Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.59 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM CON
NGƯỜI
1. Một vài nét khái quát cơ bản về lĩnh vực bảo hiểm con người
1.1. Các nước trên thế giới
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng, bảo hiểm con người ra đời do
nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo
vệ, được giúp đỡ, được chia sẻ hoạn nạn rủi ro khi tổn thất xảy ra. Trở lại với
thời lịch sử xa xưa khi loài người sống bằng nghề săn bắt, hái lượm; ngay lúc
đó, họ đã biết cách dự trữ những con vật săn bắt được. Đến một giai đoạn phát
triển khá hơn, con người biết chăn nuôi trồng trọt, nhưng sản xuất nông nghiệp
rất bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và lúc đó nhà nông họ đã biết dự trữ
lương thực khi mất mùa.
Quả thật, những hành động dự trữ những con vật rồi cả lương thực khi
mất mùa nó không mang tính đảm bảo chắc chắn cho cuộc sống nhưng nó phần
nào đã thể hiện được ý thức được bảo vệ của con người. Và đây cũng là hình
thức sơ khai của bảo hiểm.
Thuật ngữ “Bảo hiểm con người” trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) con
người được ghi nhận trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (KDBH) của Việt
Nam (với hình thức bảo hiểm nhân thọ là chủ yếu). Trên thế giới, mỗi nước có
thể có các cách gọi khác nhau cho lĩnh vực này và các nước thường đề cập đến
là bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, đối với việc nghiên cứu hình thành và phát triển
của bảo hiểm con người trên thế giới, tác giả xin trình bày sự hình thành và phát
triển của bảo hiểm nhân thọ.
Nếu như trong thời kỳ sơ khai, vấn đề con người quan tâm là nhu cầu ăn,
ở, mặc thì ngày nay khi nhu cầu đó đã được đáp ứng đầy đủ thì những nhu cầu
khác xa hơn, cao hơn trong đó có nhu cầu chăm lo cho tương lai cũng đòi hỏi
phải đáp ứng. Bảo hiểm nhân thọ ra đời là đáp ứng nhu cầu đó. Chúng ta nghiên
cứu lịch sử hình thành và phát triển vảo hiểm nhân thọ ở Anh, Mỹ là hai nước
có ngành bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển nhất thế giới.
Ở Anh:
Sau cách mạng Ánh sáng 1688 Châu Âu chỉ có vương quốc Anh công


nhận tính pháp lý của bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy mà trong suốt ba thập kỷ sau
cách mạng Ánh sáng ở Anh dịch vụ này phát triển mạnh mẽ. Công ty bảo hiểm
nhân thọ ra đời đầu tiên ở Anh (1762). Trong suốt quá trình công nghiệp hoá,
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều bước phát triển. Năm 1879 chính phủ
Anh thông qua “đạo luật bồi thường cho người lao động”. Đạo luật này buộc
các công ty phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động cho nhân viên. Trong thế kỷ 19
người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức
khoẻ cho hội viên. Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ
bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ. Ngày nay các hội kín này
vẫn tiếp tục bảo hiểm cho hội viên, điều này cũng diễn ra tương tự ở hầu hết các
tổ chức của người lao động. Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc
nhiều HĐBH nhân thọ và sức khoẻ cho nhân viên. Các hợp đồng này không chỉ
đơn thuần bảo hiểm nhân thọ mà còn đảm bảo cho nhân viên có cuộc sống ổn
định khi họ bị bệnh, tai nạn hay về hưu. Chính các hình thức này là tiền thân
của loại hình bảo hiểm con người ngày nay. Do có một chiều dài lịch sử phát
triển nên ngày nay Anh vẫn là một trong những thị trường bảo hiểm nhân thọ
lớn nhất thế giới với các công ty bảo hiểm nhân thọ xuyên quốc gia điển hình
như Prudential…
Ở Mỹ:
Bảo hiểm ở Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh. Vào năm
1735 công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Chaleston. Năm 1759
hội nghị giáo hội trưởng lão PhiladenPhia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kì. Ngày 22-5-1761, tập đoàn này đã kí kết
được HĐBH nhân thọ đầu tiên với công chúng Mỹ. Mãi đến 80 năm sau dịch vụ
bảo hiểm nhân thọ Mỹ mới thực sự phát triển. Chìa khoá dẫn đến thành công
chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các
nhóm tôn giáo.
Năm 1835 ở New York đã xảy ra một vụ hoả hoạn đầy tai tiếng. Vụ hoả
hoạn này khiến người dân ở đây lưu tâm nhiều hơn đến nhu cầu phải có nguồn
dự trữ để bù đắp cho những thiệt hại nghiêm trọng không thể lường trước được.

