Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.87 KB, 19 trang )

Cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội
I. Cứu trợ xã hội
1.1. Khái niệm
Cứu trợ xã hội (CTXH) đã có mầm mống rất lâu, từ khi xuất hiện xã hội
loài người. Trong thế giới cận đại và hiện đại, dưới hình thức này hoặc hình
thức khác, CTXH đã hình thành và ngày càng phát triển với nhiều loại hình đa
dạng và phong phú. CTXH đã trở thành hoạt động không thể thiếu được trong
cuộc sống của các nhóm dân cư, đặc biệt là những nhóm dân cư "yếu kém"
trong xã hội. Các hoạt động CTXH đã trở thành một trong những tiêu chí biểu
hiện trình độ văn minh của một quốc gia. Mặc dù các hình thức CTXH rất
phong phú như vậy, nhưng để hiểu thế nào cho đúng về CTXH lại không phải là
điều đơn giản, đặc biệt là việc đưa ra định nghĩa chính xác về CTXH.
Cho đến nay phần lớn các nhà kinh tế đều cho rằng:
CTXH là sự giúp đỡ của Nhà nước của xã hội và cộng đồng bằng các biện
pháp và hình thức khác nhau cho các thành viên của cộng đồng khi họ gặp phải
những khó khăn, rủi ro hoặc bất hạnh trong cuộc sống do những nguyên nhân
khác nhau.
+ Cứu tế xã hội:
Cứu tế xã hội là sự trợ giúp cho các thành viên trong xã hội khi họ gặp
phải rủi ro hoặc bất hạnh nào đó mà cuộc sống bị đe dọa nghiêm trọng, nếu
không có sự cứu tế thì họ và gia đình có thể bị nguy hại đến cuộc sống có thể
dẫn đến cái chết (chết đói, chết bệnh…vv). Cứu tế xã hội, vì vậy mang tính tức
thời, tính cấp bách nhằm giúp cho đối tượng thoát khỏi tình trạng hiểm nghèo.
Cứu tế xã hội có thể bằng tiền hay vật chất, trong nhiều trường hợp cứu tế bằng
hiện vật có ý nghĩa thiết thực hơn. Cứu tế xã hội chủ yếu giúp cho đối tượng
trong hoàn cảnh nào đó không thể tự lo được cuộc sống cho bản thân và gia
đình họ (trong một thời điểm hoặc một khoảng thời gian nào đó). Ví dụ: Sự cứu
giúp của xã hội cho những người già cô đơn, không còn khả năng lao động,
không còn bất kỳ nguồn thu nhập nào để trang trải cuộc sống hàng ngày. Trong
những người bị thiên tai bất ngờ mất hết hoa mầu, tài sản và các phương tiện
sinh sống, cộng đồng và xã hội phải cứu tế cho họ ngay tại thời điểm đó nếu


không cuộc sống của họ sẽ bị đe doạ nghiêm trọng, có thể bị chết đói, chết khát
hoặc chết vì dịch bệnh.
+ Trợ giúp xã hội :
TGXH là sự giúp đỡ thêm bằng tiền, hiện vật hoặc các điều kiện vật vật
chất tinh thần khác của cộng đồng và xã hội cho các đối tượng khi họ gặp phải
khó khăn hoặc sa sút nào đó. Mặt dù vẫn cố gắng để tự lo liệu cuộc sống, nhưng
không có sự giúp đỡ thì cuộc sống của họ ngày càng trở lên khó khăn hơn và dễ
rơi vào cảnh bần cùng. TGXH nhằm tạo cho đối tượng có cơ hội khắc phục
hoặc giảm bớt hậu quả rủi ro vươn lên đảm bảo cuộc sống của mình, sớm hoà
nhập trở lại với đời sống chung của cộng đồng .
TGXH là sự giúp đỡ của xã hội vừa có tính tức thời,vừa có tính lâu dài, mà
tính lâu dài là chủ yếu cho các thành viên của mình khi họ gặp các rủi ro, bất
hạnh nào đó trong cuộc sống.
Trong thực tế, hầu như các hoạt động của CTXH là hoạt động trợ giúp xã
hội (về phạm vi quy mô giúp đỡ). Chính vì vậy, nhiều khi TGXH được hiểu
đồng nghĩa với CTXH. Tất nhiên CTXH có phạm vi hoạt động rộng hơn vì
ngoài trợ giúp ra còn có hoạt động cứu tế. Hơn nữa, hai lĩnh vực hoạt động này
(Cứu tế và trợ giúp) đan xen lẫn nhau nên rất khó phân biệt rạch ròi giữa TGXH
và CTXH.
1.2 Các loại CTXH.
1.2.1 Cứu trợ xã hội thường xuyên.
CTXH thường xuyên là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống một cách
thường xuyên của xã hội cho các thành viên của mình, khi họ gặp phải rủi ro,
bất hạnh rơi vào tình cảnh rất khó khăn, cuộc sống thường nhật luôn bị đe doạ.
CTXH thường xuyên mang tính cứu tế, cứu giúp nhiều hơn là trợ giúp. Đối
tượng chung của CTXH thường xuyên là những người vì những nguyên nhân
khác nhau không thể tự đảm bảo cuộc sống của bản thân. Cụ thể:
- Người già không có nơi nương tựa và không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài sự cứu trợ thường xuyên của xã hội.
- Trẻ em mồ côi, lang thang không có người nuôi dưỡng, sống chủ yếu

