Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.9 KB, 12 trang )

KHáI QUáT CHUNG Về BảO HIểM Xã HộI
I. TổNG QUAN Về BảO HIểM Xã HộI
1. Bản chất cuả bảo hiểm xã hội.
Cho đến nay cha có một định nghĩa chính thống về bảo hiểm xã hội
(BHXH). Các nớc trên thế giới có xu hớng chung là thực hiện hệ thống an toàn
xã hội mà trong đó BHXH là một trong những cơ chế chủ yếu. Do vậy, thờng tập
chung vào định nghĩa về an toàn, còn BHXH chỉ đợc phân biệt với các cơ chế
khác trong hệ thống bằng những đặc trng cơ bản của BHXH.
Theo tổ chức lao động thế giới (ILO), BHXH đợc hiểu là sự bảo vệ của xã
hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng
(bằng pháp luật, trách nhiệm của chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về
kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra do ốm đau, do mất
khả năng lao động, do tuổi già, do tàn tật, do chết.
Bảo hiểm xã hội đợc định nghĩa nh vậy phản ánh tổng quan về mục tiêu,
bản chất và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hớng
tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi vật
chất trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi ng-
ời.
Với những cách tiếp cận khác nhau ta có những định nghĩa khác nhau về
BHXH, sau đây là một trong những khái niệm đó đợc đánh giá là phản ánh khá rõ
nét về bản chất của BHXH.
BHXH là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa Nhà nớc với ngời
lao động và ngời sử dụng lao động. Là sự đảm bảo thay thế bù đắp một phần thu
nhập đối với ngời lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động, và gia đình họ, góp phần đảm bảo an
toàn xã hội.
Nh vậy, có thể thấy bản chất của BHXH là quá trình tích luỹ dần do sự đóng
góp của các bên tham gia và đặt dới sự điều tiết của Nhà nớc nhằm đảm bảo thu
nhập cho những nhu cầu thiết yếu của ngời lao động và gia đình họ khi gặp những
biến cố xảy ra làm giảm hoặc mất thu nhập.


Dới góc độ kinh tế.
BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp trong đó: Đối với những ngời hởng
chế độ BHXH thì đó là sự đảm bảo thu nhập, đảm bảo cuộc sống khi họ gặp khó
khăn do bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến giảm hay mất thu nhập,
thông qua việc tích luỹ dần của cá nhân trong quỹ BHXH và sự đóng góp của số
đông những ngời có cùng khả năng gặp rủi ro nh nhau. Trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, hoạt động BHXH mang nội dung của quá trình phân phối lại
một phần thu nhập trong dân c thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH,
một quỹ tiền tệ tập trung, có quy mô lớn và ngày càng tăng lên. Khi có sự phát
triển của thị trờng tài chính và nếu đợc sự quản lý, quỹ BHXH còn có khả năng
sinh lời từ đầu t hợp pháp khác nhau. Việc sử dụng quỹ BHXH để đầu t sinh lời đ-
ợc thấy dõ trong các nớc có nền kinh tế thị trờng phát triển. Hiện tại BHXH Việt
Nam bắt đầu thực hiện hoạt động nay nh dùng quỹ để mua trái phiếu, cho Chính
phủ vay Trong tơng lai, việc sử dụng quỹ BHXH vào các hoat động đầu t cũng
sẽ đợc mở rộng với nhiều hình thức khác nhau. Kinh tế càng phát triển thì BHXH
ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH
hay BHXH không vợt quá trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
Về phơng diện chính trị:
BHXH là sự liên kết giữa những ngời lao động khác nhau trong xã hội cũng
vì lợi ích trung của cộng đồng, trong đó có cá nhân tham gia BHXH. BHXH cũng
phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với mỗi quốc gia đây còn
là những hoat động thể hiện thái độ trách nhiệm của chính phủ đối với ngời dân
trong xã hội. Trong rất nhiều nớc, sự không ổn định hay khủng hoảng của hệ
thống BHXH có tác động rất mạnh đến hệ thống chính trị của các nớc đó chính vì
vậy mà chính sách BHXH lằm trong hệ thống trung của các chính sách về kinh tế
xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong những bộ phận hữu cơ trong
hệ thống chính sách quản lý đất nớc của các quốc gia.
Vế măt xã hội:
BHXH đợc xem nh là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho ngời dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó bảo vệ và phát