Hai năm sau Massachusetts trở thành bang đầu tiên ở Mỹ sử dụng luật pháp
buộc các công ty phải tích luỹ nguồn dự trữ này.
Từ đó đến nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế ngành bảo
hiểm của nước này cũng phát triển mạnh theo hướng từ một vài công ty ban đầu
trở thành ngành công nghiệp có quy mô lớn. Mặc dù bảo hiểm Hoa Kỳ chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi vương quốc Anh nhưng thị trường bảo hiểm nước này lại
phát triển theo hướng có phần khác với Anh. Và ngày nay lĩnh vực bảo hiểm ở
Mỹ phát triển nhất thế giới.
1.2. Ở Việt Nam
Luật KDBH 2000 ghi nhận thuật ngữ “bảo hiểm con người”, trước đó
trong các nghị định, thông tư ghi nhận thuật ngữ bảo hiểm nhân thọ mà không
hề nhắc đến khái niệm bảo hiểm con người. Vì vậy, chúng ta nghiên cứu sự phát
triển của bảo hiểm con người từ loại hình chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ cho đến
Luật KDBH 2000 (với khái niệm bảo hiểm con người) và sự phát triển của bảo
hiểm con người từ năm 2000 đến nay.
Sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng gắn
với lịch sử đất nước. Nếu lấy năm 1993 với Nghị định 100 CP (18-12-1993) về
KDBH ra đời, thì trước năm 1993 bảo hiểm Việt Nam nói chung không phát
triển. Nguyên nhân là do đất nước trải qua chiến tranh kéo dài và bị chia cắt
thành hai miền khác nhau, mãi cho đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn giải
phóng. Và từ năm 1975 đến năm 1993 là thời kì bảo hiểm độc quyền: chỉ có
công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Đây cũng là thời kì thử nghiệm nên số
nghiệp vụ chưa nhiều, phí bảo hiểm chưa phản ánh đầy đủ xác suất rủi ro.
Có thể nói Nghị định 100 CP ngày 18-12-1993 là mốc đánh dấu sự thay
đổi và phát triển của bảo hiểm Việt Nam. Nghị định quy định về địa vị pháp lí
của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), cho phép sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế vào hoạt động KDBH, trong đó chú trọng đến các nhà đầu tư nước
ngoài để thúc đẩy sự phát triển của bảo hiểm trong nước. Trong Nghị định đã đề
cập đến khái niệm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn con người theo khoản 1
và khoản 2 Điều 7 và đây cũng là những đối tượng của bảo hiểm con người sau

