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái
Nguyên.
7
PHẦN THỨ HAI
Nội dung và các kết quả nghiên cứu
I. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hứng thú là vấn đề hấp dẫn và phức tạp cho việc nghiên cứu. Vì thế đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú có giá trị trên thế giới, đặc biệt là của các
nhà tâm lý học nổi tiếng. Từ những công trình nghiên cứu có giá trị ấy có thể khái
quát lịch sử nghiên cứu theo các xu hướng sau:
+ Xu hướng thứ I: Giải thích bản chất tâm lý của hứng thú:
Đại diện cho xu hướng này là A.F.Bêliep. Năm 1944 tác giả tiến hành thành
công luận án tiến sĩ “Tâm lý học hứng thú” nội dung cơ bản của luận án là
những vấn đề lý luận tổng quát về hứng thú trong tâm lý học.
+ Xu hướng thứ II: Xem xét hứng thú trong mối quan hệ với sự phát triển nhân
cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân nói riêng.
Đại diện cho xu hướng này là L.LBôgiôvích “Hứng thú trong quan hệ hình
thành nhân cách”, Lukin, Lêvitôp nghiên cứu “Hứng thú trong quan hệ với năng
lực”. L.P.Bơlagôna Dejina, L.X.Xlavi, B.N.Mione lại xem xét hứng thứ trong
mối quan hệ với hoạt động” các tác giả này đã coi hứng thú là động cơ có ý
nghĩa của hoạt động. Trong xu hướng này còn có nhiều nhà nghiên cứu khác
như: L.X.Rubinstêin, A.V.Daparôzét, M.I.Bôliép, L.A.Gôđôn
+ Xu hướng thứ III: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển hứng thú theo các
giai đoạn lứa tuổi: Đại diện là G.ISukina “Nghiên cứu hứng thú trẻ em ở các lứa
tuổi”. D.P.Xalônhisư nghiên cứu sự phát triển hứng thú nhận thức của trẻ mẫu
giáo. V.G Ivanôp đã phân tích sự phát triển và giáo dục hứng thú của học sinh
lớn trong trường trung học. V.N. Marôsôva nghiên cứu “Sự hình thành hứng thú
trẻ em trong điều kiện bình thường và trong điều kiện không bình
thường”(1957). Những công trình nghiên cứu này đã phân tích đặc điểm hứng
thú của từng lứa tuổi, những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong các
8
giai đoạn phát triển lứa tuổi của trẻ.
Đề tài này đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu, tôi cũng nhận
thấy đề tài này rất hay và lý thú nhưng trong giới hạn của đề tài nên tôi chỉ nghiên
cứu một mặt mới đó là nghiên cứu thực trạng hứng thú học tập môn toán của học
sinh lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên nói riêng, từ đó có một số
nhận định về hứng thú học tập môn toán của học sinh THCS nói chung.
II. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Lịch sử đã chứng minh có rất nhiều con đường để tiếp thu và nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo như bằng lao động sản xuất, bằng các hoạt động xã hội, bằng hoạt
động dạy học. Trong các con đường đó thì con đường dạy học là con đường ngắn
nhất, thuận lợi nhất giúp người học có thể nắm vững khối lượng kiến thức nhiều
nhất trong một thời gian ngắn nhất. Hiện nay dạy học rrat được coi trọng, được
Đảng và nhà nước ta quan tâm. Mục đích của dạy học là đào tạo những con người
độc lập có năng lực, trí tuệ, có bản lĩnh để đưa đất nước theo kịp với sự phát triển
của khoa học, công nghệ, theo kịp với các quốc gia trên thế giới. Để đạt được mục
đích này chúng ta cần phải có chất lượng giáo dục cao. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Một trong những yếu tố đó thì hứng
thú học tập đóng vai trò quan trọng tạo nên chất lượng học tập. Chính vì vậy việc
tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh là điều kiện cần thiết và tất yếu đối với mỗi
giáo viên, giúp ng giáo viên có hướng giảng dạy và giáo dục thích hợp, không tạo
cho học sinh sự gò ép trong họ tập, tạo điều kiện cho các em lĩnh hội tri thức có
hiệu quả cao nhất,. Trong quá trình đó người giáo viên phải tích lũy cho mình kinh
nghiệm, tri thức, tự rèn luyện hoàn thiện mình đáp ứng nhu cầu nhận thức ngày
càng cao của học sinh. Dạy học là một trong những con đường đặc trưng và cơ bản
nhất của nhà trường để thực hiện mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Dạy học là sự thống nhất biện chứng giữa hai quá trình hoạt
9
động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Trong đó người thầy là người được xã
hội giao cho nhiệm vụ giáo dục cho thanh thiếu niên, giáo dục con người. Học sinh
tiếp thu tri thức, giá trị văn hóa của loài người đồng thời vận dụng những tri thức
đó vào cuộc sống nhằm tái tạo và phát triển di sản văn hóa làm cho kho tàng tri
thức của nhân loại ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Trong mối quan hệ giữa
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò thì mọi hoạt động tổ chức của ng
thầy đều nhằm vào thúc đẩy sự nhận thức của học sinh. Bằng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình ng thầy cần tạo cho học sinh có sự say mê trong học tập. Người
học với nhu cầu nhận thức của mình mà tạo cho mình hứng thú học tập. Hứng thú
là thái độ đặc biệt của cá nhân với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc
sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
Hứng thú học tập là thái độ thích học hay không thích học ở mỗi em học sinh, là sự
say mê hấp dẫn, sự tập trung chú ý cao độ của các em trong học tập.