triển nguồn lao động xã hội, mở rộng xản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự
xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con
ngời trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an toàn xã hội và có ý nghĩa xã hội
lâu dài. Mối quan hệ giữ các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa ba bên: Ngời lao động, chủ sử dụng lao đông và BHXH.
Nh vậy tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên một quan
điểm tổng thể, toàn diện. BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất
định và phải dựa trên nền tảng kinh tế cụ thể. BHXH không phải là loại hình bảo
hiển cá nhân hay cá nhân tự bảo hiển mà đó là sự bảo hiểm đặt trong những dàng
buộc giữ những con ngời với nhau trong những mối quan hệ nhất định trong cộng
đồng, mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là nhu cầu của mỗi con ngời.
2.Sự cần thiết của BHXH.
Con ngời muốn tồn tại và phát triển luôn cần phải thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu về vật chất và tinh thần và để thoả mãn các nhu cầu đó con ngời phải lao
động, sáng tạo sản xuất ra các sản phẩm. Tuy nhiên, con ngời không phải bao giờ
cũng gặp thuận lợi, có đủ thu nhập và điều kiện sinh sống mà rủi ro luôn đi kèm
với con ngời. Trong nhiều trờng hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm cho ngời lao động
bị giảm hoặc mất thu nhập nh đau ốm, tai nan lao động, già yếu Khi rơi vào các
trờng hợp đó các nhu cầu cần thiết của cuộc sống con ngời không vì thế mà giảm
đi hoặc mất đi thậm chí còn tăng lên hoặc phát sinh những nhu cầu mới nh chi phí
khám chữa bệnh khi ốm đau xảy ra. Bởi vậy, muốn duy tri đảm bảo cuộc sống ng-
ời lao động đòi hỏi phải có nguồn thu nhập thay thề hoặc bù đắp.
Khi nền xản xuất hàng hoá phát triển, sản xuất mang tính chuyên môn hoá
cao thì quan hệ thuê mớn lao động ra đời và ngày càng phát triển. Nhng ngời làm
công phải hoàn toàn dựa vào tiền lơng làm nguồn sống chủ yếu khi ốm đau, tai
nạn, sinh đẻ thì phải nghỉ việc và không có lơng cuộc sống bị đe doạ. Ngời lao
động đã ý thức đợc sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp rủi ro tai
nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập
nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau thai sản Lúc đầu
giới chủ cảm kết đảm bảo cho ngời lao động những khoản thu nhập nhất định đó.

Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc ngời chủ phải chi ra những khoản tiền
lớn mà họ không muốn. Do vậy, giới chủ đã chi nhiều hơn nên xuất hiện mâu
thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn ngày càng gay gắt.
Đứng trớc tình cảnh đó Nhà nớc là ngời thứ ba đứng ra giải quyết mâu thuẫn
đó và điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ, cụ thể: Yêu cầu cả giới chủ và giới thợ phải
đóng góp những khoản tiền nhất định để hình thành quỹ đồng thời nhà nớc hỗ trợ
một phần để giúp các bên giải quyết khó khăn.
Từ đó, cả giới chủ và thợ đều đợc đảm bảo và họ thấy có lợi các nguồn đóng
góp của giới chủ, thợ và sự hỗ chợ của Nhà nớc hình thành nên quỹ tiền tệ tập
trung - quỹ BHXH.
Nh vậy BHXH ra đời là một đời hỏi khách quan của thực tế ngày càng phát
triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia, mọi thành
viên trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi
và nhu cầu của ngời lao động.
3. Tác dụng của BHXH.
BHXH là một chính sách lớn của đảng và Nhà nớc do Nhà nớc thống nhất và
quản lý. Từ khi BHXH xuất hiện đến nay, hoạt động vừa mang tính kinh tế vừa
mang tính cộng đồng lớn điều này cũng có nghĩa là dù kinh tế có phát triển đến
mức độ nào dù có biến động nh thế nào về thể chế chính trị thì bản chất của
BHXH vẫn không thay đổi , vẫn là một trong những chính sách quan trọng của
một quốc gia. BHXH có những tác dụng sau:
Một là: Thay thế hoặc bù đắp một bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động
giúp họ ổn định cuộc sống.
Mục đích lớn nhất của BHXH là đảm bảo cuộc sống ổn định cho ngời lao
động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro giảm hoặc mất lao động hoặc mất việc làm.
Bảo vệ và tăng cờng sức khoẻ cho ngời lao động góp phần tái sản xuất giản đơn
sức lao động cho ngời lao động. Giúp ngời lao động nhanh chóng trở lại làm việc
góp phần tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp và tổng sản phẩm quốc dân.
Hai là: Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động với ngời sử dụng lao động giữa ngời
lao động với xã hội.

