GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ
1.1 Sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ:
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm cháy:
Trong cuộc sống và sinh hoạt hằng ngày, cũng như các hoạt động sản
xuất, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường
trước được, một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vô cùng tốn kém
và khó khăn, gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo hiểm ra
đời như một tất yếu khách quan nhằm san sẻ những rủi ro trong xã hội, sự san sẻ
giữa con người với con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như sản xuất kinh
doanh khi rủi ro ập đến.
Quá trình tồn tại và phát triển loài người luôn phải đối mặt với những rủi ro,
thảm họa xảy ra bất ngờ trong đó cháy được coi là một trong những rủi ro nguy
hiểm nhất. Nó thường mang tính chất thảm họa và khi xảy ra hậu quả để lại rất
nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ.
Theo lịch sử để lại từ thời Phục Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ
thống phòng cháy hữu hiệu nào hơn hệ thống sử dụng từ thời các hoàng đế La
Mã trị vì. Ở các thành phố lớn và thị trấn, nhà nào cũng phải dự trữ các xô đầy
nước. Vào ban đêm đội tuần tra đi dọc các phố hễ thấy nhà nào có nguy cơ cháy
là họ báo ngay cho chủ nhà. Nếu có hỏa hoạn xảy ra thì thì thiệt hại từ cháy có
thể được phường hội giúp đỡ với điều kiện họ phải là hội vên. Tuy nhiên khoản
trợ giúp này chỉ mang tính chất động viên khích lệ chứ chưa thể coi là một
khoản bồi thường thực sự. Phường hội đầu tiên theo kiểu này do các nhà buôn
thành phô Rowen (Pháp) thành lập năm 1374 trong nhà thờ Saint Ptree. Nhưng
thời bấy giờ dân chúng vẫn có tư tưởng xem hỏa hoạn là rủi ro không thể tránh
khỏi cũng như nạn đói, chiến tranh và các bệnh dịch khác…
Sự xuất hiện của bảo hiểm cháy nổ được đánh dấu bằng vụ cháy thảm
khốc ở Luôn Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có
hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ
được, lúc ngày người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ
thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó
những nhà khinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa
hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hỏa hoạn như : Một
số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm cháy “ Fire
Office ” (năm 1667) , năm 1684 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên ra đời là
công ty “ Friendly Society ” sau đó hang loạt các công ty bảo hiểm khác đã ra
đời: “ Hand and Hand ” năm 1696, “ Lom Bard House ” năm 1704… Nước
Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo
hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập là “ Company L’assurance Centree
L’incendie” và “ Company Royade” và dần lan rộng sang các nước khác trên
lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn được tiến hành ở hầu
hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển.
Ở Việt Nam trước năm 1945 đã có mộ t công ty BH cháy của Pháp hoạt
động. Tuy nhiên do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại
nhằm đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi họ không may gặp rủi ro. Vì
vậy BH nói chung và BH cháy nói riêng không có điều kiện phát triển. Phải đến
tận khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ chế tự hạch toán kinh
doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về tài chính, về thiệt
hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của Bộ Tài
Chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ này mới chình thức
được công ty Bảo Hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) triển khai và phát triển.
Sau một thời gian thực hiện để phù hợp với tình hình thực tế, Bộ Tài
Chính ban hành them một số quyết định khác đối với nghiệp vụ BH cháy: quyết
định số 142/TCQĐ về quy tắc và biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày
12/4/1993 thay thế biểu phí quyết định 142 và mới nhất là quyết định số
28/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 về quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy bắt
buộc. Việc Chính Phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ- CP ngày 8/11/2006
quy định về chế độ BH cháy nổ bắt buộc kèm theo quyết định số 28 của Bộ Tài
Chính về quy tác và biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đã tạo cơ sở pháp lý
đầu tiên để Bảo Việt cũng như các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp vụ
cháy.
Từ năm 1990, nước ta đã có 16 công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
cháy với giá trị tham gia bảo hiểm lên đến 6.200 tỷ đồng. Đến năm 1994 bảo
hiểm cháy được thực hiện ở hầu hết 53 tỉnh thành phố, them nhiều công ty triển
khai như : PJICO, PVI, Bảo Minh… với tổng giá trị bảo hiểm là gần 28.000 tỷ
đồng. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng 16% so với
năm 1999. Ngày càng có nhiều công ty tham gia cung cấp các sản phẩm bảo
hiểm hỏa hoạn, gần đây có các công ty như: AAA, BIC… làm cho thị trường
bảo hiểm hỏa hoạn đa dạng và phong phú, tăng tính chất cạnh tranh từ đó nâng
cao được chất lượng sản phẩm.
Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn ngày được triển khai rộng khắp,
mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp vụ
này. Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế xã hội.
1.1.2 Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc:
Điều 8, Luật kinh doanh bảo hiểm có ghi rõ: “ …Bảo hiểm bắt buộc chỉ
áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng
và an toàn xã hội”. Theo quy định này thì chỉ những thiệt hại gây hậu quả cho
lợi ích của người khác hoặc của xã hội mới thuộc phạm vi bảo hiểm bắt buộc.
Do đó loại bảo hiểm này chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Thực hiện bắt
buộc loại bảo hiểm này giúp giải quyết tốt các tranh chấp khi xảy ra tai nạn làm
thiệt hại cho người khác hoặc của Nhà nước. Nó đáp ứng được nhu cầu hội nhập
khi văn hóa khiếu nại sẽ là phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp giữa các
bên. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đã ban hành nghị định 130/CP-NĐ quy định
các doanh nghiệp, cơ sở có nguy cơ cháy nổ bắt buộc phải tham gia bảo hiểm
cháy… Vì sao lại có quy định này khi mà đối tượng của bảo hiểm cháy nổ là tài
sản riêng của một số cá nhân, đơn vị, và nếu họ không gây thiệt hại cho ai khác
ngoài bản thân thì họ không phát sinh trách nhiệm gì với xã hội. Trên thực tế
các nước chủ yếu áp dụng bảo hiểm cháy nổ dưới dạng tự nguyện, nhưng đối
với những cơ sở kinh tế trọng điểm, tập trung như nhà máy điện, lọc dầu,
ciment… thường áp dụng bảo hiểm bắt buộc. Bởi chẳng may gặp rủi ro và xảy
ra tổn thất lớn sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc dân. Do đó tham
gia bảo hiểm cháy nổ như một hình thức đảm bảo an toàn xã hội. Hiện nay, các
quốc gia duy trì qui trình bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại khu vực Châu Á là Thái
Lan, Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở Hong Kong, Đài Loan, Philipin,
Singapore không bắt buộc. Tại Việt Nam, tất cả các cơ sở được coi là có nguy
cơ cháy nổ, như đã quy định tại Nghị định 35/NĐ-CP của Chính Phủ về PCCC,
đều là đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Những đối tượng này tập
trung vào bắt buộc nhóm lớn :
• Nhóm có sản xuất, chế biến, vận chuyển, tang trữ, xuất nhập khí, chất
nổ, khí đốt, xăng dầu…
• Nhóm nhà máy điện, trạm biến áp từ 110KV trở lên.
• Nhóm địa điểm công cộng, tập trung dân cư cao…( chợ, trung tâm
thương mại, nhà tập thể, chung cư, rạp hát, rạp chiếu phim, nhà ga…).
Vậy đối tượng của bảo hiểm cháy nổ không chỉ là những cơ sở có nguy cơ
cháy nổ cao mà còn có khả năng gây thiệt hại mang tính thảm hỏa đối với xã
hội. Chính từ đặc điểm này đã giải thích phần nào về ý nghĩa của sự bắt buộc
trong bảo hiểm cháy nổ. Cháy xảy ra tại các cơ sở sản xuất vật liệu cháy nổ, tại
các cơ sở khai thác chế biến dầu mỏ, hay kho vật liệu nổ… đều có khả năng
cháy rộng và cháy lớn rất cao. Hơn nữa, do các cơ sở trên là những cơ sở có vai
trò quan trọng hàng đầu với các nghành kinh tế, nên rủi ro xảy ra dẫn tới sự trì
trệ không chỉ của riêng nghành đó mà còn có thể ảnh hưởng đến các nghành
khác có liên quan.
Do đó thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc xuất phát từ mục đích bảo hiểm
vệ lợi ích công cộng và an toàn cho xã hội. Bởi vậy ngày nay với sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế, cơ sở kinh doanh, trụ sở của các doanh nghiệp
không ngừng lớn mạnh, hơn nữa với tốc độ đô thị hóa cao mật độ nhà cửa, dân
cư trên mỗi m2 ngày càng dày đặc. Theo số liệu thống kê mà Tổng cục thống kê
công bố vào tháng 7 năm 2002, đến năm 1995 bình quân mỗi Km2 có 6,2 cơ sở
kinh tế, năm 2002 là 8,8 cơ sở; đến nay con số này có thề là 11 cơ sở. Vì vậy,
cháy nổ xảy ra sẽ là thảm họa chung của cả xã hội, không còn là vấn đề riêng
của mỗi cá nhân doanh nghiệp.