này.
Sau khi Nghị định 100 CP ra đời, để cụ thể hoá sự điều chỉnh của pháp
luật đối với hoạt động bảo hiểm. Bộ tài chính đã ra thông tư hướng dẫn:
Thông tư 46 của Bộ tài chính ngày 30-5-1994 về hướng dẫn thi hành
Nghị định 100 CP của chính phủ về hoạt động bảo hiểm.
Sau Nghị định 100 CP phải kể đến Bộ luật dân sự 1995 có những điều
khoản cụ thể quy định về HĐBH (Nghị định 100 CP chưa đề cập đến). Các quy
định này tương đối có hệ thống, có sự liên kết với các quy định về giao dịch dân
sự. Mặc dù chưa mang tính cụ thể, chi tiết nhưng những quy định của Bộ luật
dân sự là tiền đề quan trọng cho việc áp dụng, thực hiện các quy định của
HĐBH con người sau này.
Nếu chỉ có các quy định của Bộ luật dân sự về HĐBH thì quá chung
chung, không thể đáp ứng các nhu cầu của con người và các vụ tranh chấp sẽ
xảy ra do những quy định không rõ ràng của pháp luật. Từ thực tế đó, để đáp
ứng nhu cầu đảm bảo cho tương lai của con người, Luật KDBH 2000 ra đời với
mục đích “để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham
gia bảo hiểm; đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và
duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân
dân, tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm”.[7] Nội dung chủ yếu và quan trọng của luật là quy định về HĐBH (từ
Điều 12 đến Điều 57), và cũng từ luật này đã ghi nhận HĐBH con người (từ
Điều 32 đến Điều 39). Với chưa đầy 10 điều nhưng luật đã có qui định về đối
tượng, số tiền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các trường hợp không trả tiền
bảo hiểm trong HĐBH con người. Những điều khoản này là căn cứ để ký kết và
thực hiện HĐBH con người.
Khi có những cơ sở pháp lý để cho việc thực hiện HĐBH con người thì
cũng cần phải có đường lối chiến lược đúng đắn, để đáp ứng được yêu cầu đó
Thủ tướng Chính Phủ đã ra quyết định Quyết định 175 / 2003 về phê duyệt “
Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm
đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư, bảo đảm cho các tổ

chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế,
thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế xã
hội, nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”.[9] Giải
pháp được đề cập đến đó là: “Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân
tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
có tính chất đầu tư dài hạn”. Bảo hiểm con người với sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ là chủ yếu đã, đang và sẽ được được chú trọng, quan tâm của Đảng và Nhà
nước.
Sau khi luật KDBH ra đời chính phủ ban hành Nghị định 42/2001 NĐCP
ngày 1/8/2001nhằm quy định chi tiết thi hành Luật KDBH để các quy định này
đi vào cuộc sống.
Bộ luật dân sự 2005 ghi nhận quy định HĐBH, trong đó có hai hình thức
bảo hiểm là bắt buộc và tự nguyện. Tính mạng và sức khoẻ con người là đối
tượng của bảo hiểm tự nguyện. Bộ luật cũng quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ
của các bên và quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng của bên bảo hiểm nếu bên
mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin không đúng về đối tượng bảo hiểm nhằm
giao kết hợp đồng để hưởng tiền bảo hiểm (Điều 577 Bộ luật dân sự)
Tóm lại từ năm 1993 đến nay pháp luật về hợp đồng nói chung và HĐBH
con người nói riêng luôn có sự phát triển để phù hợp hơn với nhu cầu thực tế
của con người, đó cũng là quy luật tất yếu của sự phát triển. Pháp luật hoàn
thiện là cơ sở để hạn chế tranh chấp xảy ra và hợp đồng thực hiện trong thực tế
được thuận lợi.
Từ các quy định của luật thấy rằng HĐBH con người nói chung và
HĐBH nhân thọ nói riêng không phải là một hợp đồng bồi thường. Mục đích
của nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những sự kiện được nêu
trong HĐBH. Xét về khía cạnh vật chất cuộc sống con người là vô giá và rõ
ràng là không phải bất kỳ một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một người
một “giá trị” tương đương với việc mất đi một sinh mạng.
2. Những quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm con người

2.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm con người
* Khái niệm
Trước tiên để đi đến tìm hiểu khái niệm HĐBH con người chúng ta phải
tìm hiểu thế nào là HĐBH. Theo Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: “HĐBH là sự
thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn
bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm”. Từ khái niệm trên cho thấy HĐBH là sự thoả thuận giữa hai bên chủ thể
đó là bên mua bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) và bên bảo hiểm (DNBH)
với điều kiện là bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm để khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm.
Khác với Bộ luật dân sự 2005 Luật KDBH 2000 có mở rộng phạm vi chủ
thể trong HĐBH con người. Theo Điều 12 Luật KDBH thì “HĐBH là sự thoả
thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm”.
Rõ ràng Luật KDBH không chỉ quy định chung chung là DNBH phải trả
một khoản tiền cho bên mua bảo hiểm như Bộ luật dân sự mà chỉ rõ DNBH phải
trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi nghiên cứu
các quy định của HĐBH con người trong các phân tích tiếp theo.
Khác với Việt Nam, Thái Lan là một nước có nền kinh tế phát triển khá
trong khu vực nên lĩnh vực bảo hiểm cũng được chú trọng từ sớm. Các quy định
của pháp luật về bảo hiểm được quy định chủ yếu trong Bộ luật dân sự và
thương mại Thái Lan. Ngay từ năm 1992 Thái Lan có đạo luật bảo hiểm nhân
thọ nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ. Do vậy nếu so
sánh chúng ta sẽ thấy được điểm khác biệt trong các quy định về luật bảo hiểm
giữa hai nước.
Điều 861 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan có khái niệm: “ HĐBH
là hợp đồng trong đó một người đồng ý bồi thường hoặc trả một số tiền trong

