Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

..

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Bành Quốc Tuấn
Sinh viên thực hiện

: Đào Thị Thương Huyền

MSSV: 1411270674

TP. Hồ Chí Minh, 2018

Lớp: 14DLK10


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP


CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
THEO LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Bành Quốc Tuấn
Sinh viên thực hiện

: Đào Thị Thương Huyền

MSSV: 1411270674

TP. Hồ Chí Minh, 2018

Lớp: 14DLK10


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận đi đến kết quả ngày
hơm nay, tơi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường và các thầy cô khoa
Luật trường Đại học Công Nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện và giúp đỡ
để hồn thành khóa luận này.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS Bành Quốc Tuấn, thầy là người
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho tơi về các kỹ năng, cách giải
quyết vấn đề, ý kiến góp ý, sửa chữa để hồn thành được bài khóa luận tốt nghiệp
một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến các anh chị trong Công ty Luật TNHH MTV
Không Gian Luật - nơi đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi tiếp cận được với hoạt

động thực tiễn gắn liền với đề tài nghiên cứu.
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế cịn hạn chế nên nội dung
khóa luận khơng thể tránh được những thiếu sót; kính mong nhận được ý kiến đóng
góp từ q thầy, cơ để có thể hồn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu này.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khóa luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn thực tế, trên các sách báo khoa học chun ngành (có
trích dẫn đầy đủ và theo đúng quy định);
Nội dung trong Khóa luận này do kinh nghiệm bản thân rút ra từ quá trình
nghiên cứu và thực tế tại công ty TNHH MTV Luật Không Gian Luật KHƠNG SAO
CHÉP từ các nguồn tài liệu, khóa luận khác.
Nếu có sai sót Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm theo quy định của Nhà
trường và Pháp luật.

Sinh viên

Đào Thị Thương Huyền


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ............................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3
5. Kết cấu khóa luận..................................................................................................4

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG ......................5
1.1. Khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng ........................................................5
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng ............................................................5
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng .............................................................6
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng ..........................................................6
1.2. Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chồng ................................................8
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng .......................................8
1.2.2. Chế độ tài sản pháp định ..................................................................................8
1.3 Khái quát chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử ..........................................................................................................10
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến ..................10
1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ..................11
1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
từ Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay.................................................................14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................20
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT
HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014 - THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ GĨP PHẦN HỒN THIỆN CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG ....21
2.1. Nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014
...................................................................................................................................21
2.1.1. Tài sản chung của vợ chồng............................................................................21
2.1.2. Tài sản riêng của vợ, chồng ............................................................................35


2.2. Thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị nhằm
góp phần hồn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng ..........................41
2.2.1. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng
vào thực tế xét xử của Tòa án nhân dân ...................................................................41
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện chế độ tài sản của vợ chồng
trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014 .....................................................................43

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................47
KẾT LUẬN ..............................................................................................................48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................49


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

HN&GĐ

: Hơn nhân và gia đình

TAND

: Tịa án nhân dân


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chi phối đời sống của vợ chồng là tình cảm gia đình, sự yêu thương, gắn bó,
quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng, giữa các thành viên trong gia đình.
Bên cạnh đời sống tình cảm, tình yêu thương lẫn nhau (đời sống tinh thần) không thể
không quan tâm đến đời sống vật chất, tiền bạc, tài sản của vợ chồng. Tính chất của
đời sống hơn nhân địi hỏi vợ chồng phải xác lập khối tài sản chung để cùng nhau xây
dựng đời sống gia đình. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một khía cạnh hết sức
quan trọng trong đời sống hơn nhân, nó là cơ sở cho vợ chồng cùng nhau xây dựng
kinh tế, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về vật chất lẫn tinh thần để mang đến một cuộc
sống hạnh phúc, qua đó góp phần đảm bảo cho gia đình thực hiện các chức năng xã

hội của nó một cách hiệu quả.
Mặt khác, tài sản khơng chỉ gắn liền với lợi ích của hai bên vợ, chồng, mà còn
liên quan đến người thứ ba, đặc biệt khi vợ chồng tham gia vào hoạt động giao dịch
dân sự, kinh doanh thương mại. Trong thực tế, một số ít gia đình tồn tại đời sống vợ
chồng với những mâu thuẫn trầm trọng không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hơn
nhân, do vậy dẫn đến ly hôn và việc tranh chấp tài sản của vợ chồng là khơng thể
tránh khỏi. Tính đặc thù của mối quan hệ hôn nhân làm cho việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng trở nên khó khăn, dẫn đến việc giải quyết các tranh
chấp gặp nhiều trở ngại.
Xuất phát từ những hạn chế của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, việc
ban hành Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết
những vấn đề bức thiết của đời sống hơn nhân gia đình trong giai đoạn hiện nay. Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2014 có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của đất nước và phù hợp xu thế khách quan
của thế giới hiện nay. Trong số các nội dung mới được sửa đổi, bổ sung có nội dung
đáng chú ý liên quan đến vấn đề tài sản, đó là chế độ tài sản theo thỏa thuận lần đầu
tiên được ghi nhận trong luật, cho phép vợ chồng tự do lựa chọn áp dụng chế độ tài
sản theo thỏa thuận hoặc chế độ tài sản luật định.
Việc phân tích những vấn đề lý luận và nội dung của chế độ tài sản vợ chồng
trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 là một vấn đề mang tính khách quan và
cấp thiết hiện nay nhằm hiểu rõ hơn quy định pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng,
khơng ngừng hồn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng và hồn
thiện pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam nói chung. Qua đó góp phần xây dựng
và phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững.