Thực hiện quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc sẽ mang lại rất nhiều lợi ích
đối với nhà nước, với doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm nói
riêng:
Thứ nhất, đối với nhà nước và xã hội thực hiện cháy nổ bắt buộc tạo ra
những lợi ích sau:
• Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc gián tiếp nâng cao tinh thần trách
nhiệm phòng cháy chữa cháy trong xã hội. Trước khi tham gia bảo
hiểm cháy nổ bắt buộc, cơ sở và doanh nghiệp buộc phải sở hữu giấy
chứng nhận đạt tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy. Do vậy, đây là cơ
hội để chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc một lần nữa công tác
PCCC.
• Tăng thu ngân sách: Do doanh nghiệp bảo hiểm tăng doanh thu từ chi
phí bảo hiểm cháy nổ, lợi nhuận tăng, kết quả là thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp nhiều hơn.
• Bảo hộ nghành kinh tế bảo hiểm trước tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế. Hiện nay, tại Luật kinh doanh bảo hiểm bắt buộc phải xin phê
duyệt của cơ quan quản lý là Bộ Tài chính. Luật cũng quy định các
doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài được phép
bán sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nói chung, chứ không nói rõ là
trong lĩnh vực nào. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có doanh nghiệp bảo
hiểm nào trong khối này ( có vốn đầu tư nước ngoài ) được phép bán
bảo hiểm bắt buộc. Như vậy, rõ rang qui định chế độ bảo hiểm cháy
nổ bắt buộc đã tạo ra lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước. Nó tạo
ra sự giới hạn sân chơi cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
trước thị trường bảo hiểm cháy nổ đầy hấp dẫn. Đây sẽ là bước đệm
để tăng cường hơn nữa nội lực của các doanh nghiệp, tạo ra vị thế
vững chắc cho các doanh nghiệp trước thời điểm hiệp đinh thương mại
Việt- Mỹ và các cam kết quốc tế, cam kết WTO về lĩnh vực bảo hiểm
chính thức được dỡ bỏ.
• Giảm chi ngân sách cho hoạt động chi PCCC. Để PCCC hàng năm,
ngân sách nhà nước dành cho công tác này là khá lớn. Số tiền đó được
chi cho các hoạt động như tuyên truyền, quảng bá về sự cần thiết của
PCCC, hoặc tài trợ cho cơ quan PCCC thực hiện các dự án xây dựng
các công trình như bể chứa nước ngầm, tăng cường trạm bơm công
cộng…; tăng cường trang thiết bị cho lực lượng PCCC; đầu tư cho
giáo dục tại các trường đại học và cao đẳng về PCCC… Doanh nghiệp
bảo hiểm khi thực hiện bảo hiểm cháy nổ cho các đối tượng có nguy
cơ cháy nổ, vì lợi ích của chính mình cũng sẽ thực hiện những biện
pháp trên, phần nào đó đã giảm bớt gánh nặng cho nhà nước. Ngoài ra
với nghĩa vụ phải trích một quỹ khá lớn cho các khoản chi PCCC, như
vậy ngân sách dành cho công tác PCCC có thể cắt giảm…
• Giảm nguy cơ cháy nổ, từ đó gián tiếp bảo hiểm vệ môi trường sống:
Do nhà bảo hiểm có những chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn về quản
trị rủi ro, nên khi tham gia bảo hiểm, các cơ sở và doanh nghiệp sẽ
nhận được những ý kiến hữu ích nhất cho công tác PCCC. Để xảy ra
tình trạng cháy sẽ gây tác hại không lường tới chủ doanh nghiệp, xã
hội, và công ty bảo hiểm (do bồi thường). Do đó, vì ích lợi của chính
mình, doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn phải chủ động trong công tác
PCCC tại các cơ sở. Biện pháp mà các doanh nghiệp áp dụng ngoài tư
vấn còn có cử cán bộ thường xuyên xuống cơ sở thực hiện kiểm tra
giám sát hoạt động… Hạn chế được số vụ cháy, nổ tức là hạn chế
lượng khí độc hại CO2 thải ra môi trường, như vậy đã góp phần giảm
bớt sự ô nhiễm.