+ Hứng thú học tập của học sinh phụ thuộc vào điều kiện khách quan và điều kiện
chủ quan.
+ Điều kiện khách quan đó là điều kiện, hoàn cảnh tác động đến học sinh tạo cho
các em tập trung chú ý học tập như: do thầy dạy tốt, do có điều kiện học tập tốt, do
cha mẹ quan tâm
+ Điều kiện chủ quan đó là bản thân mỗi em học sinh thích, say mê học các môn
học.
+ Do muôn tạo cho học sinh có hứng thú học, người thầy phải có phương pháp
giảng dạy, cách truyền đạt trí thức thế nào để tạo cho học sinh cảm giác thích học,
say mê với môn học và chính bản thân mỗi em học sinh cần tự tạo cho mình hứng
thú học tập.
Hứng thú học tập của học sinh còn bị ảnh hưởng của vốn kiến thức phong phú, sâu
rộng của thầy và năng lực tiếp thu của trò, thầy dạy có giỏi, học sinh tiếp thu bài
nhanh, sáng tạo thì trở thành động lực thúc đẩy các em say mê học tập.
10
+ Hứng thú học tập được biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp
dẫn bởi nội dung bài học, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Do vậy sự tập trung
chú ý cao đọ cảu các em trong mỗi bài học có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, có
đặc điểm tâm lý khác nhau. Do đó việc khơi gợi hứng thú cho học sinh cũng khác
nhau.
+ Hứng thú có vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân làm tăng hiệu quả của quá
trình nhận thức vào đối tượng, khiến cho việc nhận thức sâu sắc và nhạy bén hơn.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, hành động sáng tạo, khi đó hứng thú
trở thành động lực, động cơ thúc đẩy lôi cuốn cá nhân hành động để thỏa mãn hứng
thú đó. Chính vì vậy nó giúp con người trong quá trình hành động, đem lại hiệu quả
cao. Hứng thú làm tăng cường sức làm việc, khi làm việc tạo cho cá nhân có sức
chịu đựng khó khăn làm việc rất dẻo dai.
+ Học sinh có hứng thú học tập, các em nảy sinh khát vọng học tập. Khi đó nó thúc
đẩy, lôi cuốn các em tập trung chú ý, say mê học tập nghiên cứu, các em tiếp thu
bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, do đó chất lượng học tập của các em cao hơn.
+ Ý nghĩa của việc tìm hiểu hứng thú học tập của học sinh thông qua sự tập trung
chú ý cao độ của các em trong học tập giúp chúng ta biết được thái độ của các em
đối với môn học, từ đó phần nào ta có thể biết được kết quả học tập của các em,
nếu các em thích học môn nào đó, các em có sự say mê nghiên cứu nó thì chắc
chắn các em sẽ đạt kết quả cao, ngược lại nếu các em phải học với sự gò ép thì kết
quả không cao, giúp người giáo viên tự điều chỉnh mình, rút kinh nghiệm trong
phương pháp giảng dạy. Đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đó là nâng cao chất lượng
học tập và giáo dục ở trường THCS.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
1. Cơ sở thực tiễn
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh trong trường
THCS. Nhưng vì thời gian có hạn ( chỉ có 3 tuần) nên tôi chỉ đủ khả năng tìm hiểu
11
về hứng thú học tập môn toán của các em học sinh lớp 6A2 trường THCS Túc
Duyên,Thái Nguyên. Lớp 6A2 là một lớp gồm 39 học sinh trong đó có 20 nam, 19
nữ. Đa số các em ngoan ngoãn lễ phép, có nề nếp, có năng lực quản lý lớp. Các
thành viên trong lớp hăng say học tập. Trong thời gian 3 tuần tôi đã thực hiện tìm
hiểu hứng thú học tập của các em lớp 6A2 bằng cách:
- Tham dự giờ học và trò chuyện với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn và
các em học sinh lớp 6A2.