Trong thực tế lao động sản xuất, ngời lao động và ngời sử dụng lao động vốn
có những mâu thuẫn tồn tại, khách quan về tiền lơng, tiền công, thời gian lao
động Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ đợc điều hoà và giải quyết. Đặc
biệt, cả giới chủ và giới thợ đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và đợc bảo vệ.
Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích nhau. Mặt khác đối với xã hội
và Nhà nớc thì chi cho BHXH là biện pháp mang lại hiệu quả cao xong lại tiết
kiệm nhất.
Ba là: Phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia BHXH.
Cũng giống nh tất cả các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên
nguyên tắc lấy số đông bù số ít vì vậy ngời lao động bình đẳng trong nghĩa vụ
đóng góp cũng nh quyền lợi nhận đợc từ quỹ BHXH. BHXH thực hiện phân phối
lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang.
- Theo chiều dọc là phân phối lại giữa thế hệ lao động trớc và lao động sau,
giữa nghành nghề ra đời trớc và nghành nghề ra đời sau.
- Theo chiều ngang: Đảm bảo sự bình đẳng giữa những ngời có thu nhập cao
và những ngời có thu nhập thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh đang làm việc và
những ngời ốm đau bệnh tật, giữa những ngời đang có thu nhập và những ngời
tạm thời bị mất các nguồn thu nhập do bị ốm đau, bệnh tật thực hiện chức năng
phân phối lại, BHXH cũng đồng thời góp phần thực hiện công bằng xẵ hội.
Bốn là: BHXH tập chung đợc nguồn vốn lớn cho phát triển sản xuất.
Quỹ BHXH có thể có số d và phần quỹ nhàn rỗi đợc đa vào đầu t cho các ch-
ơng trình kinh tế, xã hội, vừa đóng góp vào xây dựng đất nớc vừa làm quỹ lớn
mạnh. Trong điều kiện hiện nay hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngoài ra, BHXH còn có tác dụng làm cho ngời lao động gắn bó hơn với
công việc, sống và làm việc có trách nhiện hơn đối với chính mình, đối với cộng
đồng. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất, hiệu quả làm
việc của ngời lao động.
4. Đối tợng và nguyên tắc của BHXH.
a. Đối tợng của BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do

ngời lao động bị giảm, bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các nguyên
nhân rủi ro nh ốm đau, tai nạn lao động, già yếu Chính vì vậy, đối tợng của
BHXH chính là thu nhập của ngời lao động bị biến động giảm hoặc mất đi, do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những ngời tham gia BHXH.
Đối tợng tham gia của BHXH là những ngời lao động và những ngời sử dụng
lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nớc mà đối
tợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận của những ngời lao động nào đó.
Hầu hết các nớc khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với
các viên chức Nhà nớc, những ngời làm công hởng lơng, Việt Nam cũng không v-
ợt ra khỏi thực tế này mặc dù biết rằng nh vậy là không bình đẳng giữ tất cả
những ngời lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ rằng buộc trong BHXH, ngoài ngời lao động
còn có ngời sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dới sự bảo trợ của Nhà nớc. Ng-
ời sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm
cho ngời lao động mà họ sử dụng lao động. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp
của ngời sử dụng lao động và ngời lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng
quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với ngời lao động. Mối quan hệ
rằng buộc này chính là đặc trng riêng của BHXH nó quyết định sự tồn tại, hoạt
động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
b. Các nguyên tắc của BHXH.
Lĩnh vực BHXH liên quan đến rất nhiều đối tợng, có phạm vi hoạt động rất
rộng và thể hiện trên nhiều mặt khác nhau. Để thực hiện chức năng này là đảm
bảo an toàn cho ngời lao động, khuyến khích cho ngời lao động trong quá trình
làm việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội, hoạt động này
phải tuân theo nguyên tắc nhất định.
*. Đảm bảo các thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và hởng quyền
lợi về BHXH.
Yêu cầu này xuất phát từ tính bình đẳng của mọi công dân trong xã hội.
Thực hiện yêu cầu này là sự đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội, trớc hết là
những ngời có nhu cầu tham gia vào lĩnh vực BHXH. Nhà nớc với t cách là nhà