trường hợp mất hàng hoặc xảy ra bất cứ sự cố nào trong tương lai quy định
trong HĐBH và người kia đồng ý trả cho việc đó một số tiền gọi là phí bảo
hiểm”. Theo khái niệm trên thì ở Thái Lan việc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra bất
cứ sự cố nào trong tương lai quy định trong HĐBH (Việt Nam là khi có sự kiện
bảo hiểm do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật), nên phạm vi
trả tiền bảo hiểm của Thái Lan mở rộng hơn.
Đó là HĐBH còn HĐBH con người cũng là HĐBH nhưng đối tượng của
nó chỉ liên quan đến tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn con người; vì thế
theo tác giả:
“HĐBH con người là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH để
bảo hiểm cho tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn của người tham gia bảo
hiểm hoặc người được chỉ định trong hợp đồng; theo đó bên mua bảo hiểm phải
đóng phí bảo hiểm và DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
2.2. Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm con người
2.2.1. Hợp đồng bảo hiểm con người là hợp đồng thanh toán có định mức
Đối tượng của bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai
nạn con người. Đó là những thứ vô giá không thể tính toán được, không thể xác
định được chính xác và trên thực tế không bù đắp nổi. Không ai có thể xác định
được tính mạng con người trị giá là bao nhiêu. Vì thế trong HĐBH con người
không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Nghĩa vụ của DNBH ở đây là trả tiền
bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng và không phải là trách nhiệm bồi
thường tổn thất mà là giúp đỡ về mặt vật chất cho người được bảo hiểm. Và
cũng chính từ đối tượng HĐBH con người không thể tính toán được thành tiền
nên số tiền DNBH trả cho khách hàng chỉ có thể là một số tiền được ấn định sẵn
ngay từ khi ký kết hợp đồng. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm bên bảo hiểm sẽ
thanh toán cho bên tham gia bảo hiểm và thường không bị giới hạn bởi nguyên
tắc giá trị thiệt hại giống như HĐBH tài sản và HĐBH trách nhiệm dân sự.
Chính từ đặc điểm này mà người tham gia HĐBH con người khi ký hợp
đồng cần cân nhắc dựa trên mức thu nhập, khả năng tài chính để quyết định số

tiền tham gia phù hợp.
2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm con nguời không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm
trùng và nguyên tắc thế quyền
Điều 44 Luật KDBH có nêu “bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo
hiểm giao kết HĐBH với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối
tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm”
Khoản 2 Điều 44 có quy định: tổng số tiền bồi thường của các DNBH
không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Vì thế mà HĐBH con người
không áp dụng nguyên tắc này. Và một thực tế là đối tượng HĐBH con người
không thể tính toán được thành tiền nên nếu một người tham gia đồng thời
nhiều HĐBH với nhiều DNBH khác nhau thì họ có quyền nhận đầy đủ các
khoản tiền từ các DNBH đó theo thoả thuận trong hợp đồng, chứ không bị giới
hạn về giá trị thiệt hại giống như bảo hiểm tài sản.
Trong HĐBH con người cũng không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Điều
đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả số tiền bảo hiểm,
không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bảo hiểm tương
ứng. Hay nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận nhận được khoản chi
trả thanh toán của công ty bảo hiểm và khoản bồi thường của người thứ ba gây
thiệt hại. Đặc điểm này mang lại lợi ích cho khách hàng khi tham gia HĐBH
con người
2.2.3. Hợp đồng bảo hiểm con người đáp ứng rất nhiều mục đích khác
nhau của người tham gia bảo hiểm
Trước hết đặc điểm này thể hiện ngay trong các loại HĐBH, bởi mỗi đối
tượng của bảo hiểm con người: tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ, tai nạn đều có thể
làm nên một hợp đồng riêng và trong mỗi loại hợp đồng có nhiều sản phẩm
khác nhau ví dụ trong HĐBH nhân thọ thì có bảo hiểm sinh kỳ, tử kỳ,..
Không giống như bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả khi
đối tượng tham gia bảo hiểm gặp sự cố, bảo hiểm con người đáp ứng được rất
nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm như HĐBH hưu trí sẽ