- Lập phiếu điều tra hứng thú học tập và phát phiếu cho 39/39 học sinh.
- Lấy số liệu kết quả học tập của 3 môn: Toán, Anh, Văn để so sánh.
Từ đó tôi có thể tìm hiểu được hứng thú học tập môn toán của các em và tìm ra
những nguyên nhân, biện pháp nhằm tạo ra hứng thú học tập cho các em.
2. Tinh thần thái độ
Đa số các em có tinh thần học tập hăng hái, thái độ say mê hào hứng đối với môn
toán.
3. Kết quả công tác điều tra
Ngày đầu tiên vào truờng thì số lượng HS giỏi, và HS kém toán là bao nhiêu
nên tôi không biết, em hỏi, họ ngại, nên nói có vẻ như ngượng ,nói như vậy sợ sẽ
đánh giá của lớp cô dạy như thế nào mới như vậy. Vì vậy qua quá trình thực tập
dạy học và chủ nhiệm em tự mình điều tra hỏi HS kết quả học tập của từng em như
thế nào, qua tìm hiểu em thấy đa số lớp nào cũng có từ 3 đến 4 em, số lượng không
nhiều nhưng nó ảnh hưởng đến kết quả của cả lớp. Cho nên GV cần phải quan tâm
nhiều đến HS và cả gia đình. Trong quá trình dạy và chủ nhiệm thì em phát hiện
trong lớp có em học kém toán như: Đức Thắng, Vĩnh Phú, Ngọc Yến, Vân Anh các
em đều có chung một điểm là: Đối với môn toán các em học rất thuộc các quy tắc,
đọc lưu loát, nhưng khi hỏi công thức thì các em không nói được, hoặc không nhớ,
nên rất khó vận dụng vào việc giải toán. GV hướng dẫn cho em kèm HS yếu trong
tuần, ngày nào em cũng phải kiểm tra bài và cả lý thuyết, lí thuyết thì các em học
12
thuộc,còn em ra đề cho HS làm bài tâp thì các em không làm, hoặc nói là quên,
mất, làm sai, em hướng dẫn sửa bài thì các em vẫn chú ý lắng nghe, nhưng khi cho
các em sửa bài tập lại thì làm cũng không được,các em chỉ học máy móc điều quan
trọng là không tự mình suy nghĩ, đợi chờ chép bài của bạn là xong, lúc nào cũng
vậy, các em đều không tự làm, mặc dù em đã nhiều lần nhắc nhở. Trong lúc dạy tiết
học tôi được dạy 1 tiết, còn bạn tôi được dạy 2 tiết toán, lúc dạy chúng tôi luôn cố
gắng truyền tải đầy đủ hết nội dung của bài hướng dẫn làm bài tập một cách tận
tình để các em yếu có thể theo kịp và làm được đúng các bài tập, trong lúc học
dưới sự hướng dẫn của GV thì HS đều có thể hiểu bài, nhưng khi các em làm vào
vở bài tập, thì các em lại găp khó khăn về cách đổi các đơn vị đo thời gian như
ngày đổi ra tháng năm … và đổi ngược lại vì các em chưa thật sự hiểu sâu, chỉ có
nhưng em học giỏi toán thì tiếp thu kiến thức thật nhanh còn HS kém thì càng gặp
khó khăn nhiều, tình trạng này luôn diễn ra trong lớp học hằng ngày, mặc dù GV
chủ nhiệm đã cố gắng hướng dẫn, nhưng việc học yếu toán của Hs do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Vì vậy GV cần phải tìm hiểu và xem xét các nguyên nhân ảnh
hưởng đến HS rồi từ đó có thể đề ra các biện pháp thích hợp để giúp đỡ HS. Việc
HS học kém toán ở trường THCS nói chung và lớp 6A2 luôn có, số lượng HS nhiều
hay ít là do mỗi trường,mỗi lớp có biện pháp giúp đỡ tốt hay không? Và HS yếu
kém ở mỗi môn học là tất yếu, có lúc HS này không thích học nên việc học được
tốt môn toán là rất hạn chế vì đặc trưng của môn toán là suy luận, tư duy và khái
quát cao nên các em cần phải tự phát hiện, tìm tòi rất khó với HS, nhưng nói như
vậy không phải là khó hoàn toàn nếu ta biết cách học sẽ học tốt, nó có nhiều ứng
dụng trong cuộc sống. Qua việc tìm hiểu ý kiến của HS thì có rất nhiều HS không
thích học toán, HS ngại và sợ tính toán, mặc dù các em đều đạt điểm 9,10 nhưng
câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao không thích học toán mà đạt điểm cao, một câu hỏi
khó mà trả lời được, với những lí do đó tôi tự mình tìm hiểu, thật ra là qua việc tiếp