1


Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình 2014” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của

mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 ra đời, trong thời gian qua đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến chế định tài sản vợ chồng như: Chế độ
tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ,
2005); Xác định chế độ tài sản của vợ chồng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn
(Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, 2002); “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước
định trong Luật HN&GĐ Việt Nam” (Nguyễn Hồng Hải), Tạp chí Luật học số 10
năm 1998; “Một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản riêng và
trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”( Th.s Nguyễn
Thị Lan, bài viết trong đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008 do TS Nguyễn
Phương Lan làm chủ nhiệm đề tài); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật
HN&GĐ năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội); Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, 2002,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
trong pháp luật Cộng hòa Pháp và Pháp luật Việt Nam” (Ths.Bùi Minh Hồng), Tạp
chí Luật học số 11 năm 2009; …
Các cơng trình nghiên cứu kể trên có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau về vấn đề chế độ tài sản vợ chồng. Bên cạnh việc làm rõ
những nội dung theo quy định của pháp luật, các cơng trình nghiên cứu cũng đã đề
cập và giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế chưa được pháp luật dự liệu, là
cơ sở để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa các quy định về hôn nhân gia đình
nói chung và các quy định về chế độ tài sản vợ chồng nói riêng ở nước ta hiện nay.
Sau khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 được thông qua, bên cạnh chế
độ tài sản vợ chồng theo luật định truyền thống còn ghi nhận thêm chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận. Mặc dù là một nội dung mới trong quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam, nhưng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận lại không
phải là vấn đề xa lạ trong tư duy của những người nghiên cứu pháp luật. Đây là đề tài
luôn được nhiều người quan tâm và đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến

chế độ này như: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt
Nam (Nguyễn Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ năm 2014); Chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 (Nguyễn Thị Thu
Thủy, Luận văn thạc sĩ năm 2015); Xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 (Phạm Thị Anh, Luận văn thạc sĩ năm 2015)…

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu khóa luận này, tác giả sẽ phân tích, đánh giá những
vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ
chồng. Khóa luận khơng nghiên cứu về quan hệ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản
của nhau giữa vợ chồng.
Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trong phạm vi những quy định của pháp luật thực
định Việt Nam về chế độ tài sản vợ chồng, tập trung vào một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng. Tìm hiểu
một cách có hệ thống và đầy đủ về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt
Nam
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ
chồng. Tìm hiểu mục đích, cơ sở của việc quy định các điều luật điều chỉnh chế độ
tài sản của vợ chồng; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới
quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
để có cách hiểu đúng nhất, phù hợp với khoa học pháp lý về chế độ tài sản của vợ
chồng và thực tiễn đời sống trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng.
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng
theo luật thực định, nêu ra một số kiến nghị đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định

trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nhằm hồn thiện chế độ tài sản vợ chồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện thông qua các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tài sản
của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ bản được
nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật
hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây của Việt Nam.

3


5. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 - Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị góp phần hồn
thiện chế độ tài sản của vợ chồng.

4


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG
1.1. Khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Trước khi kết hôn và sau khi hôn nhân chấm dứt, vợ, chồng là những người
độc thân có tài sản riêng, hay có thể gọi là tài sản cá nhân. Cá nhân có quyền chiếm

hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình. Khoản 1 Điều 32 Hiến pháp
2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác”; BLDS cũng quy định cụ thể các quyền sở hữu của
cá nhân.
Khi bắt đầu cuộc sống hôn nhân, vợ chồng phải cùng nhau tạo ra của cải vật
chất thông qua nhiều phương thức khác nhau như lao động, sản xuất, kinh doanh…
để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình. Vì vậy, giữa vợ chồng tồn tại hai mối
quan hệ là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Các vấn đề xoay quanh mối quan hệ
tài sản vợ chồng bao gồm: việc xác định khối tài sản là tài sản chung vợ chồng hay
tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối
với từng khối tài sản; việc chia tài sản chung của vợ chồng trong từng trường hợp
nhất định; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng khi xác lập giao dịch liên quan đến tài
sản với người thứ ba. Do tính chất đặc biệt này trong quan hệ hơn nhân gia đình khơng
thể chỉ áp dụng các quy định của Hiến pháp và BLDS để điều chỉnh quan hệ tài sản
của vợ chồng, đòi hỏi những quy định riêng nhằm điều chỉnh mối quan hệ này.
Vì vậy, tơi đồng ý với luận điểm khái quát chế độ tài sản của vợ chồng như
sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về
tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản
giữa vợ và chồng”.1
Gia đình là tế bào của xã hội, chế độ tài sản của vợ chồng ln có vai trị quan
trọng trong pháp luật HN&GĐ của tất cả các quốc gia trên thế giới. Chế độ tài sản ở
mỗi quốc gia được pháp luật điều chỉnh phù hợp với tuyền thống, đạo đức, tập quán,
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước. Hôn nhân dựa trên cơ sở giao ước tự do, tự
nguyện vì vậy vợ, chồng đương nhiên có quyền thỏa thuận với nhau các vấn đề liên
quan đến quyền và lợi ích của mình, trong đó có quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Ở
Việt Nam, pháp luật một mặt dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng (chế độ tài sản

Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
1

5


pháp định), đồng thời quy định vợ, chồng có quyền thỏa thuận với nhau về tài sản
trước khi kết hôn (chế độ tài sản ước định).
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản vợ chồng
Có thể nói chế độ tài sản của vợ chồng là sự pha trộn của Luật HN&GĐ và
BLDS. Vợ, chồng là chủ thể của quan hệ hơn nhân gia đình đồng thời cũng là chủ thể
của quan hệ dân sự khi tham gia các giao dịch dân sự. Với đặc thù như vậy, chế độ
tài sản vợ chồng có những đặc điểm nổi bật sau:
Về chủ thể: Chủ thể trong chế độ tài sản vợ chồng cần đáp ứng yêu cầu về hôn
nhân hợp pháp và yêu cầu về chủ thể dân sự. Cụ thể, để trở thành chủ thể trong chế
độ tài sản này, các chủ thể cần có đầy đủ năng lực được quy định trong quan hệ pháp
luật dân sự, đồng thời, phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp
luật HN&GĐ.
Về căn cứ xác lập: Chế độ tài sản của vợ chồng được phát sinh tại thời điểm
bắt đầu quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi hôn nhân kết thúc. Như vậy, chế độ này
chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Về đặc thù riêng của chế độ tài sản vợ chồng: Tài sản vợ chồng bao gồm tài
sản chung và tài sản riêng, pháp luật quy định rạch ròi quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với từng loại tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo duy trì cuộc sống chung cũng
như quyền lợi của vợ, chồng, người thứ ba liên quan pháp luật đã dự liệu một số
trường hợp tạo thành đặc thù riêng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với tài sản của mình. Đối với khối tài sản chung, khi vợ chồng sử dụng để
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì pháp luật coi đó là sự thỏa thuận
đương nhiên giữa hai vợ chồng trừ trường hợp bắt buộc phải có văn bản thỏa thuận
của vợ, chồng. Đối với tài sản riêng, thông thường vợ, chồng có quyền tự định đoạt