đáp ứng yêu cầu tham gia những khoản trợ cấp đều đặn hàng tháng. Bảo Việt -
tập đoàn tài chính bảo hiểm nhân thọ lớn nhất Việt Nam đã ghi nhận mục đích
của các sản phẩm bảo hiểm hưu trí là “mang đến sức khoẻ và an nhàn cho tuổi
già, đảm bảo khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người, cả nguời đã có và
chưa có bảo hiểm xã hội. Thể hiện lòng hiếu thảo đối với những người thân yêu
hoặc quan tâm đến chính bản thân”.[23] Còn bảo hiểm tử kỳ sẽ giúp người tham
gia bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền khi họ bị tử vong. HĐBH tai nạn
con người giúp người tham gia khắc phục khó khăn khi gặp tai nạn. Chính vì
đặc điểm này của HĐBH con người làm cho hợp đồng này chiếm khối lượng
lớn trên thị trường bảo hiểm, thu hút nhiều người tham gia.
2.2.4. Các loại hợp đồng trong bảo hiểm con người rất đa dạng, phức tạp
Thứ nhất: Trong HĐBH con người có các sản phẩm bảo hiểm khác nhau
rồi mỗi một hợp đồng có sự khác nhau của thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
rồi độ tuổi của người tham gia
Thứ hai: Chủ thể trong HĐBH con người có thể có bốn bên tham gia:
Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đặc điểm này chỉ có duy nhất trong HĐBH con
người và vì thế làm cho hợp đồng này phức tạp hơn.
2.2.5. Hợp đồng bảo hiểm con người chịu ảnh hưởng của những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định
Thật vậy khi điều kiện kinh tế phát triển, áp lực cuộc sống giảm đi, họ
không phải lo cho cuộc sống hàng ngày thì lúc đó họ mới có thể nghĩ đến bảo
hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển (bảo hiểm nhân thọ loại hình chủ yếu của
bảo hiểm con người đã ra đời và phát triển rất lâu) còn những nước kém phát
triển hoặc đang phát triển thì hình thức bảo hiểm này hoặc là chưa có hoặc là
mới bước đầu triển khai. Ngoài ra bảo hiểm con người còn phụ thuộc vào rất
nhiều các yếu tố khác như đường lối chính sách, trình độ học vấn của người
dân…
2.3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm con người
* Theo thời hạn bảo hiểm

HĐBH con người được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người ngắn hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham
gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn ngắn thường là một
năm trở xuống. Người bảo hiểm cam kết thanh toán trợ cấp khi có các rủi ro bảo
hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
+ HĐBH con người dài hạn: Là loại hợp đồng mà trong đó người tham
gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm trong một thời hạn dài thường là trên một
năm cho đến hết đời.
* Theo hình thức bảo hiểm
HĐBH con người cũng được chia ra làm hai loại:
+ HĐBH con người bắt buộc: Là hợp đồng mà theo pháp luật bắt buộc
các đối tượng phải tham gia ví dụ như bảo hiểm tai nạn hành khách.
+ HĐBH con người tự nguyện: Là hợp đồng mà theo đó người được bảo
hiểm hoặc người tham gia bảo hiểm có thể đưa ra rất nhiều nhu cầu bảo hiểm,
còn người bảo hiểm có thể chấp nhận hay không chấp nhận là tuỳ theo sự thoả
thuận và cam kết. Tính tự nguyện khiến người bảo hiểm phải phục vụ tốt hơn,
cung cấp các dịch vụ tốt hơn đến khách hàng.
* Theo rủi ro bảo hiểm
HĐBH con người có các loại sau:
+ HĐBH nhân thọ: Là hợp đồng bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên
quan đến tuổi thọ của con người và được chia ra làm các loại sau:
. HĐBH tử kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm
chết trong thời hạn thoả thuận thì doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH sinh kỳ: Là loại hợp đồng mà theo đó nếu người được bảo hiểm
sống đến hết thời hạn thoả thuận, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng.
. HĐBH hỗn hợp: Là loại HĐBH kết hợp cả hai loại nghiệp vụ bảo hiểm
đó là: bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
+ HĐBH phi nhân thọ: Là loại hợp đồng chỉ liên quan đến các rủi ro như

bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm này không liên
quan đến tuổi thọ của con người.
2.4. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm con người
Để tồn tại và phát triển thì HĐBH con người phải đáp ứng được các mục
đích của người tham gia trong hiện tại cũng như nhu cầu đảm bảo cho tương lai
sau này. Thực tế khi ký kết HĐBH con người có vai trò không chỉ đối với người
tham gia bảo hiểm, DNBH mà còn đối với cả sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.4.1. Đối với người tham gia bảo hiểm
HĐBH con người góp phần ổn định đời sống, là chỗ dựa tinh thần cho
người tham gia cũng như người được hưởng bảo hiểm. Như trên chúng ta đã
biết con người phải lao động để duy trì cuộc sống và chính trong quá trình lao
động con người luôn phải đối mặt với rủi ro. Nếu không may xảy ra rủi ro thì
gia đình không những mất thu nhập mà còn phải bỏ ra rất nhiều chi phí để trang
trải khó khăn. Việc tham gia HĐBH con người sẽ phần nào giải quyết những
khó khăn trước mắt đó.
Trên báo Tiền Phong với nhan đề “Bảo hiểm nhân thọ, sự an tâm là vô
giá” khách hàng đã cho biết “nếu có điều kiện chúng ta nên tham gia bảo hiểm
nhân thọ bởi lẽ nhu cầu bảo vệ tài chính cho gia đình là rất cần thiết. Tất nhiên
chẳng ai mong đợi những điều không may xảy ra, nhưng bảo hiểm sẽ mang đến
sự an tâm cho gia đình trước những bất chắc và giảm gánh lo về tài chính những
lúc ngặt nghèo. Đối với tôi, sự an tâm là vô giá".[15] Sự an tâm giúp con người
vượt qua khó khăn, tiếp tục cuộc sống đảm bảo tương lai sau này.
Tất nhiên trong hiện tại có rất nhiều hình thức khác nhau có thể đảm bảo
cho cuộc sống hiện tại cũng như tương lai nhưng bảo hiểm con người luôn góp
phần không nhỏ vào sự đảm bảo ấy (tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm
chuyển những rủi ro của mình mình cho DNBH).
2.4.2. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Mỗi doanh nghiệp có những ngành nghề kinh doanh nhất định, có những
ngành gây nguy hiểm cao cho cuộc sống con người, có những ngành gây nguy
hiểm chỉ ở một chừng mực nào đó. Cho dù ở mức độ nào đi nữa thì rủi ro, tai

nạn lao động luôn luôn là nguy cơ tiềm ẩn và nó ảnh hưởng không những đến
sản xuất kinh doanh do thiếu lao động mà quan trọng hơn là ảnh hưởng đến khả
năng tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy tham gia HĐBH con người góp phần
ổn định tài chính và sản xuất cho doanh nghiệp.
Hơn thế nữa các chủ sử dụng lao động thường mua bảo hiểm sinh mạng
cho người làm công, việc này không những đảm bảo cuộc sống ổn định cho
người lao động mà còn tạo nên sự gắn bó giữa chủ sử dụng và người làm công
ăn lương (đây là điều kiện thúc đẩy sản xuất).
Đó là đối với doanh nghiệp nói chung còn đối với DNBH nói riêng việc
tham gia HĐBH con người của khách hàng sẽ góp phần tăng doanh thu, mở
rộng quy mô hoạt động để cung cấp thêm nhiều sản phẩm cho con người. Đây

×