xúc và trò chuyện thì các em nói rằng: “ Môn Toán thật lòng các em không thích,
13
em thích Tiếng Việt, Nhạc, Mĩ thuật… học toán phải tính, suy nghĩ mệt mà có lúc
không hiểu gì…” rất nhiều ý kiến nhưng vấn đề ở đây không biết có phải là cách tổ
chức dạy học của GV không sinh động, hấp dẫn thu hút HS không tạo được hứng
thú trong học tập, nên các em không quan tâm tới, cứ học từ từ, không cần phải
quan tâm đến kết quả có đúng không khi làm sai, khi gọi các em giải thích tại sao
làm như vậy thì HS không giải thích được mà chỉ im lặng. Điều đó cho thấy các
em học mà không hiểu, chứng tỏ là chép bài của bạn nên không lí giải được, nên
không biết đúng hay sai chỗ nào, chỉ đối phó với GV. Vấn đề ở đây nó thể hiện hai
mặt, một mặt việc học kém toán xuất pháp từ phía HS học mà không cố gắng cũng
như không chịu tự khám phá, tìm tòi trong lúc học tập hoặc do ý thức học tập của
các em chưa cao, xác định động cơ chưa đúng…. Hay bắt nguồn từ phía gia đình,
hoặc GV chưa có phương pháp hay hình thức học tập chưa lôi cuốn HS, chưa tạo
điều kiện cho các em thể hiện năng lực của mình, nên hạn chế khả năng sáng tạo
của HS, việc dạy và hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức là khó khăn đòi hỏi GV phải
tận tình giúp đở mới đạt được kết quả như mong muốn. Thực tế cho thấy qua việc
em được dự thao giảng 1 tiết toán do cô Nhâm Thị Chung ở lớp 6A2: “Thứ tự trong
tập hợp số nguyên” tiết dạy cũng tốt nhưng còn nhiều vấn đề ở đây là trong việc
hình thành các kiến thức mới thì qua việc HS được học rồi các giá trị tuyệt đối thì
GV cần dùng những câu hỏi là HS có thể làm được, nhưng GV vẫn hướng dẫn còn
HS chăm chú lắng nghe không cần phải động não vì khi hỏi HS, HS trả lời không
đúng ý định, rồi sửa chữa rất mất nhiều thời gian, hướng dẫn xong việc hình thành
kiến thức rồi qua phần bài tập thì bài đầu tiên tất nhiên GV phải hướng dẫn, đối với
bài tập 9 GV nên cho nhắc lại cách so sánh các số, sau đó cho HS làm bài trong 2
phút rồi cho HS lên bảng làm, ở đây GV cho 2 HS lên bảng làm luôn, phải tính
toán rất lâu, rồi sửa bài mất nhiều thời gian, rồi tiếp tục làm câu b) tương tự như bài
a) GV cho HS đọc lại. Qua bài tập 10 không làm.
14
- Qua 3 tuần thực tập và được dạy 1 tiết toán thì tôi thấy tình hình học Toán của hs
lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên là tốt và số lượng hs giỏi là chiếm
phần đông, và trường cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và nề nếp học
tập cũng rất tốt, nhưng trong khi điều tra xin ý kiến những em hs trong lớp thì có
một điều rất lạ là hs học toán trong lớp đều được điểm 9,10 mà lại không thích học
toán ,cũng không biết học môn Toán dễ hay khó nữa và các em đều cho là không
biết, câu hỏi đặt ra tại sao lại như vậy? Phần dông hs học được toán có thể là các
em được học thêm hay trên lớp được GV hướng dẫn hết hs không cần phải suy
nghỉ cũng như xác định đề yêu cầu làm gì, hỏi gì, chỉ ghi lại kết quả mà không cần
suy luận, mà khi ghi kết quả lại hs cũng ghi sai nữa. Vì vậy trong lúc thực tập dạy
học thì đa số hs thích học môn Tiếng Việt, Mĩ Thuật, Âm Nhạc,…các em không
thích học toán, nhưng chất lượng học vẫn cao. Đây không phải là chất lượng thực
sự. Trong giáo dục ngành học hay môn học nào cũng có hs giỏi, khá và yếu, nếu
trong việc dạy học mà ta chấp nhận lấy chất lượng học tập của hs thật sự thì việc
dạy và học có thể nâng cao, nhưng thực tế thì cho thấy trong tất cả các lớp sự yếu
kém của hs có lẽ GV còn e ngại, cố dấu đi sự yếu kém của hs trước sự thăm dò của