tài sản riêng của mình theo quy định của BLDS. Tuy nhiên, trong chế độ tài sản của
vợ chồng thì ở một số trường hợp cụ thể, quyền sở hữu tài sản riêng của họ bị hạn
chế (ví dụ, khi định đoạt tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình thì
phải được sự đồng ý của người cịn lại).2
1.1.3. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
Ở mỗi chế độ xã hội, mỗi quốc gia ln có một chế độ HN&GĐ tương ứng
phản ánh trung thực và chính xác nhất trình độ phát triển các điều kiện kinh tế - xã
hội cũng như tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị xã hội cụ thể. Tương ứng
với mỗi chế độ xã hội là một chế độ HN&GĐ, trong đó bao gồm các quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng. Trong thời kỳ phong kiến, pháp luật hầu như không bảo vệ
Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
2

6


quyền lợi của người phụ nữ, người phụ nữ trong gia đình hồn tồn phụ thuộc vào
người chồng. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, người chồng là
chủ sở hữu tất cả tài sản trong gia đình, ngay cả khi chồng chết tài sản cũng thuộc về
con cái và gia đình chồng; người phụ nữ khơng hề có quan hệ chung về tài sản càng
khơng có quyền thỏa thuận về tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đến thời Pháp
thuộc, pháp luật đã thừa nhận cho vợ chồng quyền xây dựng quan hệ tài sản theo thỏa
thuận, miễn là thỏa thuận ấy không làm mất đi quyền đứng đầu gia đình của người
chồng và không trái với thuần phong mỹ tục. Tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa, luật
Việt Nam ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Theo đó vợ, chồng có quyền
bình đẳng trong cuộc sống gia đình, từ dạy dỗ con cái đến cùng lao động tạo ra tài
sản để duy trì cuộc sống hơn nhân; cũng vì vậy họ có quyền ngang nhau trong việc
định đoạt, sử dụng, quản lý khối tài sản chung đó.3
Chế độ tài sản vợ chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ

sở hữu tài sản giữa vợ chồng; quy định cụ thể căn cứ xác lập, nguồn gốc, thành phần
tài sản chung, riêng của vợ, chồng tạo ra những nguyên tắc, cách thức ứng xử phù
hợp. Khi xác lập quan hệ hôn nhân, dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản ước định hay
chế độ tài sản pháp định thì việc xác định tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng
vẫn được pháp luật quy định rõ.
Chế độ tài sản vợ chồng có ý nghĩa xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
với nhau và với người thứ ba. Trên cơ sở phân định rạch ròi tài sản chung và tài sản
riêng, chế độ tài sản vợ chồng xác lập các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với
từng loại tài sản đó.
Chế độ tài sản vợ chồng cũng chính là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp
trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với người thứ ba tham gia giao
dịch liên quan đến tài sản vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho
các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ chồng phải
tham gia rất nhiều các giao dịch để duy trì cuộc sống gia đình hay vì mục đích riêng
của mỗi bên vợ, chồng. Các quy định của chế độ tài sản vợ chồng sẽ là căn cứ pháp
lý cho các cơ quan áp dụng pháp luật có căn cứ, nguyên tắc để giải quyết các tranh
chấp về tài sản giữa vợ, chồng hoặc với người thứ ba.4

Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
4
Lê Thị Dung (2017), “Chế độ hôn sản trong luật HN&GĐ năm 2014”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Khoa Luật.
3

7


1.2. Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chồng
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng

Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng hay còn gọi là chế độ tài
sản ước định được xác định trên cơ sở tự thỏa thuận về quan hệ tài sản của vợ chồng.
Sự thỏa thuận này phải được xác lập bằng văn bản (cịn gọi là hơn ước) có nội dung
cụ thể về thỏa thuận tài sản, quyền sở hữu tài sản có trước, sau khi kết hơn, cũng như
việc phân chia tài sản khi hơn nhân chấm dứt. Hơn ước có tính ổn định cao, tuy nhiên
pháp luật đã thừa nhận các thỏa thuận trong hơn ước có thể thay đổi trong thời kỳ hôn
nhân, việc xác lập hay thay đổi chế độ tài sản theo hôn ước phải tuân thủ thể thức mà
luật pháp quy định. Như vậy, pháp luật đã tạo cho vợ chồng quyền chủ động hơn
trong việc quyết định chế độ tài sản của mình.
Ở Việt Nam, hôn ước xuất hiện trong thời kỳ Pháp thuộc, chịu ảnh hưởng từ
pháp luật nước Pháp chứ không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong đời sống vợ
chồng, Điều 144 Bộ Dân Luật 1972: “Luật pháp chỉ quy định phu phụ tài sản khi vợ
chồng không lập hôn ước”. Thời kỳ thống nhất, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật
HN&GĐ năm 2000 đều không đề cập đến chế độ tài sản theo thỏa thuận. Trong bối
cảnh đó, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ tài sản cần bị
tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra. Đến Luật HN&GĐ 2014, để phù hợp
với nhu cầu thực tế của vợ chồng và sự thay đổi về chức năng kinh tế của gia đình
đối với xã hội, chế độ tài sản ước định được thừa nhận trong Luật thể hiện sự văn
minh, tiến bộ trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu.
1.2.2. Chế độ tài sản pháp định
“Chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ tài sản vợ chồng do pháp luật
đã dự liệu từ trước về căn cứ xác định các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ,
chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong quan hệ với người thứ ba;
các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức
thanh toán liên quan các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng.”5
Trên thực tế, quan hệ HN&GĐ mang tính chất phức tạp và nhạy cảm, đặc biệt
là các vấn đề liên quan đến tài sản. Không phải cặp vợ chồng nào cũng thỏa thuận
trước về vấn đề tài sản trong thời kỳ hơn nhân, hoặc cũng có trường hợp thỏa thuận
của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm các quy định của pháp luật. Vì vậy, pháp luật đã
dự liệu các quy định cụ thể nhằm điều chỉnh các quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng

khi vợ chồng không thỏa thuận hay thỏa thuận bị vô hiệu.