• Sự bắt buộc sẽ tạo ra một xã hội an toàn hơn, bởi tất cả các cơ sở
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, khi bị tổn thất sẽ nhanh chóng nhận
được tiền bồi thường đầy đủ, từ đó khôi phục nhanh chóng hoạt động
của chính mình. Nếu không có bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, sẽ có rất
nhiều người không nhận thức hết sự nghiêm trọng của vấn đề…
Thứ hai: Ích lợi của sự bắt buộc tham gia bảo hiểm cháy nổ đối với doanh
nghiệp và cơ sở:
• Tạo ra động lực mạnh hơn khi tham gia bảo hiểm. Vì bắt buộc, doanh
nghiệp để tránh những phiền phức nhất định, sẽ đặt biệt chú ý đến việc
tham gia bảo hiểm cháy nổ. Không có sự bắt buộc, chủ doanh nghiệp
có thể vì những lý do khác nhau trì hoãn việc mua bảo hiểm …
• Hoàn thiện hành lang pháp lý cho công tác thực hiện nghiệp vụ bảo
hiểm cháy nổ, từ đó tạo ra sự minh bạch hơn nữa trong thực hiện bảo
hiểm cháy nổ… Trước khi có nghị định 130/NĐ-CP, nghiệp vụ này đã
được qui định bắt buộc tại Luật PCCC và Luật bảo hiểm, song các quy
định và chế tài trong áp dụng còn rất sơ sài. Hiệu quả áp dụng không
cao, do vậy sau văn bản quy phạm pháp luật này, hệ thống các văn bản
về cháy nổ, bảo hiểm cháy nổ đã đầy đủ hơn, góp phần bảo vệ tốt nhất
quyền lợi cho người tham gia. Có đầy đủ cơ sở cho khiếu kiện hơn…
• Tạo điều kiện cho DN được tiếp cần với tất cả những tác dụng của bảo
hiểm cháy, như đã trình bày…
Thứ ba, đối với doanh nghiệp bảo hiểm
• Tốc độ tăng doanh thu phí lớn hơn tốc độ tăng chi phí kinh doanh:
Không chỉ doanh nghiệp bảo hiểm cần tới sự tham gia bảo hiểm của
doanh nghiệp, cơ sở mà chính những đối tượng này, để tránh bọ phạt
hành chính, tước giấy phép hoạt động… sẽ phải tìm tới các doanh
nghiệp bảo hiểm… Như vậy, khách hàng tăng, trong khi chi phí cho
khai thác có thể không tăng hoặc tăng không nhiều.
• Sự bắt buộc tạo ra lợi thế hơn hẳn của các doanh nghiệp bảo hiểm
trong nước đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Cho đến nay,
chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nào được cấp phép
kinh doanh bảo hiểm bắt buộc, trong khi đó thị trường bảo hiểm cháy
nổ rất tiềm năng.
• Ngoài các doanh nghiệp bảo hiểm, còn có các cơ quan hữu quan khác
tham gia vào thực hiện giám sát việc thực hiện bảo hiểm cháy nổ, như
công an, cơ quan PCCC, địa phương… Như vậy gánh nặng của doanh
nghiệp bảo hiểm đã được chi nhỏ và san sẻ.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc:
1.2.1 Cơ sở pháp lý:
Luật dân sự quy định chung về hoạt động bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm … đây cũng là cơ sở của hoạt
động bảo hiểm cháy, nổ.
Luật phòng cháy chữa cháy có hiệu lực từ ngày 29/06/2001 tại điều 9 –
Bảo hiểm cháy nổ quy định “Cơ quan, tổ chức và cá nhân có cơ sở nguy hiểm
về cháy, nổ phải thực hiện bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ sở
đó…”
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam ngày 09/12/có quy định “ Bảo
hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về phí bảo hiểm, mức phí
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm va
doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện.
Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng bởi một số loại bảo hiểm nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội.
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm
của người vận chuyển hàng không đối với khách.
b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật.
c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
d) Bảo hiểm cháy nổ.
Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội tưng thời kỳ, Chính Phủ trình
Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.” ( Điều 8 –
Luật Bảo hiểm)
• Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 18/11/2006 quy định chi tiết thi
hành chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo Luật PCCC và Luật kinh
doanh Bảo hiểm.
• Thông tư lien tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/04/2007 hướng
dẫn chi tiết về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tài sản của cơ
sở phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, trách nhiệm của doanh nghiệp
bảo hiểm trong việc trích lập kinh phí cho hoạt động PCCC và cơ chế
quản lý, cấp phát, thanh toán quyết toán nguồn kinh phí này.
• Quyết định số 28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc và
Biểu phí bảo hiểm hiểm cháy nổ bắt buộc.
1.2.2 Đối tượng bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan, tổ chức, và cá nhân có cơ sở có nguy hiểm về
cháy, nổ có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo qui định.
Chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc theo quy định là bảo hiểm tài sản đối với
các rủi ro về cháy, nổ của:
a) Nhà, công trình kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo.
b) Máy móc thiết bị.
c) Hàng hóa, vật tư, tài sản khác.