sinh viên (SV) và cho đó là một số hs học vẫn tốt nhưng điểm vẫn trên 5, thật sự hs
là không hiểu bài nên không vận dụng vào làm bài tập được, sự tiếp thu của hs rất
yếu nên các em chỉ việc chép bài là xong, đối phó với GV chớ không khi nào tự
giác làm bài. Như thế làm hạn chế sự phát triển của hs, nếu như GV chúng ta cho
hs thuộc dạng yếu kém toán mà qua đó tìm hiểu nguyên nhân, các biện pháp để
giúp đỡ hs học toán như vậy mới tốt……………
Để tìm hiểu cụ thể về hứng thú học tập của các em học sinh lớp 6A2 tôi đã
lập phiếu điều tra hứng thú học tập môn toán. Trong phiếu tôi đặt ra một số câu hỏi
như: em hãy cho biết thái độ của em đối với môn toán như thế nào? Em nhận thức
thế nào về vai trò của môn toán trong chương trình học tập của nhà trường? Em
thích học môn toán vì lý do nào? Sau đó tôi phát phiếu điều tra cho 39/39 học
15
sinh lớp 6A2 trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên. Kết quả thu được như bảng
sau:
Bảng 1: bảng mức độ hứng thú học tập môn toán
Rất thích Thích Bình thường Không thích
Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ
Bảng 2: Bảng mức độ hứng thú học tập của các em ở các môn toán, văn và anh
Môn học Mức độ hứng thú
Rất thích Thích Bình thường Không thích
Toán
Anh
Văn
Bảng 3: Kết quả học tập ba môn văn, toán , anh của học sinh tính theo %
Môn
học
Toán Văn học Ngoại ngữ
Xếp
loại
Giỏi Khá TB Yếu Giỏi Khá Tb Yếu Giỏi Khá TB Yếu
Nam
Nữ
Tổng
3. Phân tích kết quả điều tra
Qua việc phát phiếu điều tra hứng thú học tập môn toán tôi thấy đa số học sinh
thích học môn toán trong đó số học sinh nam nhiều hơn học sinh nữ. Tôi nói
chuyện với một số học sinh nam có điểm tổng kết cao được các em trả lời:“ chúng
em thích học toán vì nó gắn liền với thực tế và là môn chúng em phải thi sau này.
Cô giáo giảng bài rất dễ hiểu“. Em Đỗ Văn Hải nói “ em thích học cả 3 môn toán,
16
văn, ngoại ngữ vì phương pháp giảng dạy của các thầy cô lôi cuốn em với những
điều mới. Trong mỗi tiết học cô hay gợi cho chúng em sự thích thú. Còn đối với
môn toán là một trong những môn học em dự định thi đại học.
Nhìn vào bảng 1 ta thấy phần lớn các em học sinh đều có hứng thú học môn
toán. Ở môn toán các em chuẩn bị bài rất tốt trước khi đến lớp. Nhiều em tích cực
tham gia phát biểu ý kiến như: Cao Phương Anh, Vũ Đình Biển, Đỗ Văn Hải, Đinh
Hồng Tuyên, Bùi Quốc Khánh
Ở bảng 3 ta thấy xét chung các em đều đạt kết quả khá cao ở cả 3 môn toán –
ngoại ngữ - văn số học sinh đạt tỉ lệ yếu kém là rất ít, số học sinh đạt loại giỏi
chiếm tỉ lệ tương đối 8.8%.
Tất nhiên kết quả cụ thể của 3 môn vẫn có sự chênh lệch tuy nhiên là không
lớn.
Môn Văn là môn có số học sinh xếp loại giỏi nhiều nhất: 4 em chiếm 7%,
môn toán có 2 em chiếm 3.5%, và môn ngoại ngữ không có em nào.
Môn toán và môn ngoại ngữ là môn có số học sinh xếp học lực khá nhiều
nhất: môn toán có 35 em chiếm 61.4%, môn văn có 39 em chiếm 68.4%, môn anh
văn ít nhất chỉ có 20 em chiếm 35.1%.
17
PHẦN THỨ BA
Kết luận và nhận xét
1. Kết luận
Các em đã có hứng thú học tập và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng
nhiều em chưa chú trọng vào học tập môn toán và kết quả học tập chưa cao.
2. Nguyên nhân
- Đối với HS:
+ HS chưa nắm vững các kiến thức cơ bản trong môn Toán.
+ HS còn quá yếu chưa theo kịp bạn bè, trong môn Toán thiếu sự tích cực, chủ
động, sáng tạo cũng như sự linh hoạt, không có sự tìm tòi, tự giác giải quyết các
bài tập, phần lớn là chờ vào sự hướng dẫn hay giải của GV.
+ Các em còn sợ học môn Toán vì phải tính toán rất nhiều số, các em chưa thích
học Toán vì nó phức tạp và suy luân hơi cao.