Trương Thị Lan (2016), Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, trang 7.
5

8


Các quy định điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng phải bảo đảm
lợi ích chung của gia đình, thơng qua khối tài sản chung. Ngồi ra, quyền sở hữu tài
sản của mỗi cá nhân là quyền hiến định, do vậy pháp luật HN&HĐ phải tôn trọng
việc xác lập quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó, chế độ tài sản pháp
định quy định cụ thể về các quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với khối tài sản chung
cũng như tài sản riêng của mỗi bên, đảm bảo được tính tất yếu khách quan cũng như
đặc thù của quan hệ sở hữu tài sản vợ, chồng.6
Xuyên suốt các thời kỳ pháp luật HN&GĐ Việt Nam, có thể khái qt các
hình thức của chế độ tài sản pháp định như sau:
Chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn cộng đồng:
- Chế độ cộng đồng toàn sản: Xuất phát từ quan niệm nhu cầu, lợi ích chung
của gia đình được đẩy lên cao nhất, nội dung của chế độ cộng đồng toàn sản là tất cả
tài sản của vợ, chồng đều thuộc khối tài sản chung vợ chồng, khơng tính đến nguồn
gốc của tài sản; không thừa nhận quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng. Ở Việt
Nam, chế độ cộng đồng toàn sản được quy định trong Điều 15 Luật HN&GĐ 1959:
“Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản
có trước và sau khi cưới”.
- Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: Chế độ này đã thừa nhận tổn tại tài
sản chung và tài sản riêng vợ, chồng trong hôn nhân, xác định tài sản của vợ chồng
dựa trên việc phân định tài sản của vợ chồng là động sản hay bất động sản. Ở Việt
Nam dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, Bộ Dân luật 1972 cũng đã quy định về chế

độ cộng đồng sản và tạo sản là chế độ tài sản pháp định dành cho các cặp vợ chồng
khơng lập hơn ước. Theo đó, khối tài sản chung của vợ chồng gồm có: động sản thuộc
quyền sở hữu của mỗi người ngày lập hôn thú; động sản của vợ hay chồng được
hưởng trong thời gian hôn thú do sự thừa kế, tặng dữ và di tặng, trừ phi người tặng
dữ hay di tặng đã định khác; động sản hoặc bất động sản do vợ hay chồng tạo mãi
trong thời gian hôn thú; hoa lợi của tất cả tài sản, không phân biệt tài sản thủ đắc
trước hay trong thời gian hơn thú. Ngồi ra, Bộ Dân luật 1972 cũng quy định vợ,
chồng có tài sản riêng là bất động sản của vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc được
tặng, cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân; quyền và nghĩa vụ đối với bất động
sản riêng của vợ, chồng.7
- Chế độ cộng đồng tạo sản: Là chế độ tài sản trong đó khối tài sản chung của
vợ chồng chỉ bao gồm tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và các hoa
Trương Thị Lan (2016), Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam
2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, trang 4.
7
Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
6

9


lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng. Như vậy, chế độ này thu hẹp hơn
nữa thành phần, phạm vi các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng so
với chế độ cộng đồng động sản và tạo sản. Pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 1986
và năm 2000 cũng lựa chọn chế độ cộng đồng tạo sản để áp dụng cho các cặp vợ
chồng khi xác lập quan hệ hôn nhân. Chế độ cộng đồng tạo sản tạo điều kiện thuận
lợi cho vợ, chồng chủ động trong việc định đoạt tài sản mà không phá vỡ chế độ tài
sản chung của vợ chồng, ngăn chặn các trường hợp kết hôn chỉ nhằm vào khối tài sản
sẵn có của bên kia.

Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân sản:
Chế độ phân sản là chế độ tách bạch hai khối tài sản của vợ, chồng có được
trước và sau khi kết hơn. Khơng tồn tại khối tài sản chung của vợ chồng; vợ chồng
có quyền và nghĩa vụ đóng góp tài sản của mình để đảm bảo nhu cầu tất yếu của gia
đình. Chế độ này khơng được pháp luật nhiều nước áp dụng vì nó đề cao lợi ích cá
nhân mà xem nhẹ đi sự quan trọng của gia đình.
1.3 Khái quát chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử
1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, xã hội phong kiến Việt Nam bị chi phối chặt
chẽ bởi quan niệm của Nho giáo, xây dựng một cơ sở bền vững cho chế định gia đình
trong lịch sử. Các quy định về HN&GĐ được phản ánh chủ yếu thông qua hai bộ
luật: Quốc Triều hình luật ( cịn gọi là Bộ luật Hồng Đức – thời Lê) và Hồng Việt
luật lệ (cịn gọi là Bộ luật Gia Long – thời Nguyễn) và những tục lệ cổ.
Quốc triều hình luật (QTHL) đã thiết lập ba ngun tắc cơ bản trong hơn nhân
đó là: hơn nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Chế độ tài
sản vợ chồng khơng được quy định riêng và cụ thể, tuy nhiên QTHL cũng đã quy
định một số vấn đề về nguồn tài sản hình thành khối tài sản chung vợ chồng bao gồm:
tài sản của chồng được thừa kế từ gia đình chồng (phu tông điền sản), tài sản của vợ
được thừa kế từ gia đình vợ (thê tơng điền sản), tài sản chung do hai vợ chồng cùng
tạo ra sau khi kết hôn (tần tảo điền sản). Tất cả các nguồn tài sản này được quy thành
một khối và do người chủ gia đình (người chồng) đứng ra quản lý, tuy nhiên nếu làm
tổn hại đến tài sản của gia đình thì người vợ có quyền phản đối. Trong các giao dịch
dân sự người vợ được sử dụng tài sản chung để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia
đình, trong những giao dịch có giá trị lớn thì phải có sự đồng ý của hai vợ chồng. Khi
ly hơn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó và họ có quyền mang theo trừ