bằng sự hảo tâm và bố thí của mọi người hoặc trẻ em có gia đình mà gia đình đó
quá ư túng thiếu, bố mẹ không nuôi sống được các thành viên trong gia đình.
- Những người tàn tật do nhiều nguyên nhân khác nhau, không thể tụ lao
động được để tạo ra thu nhập, hoặc không có nguồn sinh sống nào khác.
- Những gia đình, những người đói thường xuyên, do sống ở những nơi
không thuận lợi, hoặc không có điều kiện lao động tạo ra thu nhập không đảm
bảo nuôi sống các thành viên của gia đình ở mức tối thiểu v.v..
1.2.2 Cứu trợ xã hội đột xuất
CTXH đột xuất là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống củâ xã hội cho những
thành viên khi họ gặp những rủi ro hoặc khó khăn bất ngờ như thiên tai đe doạ,
hoả hoạn, tai nạn làm cuộc sống tạm thời bị đe doạ, nhằm giúp họ nhanh chóng
khắc phục các hậu quả rủi ro, ổn định cuộc sống và hoà nhập trở lại với cộng
đồng.
CTXH đột xuất thường cho các đối tượng sau:
- Những người bị thiên tai, hoả hoạn… làm mất một phần hoặc toàn bộ nhà
ở, hoa mầu, tài sản và các phương tiện sinh sống.
- Những người bị thiếu lương thực trong thời kỳ giáp hạt, do sống ở những
vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi hoặc những người bị mất mùa đột
xuất mà không có nguồn hỗ trợ nào khác bị lâm vào cảnh thiếu đói.
- Những người bị tai nạn chiến tranh hoặc tai nạn xã hội, tạm thời bị mất
nguồn sinh sống…
Như vậy, đối tượng của CTXH đột xuất có thể bao gồm cả những người
thuộc diện đối tượng CTXH thường xuyên ở một thời điểm hoặc một hoàn cảnh
nào đó. Ngược lại, những đối tượng thuộc diện cứu trợ đột xuất, sau một thời
điểm xảy ra rủi ro, tuy được sự giúp đỡ tức thì nhưng sau đó "rủi ro" quá lớn,
họ không còn khả năng tự đảm bảo cuộc sống được nữa, khi đó họ có thể trở
thành đối tượng của CTXH thường xuyên.
1.2.3. CTXH cho những đối tượng là nạn nhân của tệ nạn xã hội.
Đó là trợ giúp của xã hội cho các đối tượng vì các lý do khác nhau. có
những hành vi sai lệch với chuẩn mực của xã hội nhằm tạo điều kiện và cơ hội