+ Do tâm lý sợ, thiếu tự tin, lười học, cẩu thả, chán ngán e sợ khi học Toán.
+ Các em còn chưa biết cách học, tự tập luyện, đa số là các em học thêm chứ chưa
tự nghiên cứu bài tập ở nhà.
+ Không có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng cơ bản yếu.
+ Các em còn e sợ, ngại bạn bè chê cười khi các em hỏi những thứ mà các em
không hiểu. Như vậy vấn đề không hiểu dẫn đến ngày càng các em bị mất căn bản
và rất nguy hiểm cho các lớp học tiếp theo.
+ Các em còn chủ quan, ham chơi chưa thật sự quan tâm đến việc học.
+ GV ra đề và dặn HS về nhà làm nhưng các em vẫn không làm.
+ Các em học mà không hiểu, khi nêu các quy tắc là ghi ra dược công thức, nhưng
các em đọc được lí thuyết mà ghi công thức không được.
+ HS chưa được sự quan tâm từ phía gia đình, gia dình không nhắc nhở HS trước
khi vào lớp là làm bài tập, nhưng qua kiểm tra thì ngày nào các em yếu kém điều
vẫn không làm bài tâp.
18
+ Chưa nắm vững kiến thức nên việc vân dụng vào tính toán, giải toán găp nhiều
khó khăn.
+ Vì những kiến thức chỉ được học một lần trên lớp nên HS khó mà nắm vững, gây
ảnh hưởng đến các kiến thức sau.
+ Các lớp dưới ,1,2,3,4 các em đã bị mất căn bản nên khó mà học tốt các lớp sau.
+ Do hoàn cảnh gia đình như: Gia dình không hạnh phúc, ly hôn…Làm cho các em
thiếu tự tin, chán ngán học hành, mà học toán dòi hỏi các em phải tư duy và suy
luận.
+ Các em còn có thái độ trong chờ vào GV, hay vào lớp mượn bài chép của bạn là
xong, không cần phải suy nghĩ.
+Không xác định đuợc mục đích của mình là học để làm gì để cần có sự cố gắng.
+ Kiến thức của các em chưa khắc sâu vì khí lên lớp các em hiểu bài,về nhà làm bài
tập thì làm không được quên cách đổi, giải toán.
+ Vì khi đã thực hiện truy bài đầu giờ hằng ngày, nhắc lại thường xuyến các quý
tắc, công thức, cũng như các cách tính của từng bài tập, nhưng do ý thức của từng
HS, một số HS hiểu bài thì làm bài tốt, một số HS đọc vẫn đọc nhưng khi làm bài
thì không được, sai rất nhiều mà sai chủ yếu là cách đổi đơn vị, cách tính tỉ số phần
trăm, giải toán về chu vi, thể tích…
+ Các em đọc đề nhầm hoặc không kỉ, dẫn đến kết quả sai.
+ Do hiện nay công nghệ thông tin phát triển, các em luôn bị lôi cuốn vào chúng
nên các em bị chi phối, thời gian học ít, chơi nhiều, dẫn đến kết quả yếu kém.
- Đối với GV:
+ Nội dung phương pháp chưa thật sự thu hút và lôi cuốn HS vào việc học toán.
+ Phương pháp học không thích hợp.
+ Không có phương tiện dạy học hay tổ chức ở trường chưa phù hợp với từng đối
tượng HS.
19
+ Thời gian không đảm bảo viễc truyền thụ và rèn kĩ năng cho HS.
+ GV ôm làm hết và HS chỉ biết chép là xong.
+ GV chưa chú ý đến HS yếu và chưa bao quát HS.
+ Cách thức hướng dẫn của GV chưa kỉ lắm, nặng về cách giải nên HS không cần
suy nghĩ, tìm tòi cách giải nên khó mà giải bằng năng lực thật sự của mình.
+ Chưa thật sự quan tâm sâu sát đến HS yếu.
+ Thời gian trên lớp quá ngắn nên không chú ý nhiều đến HS.
+ GV chứa phối hợp tốt đối với gia đình và nha trường tróng việc kèm và
hướngdẩn HS kém toán.
+ Dạy quá nhiều phân môn nến không có thời gian để hướng củng như ôn luyện
thường xuyên cho HS.
+ Chưa có biện pháp cụ thể đối với từng HS.
+ Chưa tạo ra nhiều tình huống học tập để giúp đở HS học tốt môn Toán hơn.