10



trường hợp ly hôn do vợ gian dâm. Những quy định này là điểm tiến bộ của pháp luật
nhà Lê, bước đầu tạo vị thế bình đẳng cho người phụ nữ trong xã hội hiện tại.8
Hoàng Việt luật lệ (HVLL) được ban hành dưới triều Nguyễn năm 1812 sao
chép từ pháp luật nhà Thanh, áp dụng tư tưởng phong kiến lạc hậu của Trung Quốc
thời bấy giờ, bỏ qua những điểm tiến bộ của QTHL. Theo HVLL, người vợ hoàn tồn
khơng có bất cứ quyền gì đối với khối tài sản gia đình, phụ thuộc vào người chồng
một cách tuyệt đối. Bộ luật này khơng có quy định nào về vấn đề tài sản vợ chồng.
Qua các quy định liên quan về vấn đề tài sản của vợ chồng trong QTHL và
HVLL có thể thấy rằng, chế độ cộng đồng toàn sản được áp dụng trong thời kỳ phong
kiến. Cụ thể là tồn bộ tài sản của vợ, chồng có được trước khi kết hôn và tạo lập
trong thời kỳ hôn nhân được quy về chung một khối tài sản chung của vợ chồng, khối
tài sản chung này được người chồng đứng ra quản lý, định đoạt.
1.3.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc bắt đầu từ năm 1858 đến năm 1945, kéo dài hơn tám mươi
năm. Trong thời kỳ này, nước ta được chia thành ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ tương ứng với miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Đối với mỗi miền, thực dân
Pháp áp dụng một bộ Luật riêng: Bộ Dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc kỳ hay
còn gọi là bộ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931 (DLBK), Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật hay
còn gọi là bộ Dân Luật Trung Kỳ năm 1936 (DLTK) và tập Dân Luật Giản Yếu Nam
Kỳ năm 1883 (DLGY). Các vấn đề về HN&GĐ hay cụ thể là các vấn đề về chế độ
tài sản của vợ chồng đều được quy định trong cả ba Bộ dân luật này.
Tại miền Bắc và miền Trung:
Chịu ảnh hưởng của BLDS Pháp năm 1804, DLBK và DLTK có những quy
định tương tự về quan hệ hơn nhân gia đình nói chung và về chế độ tài sản vợ chồng
nói riêng. Quy định chế độ tài sản ước định trong hơn nhân gia đình lần đầu tiên được
dự liệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tuy nhiên chế độ này không phù hợp với
phong tục truyền thống của gia đình người Việt thời bấy giờ vì vậy không được các
cặp vợ chồng thỏa thuận lựa chọn.
Điều 104 DLBK quy định: “Về đường tài sản, pháp luật chỉ can thiệp đến
đoàn thể vợ chồng là khi nào vợ chồng khơng có tùy ý lập ước riêng với nhau mà

thôi, miễn là ước riêng ấy không được trái với phong tục và không được trái với
quyền lợi người chồng là người chủ trương trong đoàn thể.”
Điều 105 DLBK tiếp tục quy định:“Phàm tư ước về tài sản giá thú phải làm
thành chứng thư trước mặt “no-te”, hoặc do Lý trưởng thị thực, mà phải làm trước
Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
8

11


khi khai giá thú. Đã khai giá thú rồi thì khơng được thay đổi gì nữa. Hơn ước phải
do các người có quyền ưng thuận trong việc giá thú ký nhận cho mới được. Phàm tư
ước về tài sản giá thú, phải biên chú vào chứng thư giá thú thì mới có thể đem đối
dụng với người ngồi được. Ai muốn xin trích lục chứng thư giá thú về khoản biên
chú các tư ước ấy, thì Hộ lại cấp phát cho.”
Điều 102 DLTK cũng quy định:“Về đường tài sản của vợ chồng, chỉ khi nào
vợ chồng khơng có tùy ý lập ước riêng với nhau thì pháp luật mới can thiệp đến; lời
riêng ấy cốt khơng trái với phong hóa và không trái với quyền lợi của người chồng,
là người chủ trương gia thất.”
Như vậy, DLBK và DLTK kế thừa tinh thần bộ luật Hồng Đức, đặt nền tảng
cho việc xác định chế độ tài sản ước định trong quan hệ vợ chồng, đẩy vai trò của
người phụ nữ trong gia đình lên một vị trí mới.
Theo phong tục của người Việt Nam mọi tài sản trong gia đình đều là tài sản
chung của vợ chồng, DLBK và DLTK dự liệu một chế độ tài sản áp dụng cho các cặp
vợ chồng không thỏa thuận hôn khế là chế độ cộng đồng toàn sản. Điều 106, 107
DLBK và Điều 105 DLTK quy định: “Nếu hai vợ chồng khơng có tư ước với nhau,
thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của
vợ hợp làm một mà chung nhau”.
Về thành phần khối tài sản chung bao gồm tất cả tài sản của vợ, chồng có được