quản lý toàn bộ và đại diện quền lợi của mọi thành viên trong xã hội, có trách
nhiệm đứng ra tổ chức hệ thống BHXH để đáp ứng nhu cầu đó. Việc đảm bảo nhu
cầu này phải đợc thực hiện trên cơ sở một hệ thống pháp luật với những quy định
pháp luật và chính sách phù hợp. Đồng thời phải dựa trên cơ sở một hệ thống tổ
chức BHXH phát triển thống nhất và hoạt động có hiệu quả cao. Còn có một bộ
phận lớn cha tham gia BHXH chứng tỏ những hạn chế của hệ thống BHXH trong
việc thực hiện nguyên tắc này, đây là một vấn đề cần đợc giải quyết ở nớc ta trong
thời gian tới.
*. BHXH vừa mang tính bắt buộc vừa mang tính tự nguyện.
Trớc hết BHXH phải mang tính bắt buộc, đó là quá trình tiến tới xã hội hoá
hoàn toàn BHXH và ở đây thể hiện rõ nhất vai trò của Nhà nớc trong lĩnh vực này.
Tính bắt buộc ở đây thể hiện ở trong nghĩa vụ tham gia và đóng góp, bao gồm
mức tiền đóng và thời gian tham gia theo mỗi chế độ của BHXH.
Mặt tự nguyện trong một chừng mực nhất định là việc tạo cơ hội cho ngời lao
động có nguyện vọng có thể có cơ hội và tự nguyện tham gia hay lựa chọn các
hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp. Thực tế ở đây cần có sự khuyến khích
để ngời lao động tham gia vào BHXH. Tính tự nguyện phụ thuộc rất nhiều vào
nhận thức, ý thức của ngời lao động trong xã hội, nó có thể thực hiện cho nhiều
đồi tợng và theo các hình thức khác nhau nh tự nguyện tham gia vào một loại hình
nào đó, nhất là những ngời thuộc đối tợng bắt buộc, đã tham gia vào BHXH nhng
tự nguyện tham gia thêm một chế độ nào nếu thấy có thể đợc và có nhu cầu.
*. Xác định mức đóng và hởng.
Tuỳ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế và của lĩnh vực BHXH mà
có thể xác định một số mức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng về BHXH
của ngời lao động. Mức đóng BHXH có thể liên quan đến thu nhập dùng để tính
tỷ lệ đóng BHXH. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu, thiết kế các chính
sách và nội dung của từng chế độ cụ thể thích hợp trong BHXH.
*. Đảm bảo tính công bằng trong xã hội.
Đây là một nguyên tắc quan trọng nhng cũng rất phức tạp trong xây dựng và
thực hiện chính sách về BHXH. Sự công bằng trớc hết phải đợc xét đến những

mối quan hệ giữa đóng góp và hởng thụ. Ngời đóng nhiều phải đợc hởng nhiều
hơn. Công bằng còn phải đợc thực hiện trong việc để cho ngời lao động có cơ hội
tham gia vào BHXH. Tuy nhiên, cũng nh các lĩnh vực bảo hiểm khác trong nhiều
chế độ của BHXH vẫn mang tính chất bù trừ cho nhau giữa những ngời cùng tham
gia BHXH. Đó là lấy số đông bù số ít, lấy thời gian dài trong đóng góp để tính trả
cho thời gian hởng. Đó cũng là tính xã hội, tính cộng đồng.

×