+ Chưa tác động kịp thời đến từng HS, để hạn chế khả năng học kém toán
3. Ý kiến đề xuất
Trên cơ sở các nguyên nhân thì có những đề xuất trên cơ sở lí luận như sau:
1. Đối với HS kém Toán cần bồi dưỡng thêm kiến thức một cách có hệ thống, GV
cần quan tâm hướng dẫn thật sát đối với HS, tạo điều kiện cho các em có động lực
học tập đúng đắn, khuyến khích các em cố gắng học hiểu và vận dụng các nguyên
tắc vào bài tập một cách hợp lí và chính xác. Không để cho HS học mà không hiểu
(cũng như học thuộc lòng mà không vận dụng). GV cần hướng dẫn cách tự học, lí
thuyết và cách học như sau:
+ Về cách học: Cần phân chia thời gian một cách hợp lý giữa các môn học, mỗi
ngày học 3 đến 4 tiếng, mỗi tiếng nghĩ 15 phút thư giãn, đối với các bài tập khó,
bài tập làm thêm, thì cố gắng làm, giải cho xong, không được ngại và sợ, tạo sự
lười biếng…Như vậy các em khó mà học tốt được, gia đình cần nhắc nhở và
khuyên nhủ các em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
20
+ Về cách học: Học phải hiểu chớ không học thuộc lòng, máy móc, chỉ hiểu trên
lớp còn về nhà thì đã quên mất, làm hạn chế suy nghĩ của HS, đọc đề mà không
hiểu, cũng như các em làm biếng suy nghĩ, nghĩ mà không hiểu, làm cho việc học
cứ thong thả, từ từ ai học thì cứ học, các em chỉ lo chơi , không tạo ra một cách học
tích cực, tự mình tìm hiểu các bài tập, tạo thói quen sợ, ngại, làm bài tập khó vì
theo ý nghĩ quá khó của các em nên các em không bao giờ vượt qua sự trở
ngại.Cho nên GV và gia đình nên cần động viên HS cố gắng hết sức mình trong
quá trình học tập của mình.
2. Thời gian lên lớp là quá ít, cần có thời gian học môn toán như: Dạy thêm,dạy
kèm HS yếu, tăng lượng bài tập cho HS, Đối với HS giỏi thì bồi dưỡng nâng cao,
cho thêm các bài tập khó hơn để đáng giá khả năng học tâp của HS. Từ đó sẽ có
biện pháp bồi dưỡng từng HS trong lớp, dối với HS yếu GV cần:
+ Hướng dẫn bài tập một cách cận kẽ
+ Ra các bài tập cho HS yếu kém giải để cải thiện việc học tập của các em.
+ Cần phối hợp với gia đình và nhà trường cho gia đình và nhà trường quan tâm
hơn đến việc học hành của các em, cũng như kèm và nhắc nhở làm bài tập, hướng
dẫn và chỉ bảo phát hiện kịp thời những kiến thức mà HS bị hỏng.
+ GV cần cho HS giỏi theo dõi hoặc kèm HS kém toán để các em có thể kiểm tra
lại mức độ kiến thức cũng như sự tiến bộ của HS, cần tạo đôi bạn thân thiện cùng
nhau học tâp để HS có sự tự tin trong việc học toán.
+ Lợi dụng 15 phút truy bài đầu giờ để kèm HS yếu, Gv chó bài tập lên bảng gọi
HS kém toán lên bảng làm bài, GV cần hướng dẫn tận tình nếu làm đúng thì tuyên
dương, làm sai thì động viên các em cố gắng lần sau.
+ Luôn động viên khuyến khích sự tiến bộ, cố gắng của HS cho dù là nhỏ nhất.
+ Tạo sự thân thiện giữa GV và HS để các em có động cơ học tập đúng đắn.
+ GV luôn theo dõi và quan tâm nhiều đến HS để từng bước uốn nắn, hỗ trợ kiến
thức cho các em để các em tự tin trước bạn.
21
+ GV cần tổ chức các hình thức đa dạng như học nhóm, bồi dưỡng nhau học tập để
HS yếu có thể hòa nhập và tâp thể, tạo sự phấn đấu vươn lên.
3. GV cần bồi dưỡng động cơ tạo hứng thú trong quá trình học toán, vì động cơ và
hứng thú là rất quan trọng tùy thuộc vào mỗi GV có cách thức và phương pháp
khác nhau, nhưng dạy để đạt hiệu quả là tạo ra động lực trong học tập, để các em
có thể tiếp nhận kiến thức một cách tốt hơn và hiểu bài nhanh hơn.
4. GV cần tìm hiểu các nguyên nhân vì sao mà HS lại học kém toán, có phải bắt
nguồn từ gia đình, hay ý thức của các em chưa đúng, lười biếng, cẩu thả…hay còn
nhiều nguyên nhân khác nữa. Tùy thuộc các nguyên nhân mà cần có biện pháp
thích hợp đối với từng HS rồi mới bồi dưỡng HS được.