trước và trong thời kỳ hơn nhân. Tuy nhiên, chỉ những tài sản được hai vợ chồng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản chung chính thức; những tài sản riêng của vợ
chồng được hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân và được tách ra để chia lại cho
mỗi bên khi hôn nhân chấm dứt. Để phân biệt được tài sản nào là tài sản riêng của
vợ, chồng thì căn cứ vào việc đăng ký hoặc chứng thư xác nhận nguồn gốc của tài
sản đó. Đối với những tài sản khơng được đăng ký và cũng khơng có chứng thư xác
nhận nguồn gốc thì Tịa án sẽ suy đốn đó là tài sản chung, nếu vợ chồng muốn khiếu
nại là tài sản riêng của mình thì có nghĩa vụ chứng minh.
Đối với việc sử dụng, định đoạt tài sản để thực hiện những giao dịch nhằm
đảm bảo nhu cầu thiết yếu hằng ngày của gia đình vợ, chồng có thể tự mình đại diện
cho gia đình (Điều 100, 101 DLBK và Điều 98, 109 DLTK). Ngồi những giao dịch
trên thì việc định đoạt tài sản chung phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng (Điều
109 DLBK và điều 107 DLTK); tuy nhiên người chồng được phép tự mình định đoạt
các tài sản chung mà không cần sự cho phép của vợ, miễn việc đó đem lại lợi ích cho
gia đình; việc ưng thuận của người chồng phải thể hiện bằng văn bản có chữ ký cịn
sự ưng thuận của người vợ thì khơng cần. Bên cạnh đó, pháp luật cũng dự liệu các
chế tài xử lý đối với vợ và chồng để bảo vệ khối tài sản chung của gia đình.

12


Điều 98 DLTK và Điều 100 DLBK: “Khi nào người vợ lạm dụng cái quyền
thay mặt đoàn thể vợ chồng, hoặc khơng thể hành xử quyền ấy được nữa, thì người
chồng có thể thu hồi tất cả hoặc một phần quyền ấy được”.
Điều 100 DLBK: “Khi nào người chồng bỏ không lo liệu sự nuôi nấng vợ con,
hay là tiêu tán các của chung, thì người vợ có thể xin quan Chánh án đệ nhị cấp làm
mệnh lệnh truyền cấm người chồng từ đấy về sau không được sử dụng lỷ phần của
người vợ, cùng những tài sản dùng về nghề nghiệp riêng của người vợ, và một phần
hay tất cả những sản vật của tay người vợ làm ra,, lại truyền cho phép người vợ được
đứng quản lý, hưởng thụ và nếu có cần thì được sử dụng các tài sản ấy. Muốn có hiệu

lực đối với người ngồi, thì người vợ phải xin đăng cáo bản mệnh lệnh của quan
Chánh án đệ nhị cấp vào một tờ báo chữ Pháp và một tờ báo quốc ngữ ở nơi gần
nhất.”. Điều 108 DLTK cũng quy định tương tự Điều 100 DLBK.
Theo Điều 111 DLBK và Điều 109 DLTK quy định vợ chồng có nghĩa vụ sử
dụng khối tài sản chung chi trả các khoản nợ sau:
- Những khoản vợ chồng đã vay trước khi kết hôn
- Những khoản chồng vay trong thời kỳ hôn nhân
- Những khoản nợ do vợ vay với tư cách là đại diện cho gia đình hoặc đã được
sự cho phép của chồng
- Khoản nợ do vợ ký kết khi hành nghề buôn bán hoặc làm công nghệ một
cách hợp lệ
- Những khoản nợ do hành vi phạm pháp của vợ gây ra.
DLBK và DLTK quy định về phân chia tài sản của vợ chồng trong hai trường
hợp: khi một bên vợ chồng chết trước và khi ly hôn. Khi người chồng chết mà vợ
không tái giá thì người vợ được quyền quản lý tài sản chung thay chồng; nếu người
vợ chết trước thì chồng đương nhiên trở thành chủ sở hữu của toàn bộ khối tài sản
chung kể cả tài sản riêng của vợ. Trường hợp vợ chồng ly dị khơng có con chung thì
người vợ được lấy lại tài sản riêng hiện cịn của mình, nghĩa là những tài sản đã giao
dịch đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu trong gia đình hoặc cho riêng người chồng thì
người vợ khơng được phép địi lại, bất cứ tài sản riêng nào của vợ hoặc chồng đã
được tu sửa, quản lý bằng tài sản chung của vợ chồng sẽ trở thành tài sản chung của
vợ chồng để phân chia khi ly hôn. Nếu vợ chồng đã có con chung mà ly hơn, người
vợ được hưởng một phần từ khối tài sản chung, phần tài sản đó tùy thuộc vào sự đóng
góp của người vợ đã làm tăng khối tài sản chung và do Tòa án quyết định (Điều 112
DLBK); tuy nhiên Điều 110 DLTK quy định cụ thể phần của người vợ khi vợ chồng

13


ly hơn có con chung bằng 1/3 khối tài sản chung; người vợ bị ly hôn bao giờ cũng

được quyền lấy lại các đồ tư trang phục sức của mình.9
Tại miền Nam:
Quan hệ hơn nhân gia đình ở Nam Kỳ chịu sự điều chỉnh bởi tập DLGY được
phỏng theo BLDS Pháp năm 1804, có 5 tiết nói về hơn thú, ly dị, phụ hệ, nuôi con
nuôi và phụ quyền; không có điều khoản nào quy định về tài sản, khế ước và nghĩa
vụ trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng, cũng khơng có quy định về chế độ tài sản của
vợ chồng và di sản. Thời kỳ đầu, các án lệ của Nam Kỳ cơng nhận người vợ có tài
sản riêng và chế độ hôn nhân theo phong tục là cộng đồng tạo sản. Tuy nhiên, địa vị
thực tế của người vợ trong gia đình khơng bằng người chồng đã đưa đến việc bác bỏ
chế độ cộng đồng tạo sản.10
Chế độ tài sản ở Nam Kỳ tương tự chế độ tài sản dưới triều Nguyễn với bộ
Hoàng Việt luật lệ: Người vợ khơng có tài sản riêng, tồn thể tài sản trong gia đình
nằm trong tay người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết;
do vậy khơng thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng. Người chồng là chủ sở hữu
duy nhất các tài sản của gia đình, như vậy rất bất công với người vợ nhất là khi tài
sản mà vợ tạo ra do hành nghề riêng trong thời kỳ hôn nhân hay có được trước khi
kết hơn đều bị quy chụp trở thành tài sản của người chồng.
1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
từ Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay
Giai đoạn 1945 – 1954:
Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra chương mới của lịch sử dân tộc,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời với bản Tun ngơn độc lập ngày 02/09/1945
tại quảng trường Ba Đình. Hoàn cảnh lịch sử chưa cho phép chúng ta ban hành ngay
một hệ thống pháp luật hồn chỉnh, vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho phép áp
dụng pháp luật cũ một cách chọn lọc; miễn sao không trái với lợi ích của chính thể
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và lợi ích của nhân dân lao động (theo Sắc
lệnh số 90-SL ngày 10/10/1945). Thông qua Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc
lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 đã sửa đổi một số quy định trong dân luật, nhằm xóa
bỏ, hạn chế ảnh hưởng của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến.
Quyền bình đẳng nam nữ được cụ thể hóa, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 khẳng định tại Điều 9: “đàn bà ngang quyền
với đàn ông về mọi phương diện”. Theo tinh thần chủ đạo này, Sắc lệnh 97/SL quy
Trương Thị Lan (2016), “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014”,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
10
Trương Thị Lan (2016), “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014”,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
9

14


định: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” (Điều 5), “Người đàn bà có
chồng có tồn năng lực về mặt hộ” (Điều 6); như vậy vợ chồng đã bình đẳng với nhau
trong các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt toàn bộ khối tài sản chung. Sắc lệnh
159/SL quy định cụ thể về ly hôn, thủ tục ly hôn, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng
trong việc nuôi dạy con cái sau khi ly hôn. Tuy nhiên, cả hai Sắc lệnh nói trên lại
khơng đề cập đến việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn, chỉ có thể căn cứ
vào quyền bình đẳng đã được xác lập suy luận ra rằng khối tài sản chung sẽ được chia
đều cho vợ chồng mỗi bên một nửa khi ly hôn.
Như vậy, hai Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 150/SL đã có những quy định
mới và tiến bộ, góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ chế độ HN&GĐ thực dân phong
kiến lạc hậu, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân.
Giai đoạn 1954 – 1975:
Hịa bình được lập lại ở miền Bắc. Trước tình hình và nhiệm vụ mới, Nhà nước
đã ban hành một số văn bản pháp luật mới, và sửa đổi, bổ sung các văn bản cũ trong
đó có Hiến pháp năm 1946 và ban hành Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1959 đã quy định
quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt, trở thành cơ sở pháp lý vững chắc cho
việc xây dựng chế độ HN&GĐ mới, phù hợp. Ngày 29/12/1959, Quốc hội thông qua

Luật HN&GĐ năm 1959 là xóa bỏ tàn dư của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến
lạc hậu và xây dựng chế độ HN&GĐ mới xã hội chủ nghĩa.
Luật quy định chế độ tài sản áp dụng chung cho tất cả các cặp vợ chồng mà
không quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Điều 15 Luật HN&GĐ
năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang
nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”; theo đó mọi tài sản của vợ chồng
không phân biệt nguồn gốc và công sức đóng góp đều thuộc khối tài sản chung (dù
là tặng cho riêng vợ chồng hay thừa kế riêng trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân). Như
vậy, Luật HN&GĐ 1959 đã kế thừa những quy định pháp luật HN&GĐ trước đây
theo chế độ cộng đồng tồn sản, khơng có điều khoản nào quy định về tài sản riêng
của vợ, chồng. Tài sản chung được chia khi vợ chồng ly hôn hoặc khi vợ, chồng chết
trước. Nguyên tắc phân chia tài sản chung sẽ căn cứ vào cơng đóng góp của mỗi bên
vào khối tài sản, bảo đảm được quyền lợi của vợ, con và lợi ích của việc sản xuất khi
chia.
Miền Nam sau Hiệp định Genève năm 1954, Pháp rút quân khỏi miền Nam
khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc.
Mỹ vào thay chân Pháp, đưa Ngơ Đình Diệm lên nắm chính quyền với âm mưu biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Hệ thống các văn bản
pháp luật HN&GĐ được ban hành dưới thời kỳ này bao gồm:
15


- Luật Gia đình ngày 2/1/1959 (Luật số 1 – 59) dưới chế độ Ngơ Đình Diệm.
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng
đồng.
- Bộ luật Dân sự Việt Nam Cộng Hòa ngày 20/12/1972 dưới chế dộ Nguyễn
Văn Thiệu.
Cả ba văn bản trên đều dự liệu về chế độ tài sản ước định, cho phép vợ chồng
ký kết hôn ước thỏa thuận với nhau về vấn đề tài sản trước khi kết hơn, miễn là sự
thỏa thuận đó khơng trái với thuần phong mỹ tục, trật tự công cộng và quyền lợi của

con cái. Trường hợp vợ chồng khơng có thỏa thuận trước về chế độ tài sản mới áp
dụng chế độ tài sản vợ chồng theo những quy định mà pháp luật đã dự liệu. BLDS
Sài Gòn 1972 quy định: “Luật pháp chỉ quy định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng
không lập hôn ước. Vợ chồng có thể tự do lập hơn ước tùy ý muốn, miễn không trái
với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục” (Điều 144, 145). Nội dung này được
quy định tương tự ở Điều 45 Luật gia đình, Điều 49 Sắc luật số 15/64. 11
Luật Gia đình kế thừa chế độ cộng đồng toàn sản của DLBK và DLTK với
điểm tiến bộ là quy định về quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng (Điều 43) và quyền
quản trị khối tài sản cộng đồng (Điều 49). Tuy nhiên, Điều 39 Luật Gia đình quy
định: “Người chồng là trưởng gia đình”, nên trong thực tế sự bình đẳng giữa vợ và
chồng vẫn chưa được thực hiện. Về việc phân chia tài sản, Luật Gia đình chỉ quy định
phân chia tài sản khi một bên vợ hoặc chồng chết trước mà không thừa nhận việc ly
hôn.12
Trái với Luật HN&GĐ 1959 áp dụng ở miền Bắc và Luật Gia đình, Sắc luật
số 15/64 và BLDS năm 1972 ở miền Nam dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo
sản. Ngoài khối tài sản chung, vợ, chồng cịn có tài sản riêng là bất động sản của vợ,
chồng trước khi kết hôn và bất động sản vợ, chồng được tặng cho, thừa kế riêng trong
thời kỳ hôn nhân. Về quyền lợi của vợ chồng đối với tài sản, người chồng có tồn
quyền quản lý tài sản chung, thậm chí cả tài sản riêng của người vợ (Điều 62 Sắc luật
số 15/64). Về phân chia tài sản, Sắc luật 15/64 chỉ quy định phân chia tài sản khi ly
hôn hoặc ly thân mà không đề cập đến trường hợp phân chia tài sản khi vợ hoặc chồng
chết trước. BLDS năm 1972 quy định phân chia tài sản trong ba trường hợp: vợ chồng
ly thân; ly hôn; một bên vợ hoặc chồng chết. Tài sản được phân chia theo nguyên tắc:

Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
12
Trương Thị Lan (2016), “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014”,
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
11


16


“Tài sản riêng bên nào thuộc quyền sở hữu của bên đó, tài sản chung chia đều mỗi
bên một nửa”.13
Có thể thấy những quy định về chế độ tài sản vợ chồng trong pháp luật dưới
chế độ Ngụy quyền Sài Gịn tương đối cụ thể. Tuy vậy, nhìn tổng thể cả ba văn bản
pháp luật này vẫn bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình, tiếp tục
cổ xúy cho quan hệ bất bình đẳng về tài sản vợ và chồng trong pháp luật và trên thực
tế.
Giai đoạn 1975 đến nay:
Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi đã chấm dứt tình trạng
chia cắt hai miền Nam – Bắc, thống nhất hoàn toàn đất nước sau 21 năm, đưa đến
việc thống nhất xã hội, chế độ chính trị, dân cư và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được đổi tên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tiến lên chế độ chủ nghĩa xã hội. Để phù hợp với tình hình mới của đất nước,
Hiến pháp năm 1980 được thơng qua tại Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 7 ngày
18/12/1980. Điều 64 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Và để cụ thể hóa những ngun tắc hiến
định này, ngày 29/12/1986, Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời cùng với Nghị quyết số
01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986.
Tương tự Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không ghi
nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mà chỉ quy định chế độ tài sản pháp
định áp dụng chung cho các cặp vợ chồng. Điều 14 Luật HN&GĐ 1986 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề
nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung”. Luật HN&GĐ 1986
cũng xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung tại

điều 15: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc
mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà
có giá trị lớn thì phải được sự thỏa thuận của vợ, chồng”.
Bên cạnh đó, Điều 16 Luật HN&GĐ 1986 đã quy định quyền tài sản riêng của
vợ, chồng: “Đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hơn, tài sản được thừa kế
riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hơn nhân thì người có tài sản đó có quyền
nhập hoặc khơng nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”. Đây cũng là điểm mới
của Luật HN&GĐ 1986 so với Luật HN&GĐ 1959. Xuất phát từ thực tiễn của xã hội
với mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như của người thứ ba
Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ,
Trường đại học Luật Hà Nội.
13

17


liên quan đến tài sản sản chung vợ chồng, Luật HN&GĐ 1986 đã quy định bổ sung
thêm về chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại ở Điều 18 và xác
định “nguyên tắc chia đôi tài sản chung” của vợ chồng tại Điều 42.
Như vậy, Luật HN&GĐ 1986 ra đời đã thay thế chế độ cộng đồng toàn sản
bằng chế độ cộng đồng tạo sản; chế độ tài sản pháp định cũng đã được quy định cụ
thể hơn. Tuy nhiên sau hơn 10 năm thực hiện, Luật HN&GĐ 1986 không thể bắt kịp
với sự phát triển kinh tế xã hội đã bộc lộ những hạn chế nhất định: các quy định của
Luật vẫn rất cô đọng, khái quát, định khung; chưa dự liệu hết các trường hợp để giải
quyết tranh chấp phát sinh giữa vợ, chồng nên khi áp dụng vào thực tế nảy sinh nhiều
vướng mắc, khó khăn.
Luật HN&GĐ năm 2000 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày
09/6/2000. Luật gồm 13 chương, 110 điều đã kế thừa, cụ thể hóa nhiều quy định của
Luật HN&GĐ 1986 (có 10 chương và 59 điều); là hệ thống các quy định về chế độ
HN&GĐ trên cơ sở pháp lý là Hiến pháp năm 1992. Nhìn tổng thể, Luật HN&GĐ

năm 2000 kế thừa nhiều nội dung của chế độ tài sản vợ chồng pháp định của Luật
HN&GĐ 1986, đồng thời bổ sung những quy định mới nhằm giải quyết những khó
khăn vướng mắc còn tồn tại mà Luật HN&GĐ chưa giải quyết được.
Luật HN&GĐ 2000 không dự liệu về chế độ tài sản ước định giữa vợ và chồng
vì chế độ này vẫn chưa phù hợp với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam.
Loại chế độ tài sản duy nhất được quy định và áp dụng cho quan hệ tài sản vợ chồng
là chế độ tài sản pháp định. Điểm mới của Luật HN&GĐ 2000 là quy định về việc
đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản chung của chồng, ngun tắc suy đốn tài sản
chung: “Trong trường hợp khơng có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung” (khoản 3
Điều 27); quy định việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình (Điều 28); chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 33; quy định chia tài sản chung của vợ
chồng tại Điều 29.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ 2000 thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản
chung, tài sản riêng từ đó dẫn đến khơng bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người
thứ ba khi tham gia giao dịch dân sự. Đất đai là loại tài sản được chú trọng trong Luật,
còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản doanh nghiệp, tài sản sở hữu trí tuệ vẫn
chưa được đề cập đến. Về nguyên tắc mỗi cá nhân đều có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản riêng của mình; vì vậy việc chỉ áp dụng một chế độ tài sản pháp định
duy nhất không bảo đảm được quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng.14
Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Đại
học quốc gia Hà Nội, Khoa luật.
14

18


×