+Vì những nguyên nhân do hoàn cảnh: GV cần tìm hiểu gia đình, trau đổi với gia
đình về việc học tập của con em, nếu như gia đình càng không để ý quan tâm thì
với tư cách là GV chủ nhiệm thì cần chú ý nhiều hơn nữa đối với HS yếu kém, vấn
đề gia đình có rất nhiều khía cạnh nhưng ở đây chỉ nêu lên một vấn đề nhỏ.
+ Vì chưa có ý thức học tập đúng đắn: Lứa tuổi các em còn lo ham chơi nhiều. Vì
vậy GV cần uốn nắn từ từ, đặt kỉ luật ngay từ đầu, dần dần sẽ tạo ra nề nếp học tập
tốt, trong lớp học thấy các bạn học giỏi nếu mình không cố gắng thì các bạn sẽ chê
cười, và thua về mặt thành tích.
+ Về lười biếng: Trị bệnh lười biếng bằng cách mỗi ngày giao 1 đến 2 bài tập cho
HS làm, GV nhớ kiểm tra và hướng dẫn cho HS, nếu Hs không hoàn thành thì sẽ
phạt, hoặc cho làm bài tập tăng gấp đôi, làm nhiều lần như vậy HS sẽ sợ mà phải
nghe theo lời của GV mà hoàn thành bài.
+ Về cẩu thả: HS tiểu học là có tính ẩu làm rồi chẳng xem lại bài đôi lúc làm sai do
tính không cẩn thận khi làm bài tập. Nếu HS cứ như vậy hoài thì GV nhắc nhở hoặc
trừ điểm HS.
5. Việc GV phát hiện HS yếu kém hoặc không hiểu về những kiến thức nào thì GV
cần phải có phương pháp, hình thức sao cho việc dạy học đạt hiệu quả như việc tính
22
toán HS không biết cách đổi m
3
, dm
3
… thì Gv cần giải thích cách đổi, trực tiếp
hướng dẫn, chẳng hạn như giải toán có lời văn HS không tìm ra cách giải thì GV
phải hướng dẫn từ từ. Đầu tiên là cho HS đọc đề va yêu cầu HS xác định đề là đề
bài đã cho ta cái gì? yêu cầu tính gì? Mà cái ta cần tính đã có chưa?, nếu chưa có
thì ta đi tìm và tiến hành tính, hướng dẫn từng bước cho HS hiểu chớ không thiên
về giải để Hs tự phát hiện và tìm cách lí luận cho bài giải của mình. Từ đó sẽ hình
thành thói quen tự tìm hiểu đề, xác định đề của HS và tự mình giải đề toán.
Qua đợt thực tập sư phạm 1 tại trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên tôi
đã thực sự học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu từ các thầy cô đi trước về
công tác giáo dục, quản lí học sinh. Đặc biệt qua việc tiến hành nghiên cứu đề tài
tôi đã được thực trạng học tập của các em. Mặc dù chỉ nghiên cứu trong phạm vi 3
môn toán – văn – anh của học sinh lớp giảng dạy nhưng tôi đã thấy được cái nhìn
thực tế về hứng thú học tập của các em. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất
những biện pháp nâng cao hứng thú học tập cho các em. Song điều quan trọng và ý
nghĩa hơn cả là qua dịp này tôi càng hiểu và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của
ng giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Để hoàn thành được trách nhiệm của
mình, người giáo viên không chỉ cần có năng lực sư phạm, kiến thức phong phú,
sâu sắc mà đòi hỏi phải có tình thương, lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết
với nghề nghiệp. Đặc biệt phải cho các em thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng
của học tập từ đó có các hình thức và biện pháp giúp các em đạt kết quả học tập tốt
hơn.
“ Một kĩ sư tồi có thể làm hỏng một công trình, một bác sĩ tồi có thể giết chết một
bệnh nhân nhưng một giáo viên tồi có thể hủy hoại cả một thế hệ”. Chính vì trách
nhiệm nặng nề và cao cả đó, người giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ
và hoàn thiện nhân cách bản thân. Bài học đó tôi càng ý thức được sâu sắc hơn khi
kết thúc đợt thực tập sư phạm 1 và hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Báo cáo về công tác chủ nhiệm trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
[2] Báo cáo của ban giám hiệu trường THCS Túc Duyên, Thái Nguyên.
[3] Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm ( Khoa tâm lý giáo dục –
ĐHSP Thái Nguyên)
[4] Giáo trình giáo dục học phần II (Khoa tâm lý giáo dục – ĐHSP Thái Nguyên)
[5] Học bạ học sinh lớp 6A2
[6] Sổ chủ nhiệm lớp 6A2
Giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy môn toán: Cô Nhâm Thị Chung
[7] Sổ điểm lớp 6A2
[8] www.tailieu.vn
24