giúp họ trở lại với cuộc sống bình thường hoà nhập với cộng đồng.
Đối tượng của dạng CTXH này có nhiều loại. ở đây có thể nêu 3 đối tượng
chính:
- Những người lang thang cơ nhỡ
- Những người làm nghề mại dâm.
- Những người nghiện xì ke, ma tuý.
Đối với các đối tượng này, CTXH chỉ thực hiện chức năng trợ giúp cho họ
phần nào về vật chất (tài chính hoặc các điều kiện sinh sống khác ) hoặc giúp đỡ
họ chữa, trị bệnh, tư vấn cho họ về mặt tâm lý - xã hội, giúp họ sớm quay trở về
với cuộc sống bình thường.
1.3. Quan điểm về cứu trợ xã hội.
Đối tượng của CTXH là tất cả mọi thành viên của xã hội, không phân biệt
vị thế, thành phần xã hội của họ. Những đối tượng này chỉ được trợ giúp khi và
chỉ khi họ gặp phải những rủi ro bất hạnh trong cuộc sống, nếu không có sự
CTXH, cuộc sống thường ngày hoặc lâu dài của họ sẽ bị đe doạ. Tuy nhiên sự
trợ giúp này được thực hiện như thế nào? Phương thức và hình thức trợ giúp ra
sao? Câu hỏi này có thể được trả lời trên cơ sở những quan điểm sau:
- Thứ nhất, CTXH phải xuất phát từ quyền con người. mỗi cá nhân trong
cộng đồng, trong xã hội, đều có quyền sống, quyền làm việc và quyền hưởng
thụ những thành quả của xã hội như tất cả các thành viên khác. Như vậy, mỗi cá
nhân, phải tự vươn lên để có được quyền này, mặt khác, xã hội phải tôn trọng
những quyền đó của mỗi người. Tất nhiên, CTXH chỉ thực hiện và biểu hiện
một mặt nào đó của quyền con người mà thôi. Như vậy, CTXH không phải là
một sự ban ơn, không chỉ đơn thuần là việc làm từ thiện, mà còn là bản chất, là
thuộc tính xã hội văn minh. Cũng vì vậy, CTXH là trách nhiệm không chỉ của
riêng ai, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, bao gồm Nhà nước, xã hội
cộng đồng và của từng cá nhân đối với thành viên của mình khi họ gặp phải
những khó khăn, hiểm nghèo hoặc rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống.
- Thứ hai, CTXH thể hiện bản chất của con người là hành vi hướng tới
những điều thiện, những điều cao đẹp trong cuộc sống. Trong mỗi con người

đều có mầm môsng cái ác và cái thiện. tuy nhiên,xét về tổng thể các cá thể trong
cộng đồng, cái thiện luôn luôn thắng cái ác, những con người bình thưòng,
những người may mắn hơn đồng loại của mình, thường có những biểu hiện làm
việc thiện để giúp đỡ những người ít may mắn hơn mình, những người rủi ro,
bất hạnh trong cuộc sống. Hành vi này chịu ảnh hưởng bởi nhiều truyền thống
và phong tục, tập quán của mỗi dân tộc bởi cách ứng xử trong mỗi giai đoạn
lịch sử. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào bản chất chế độ và phương thức sản xuất
của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử.
ở nước ta, trong thời kỳ dài, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã ngự trị
trên mọi mặt cuộc sống xã hội. Các chính sách, chế độ CTXH được thiết kế ,
xây dựng và thực hiện trong bối cảnh nền kinh tế đơn nhất, quan hệ kinh tế là
quan hệ cung cấp và giao nộp. Mọi sự điều hành trong sản xuất chịu sự quản lý
tập trung của Nhà nước. Trong bối cảnh như vậy, tính tích cực và hành vi làm
việc thiện của mỗi cá nhân chưa được phát huy đầy đủ. Đến nay cơ chế quản lý
đã thay đổi, các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường đang được hình thành,
mọi cá nhân trong cộng đồng đều có thể có cơ hội để phát huy hết khả năng của
mình trong mọi mặt của cuộc sống, trong đó có CTXH. Vấn đề đặt ra là nhà
nước phải làm thế nào để huy động được những khả năng này, định hướng được
những hoạt động đó sao cho có ích nhất cho xã hội.
- Thứ ba, CTXH là trách nhiệm của cả Nhà nước, tổ chức, cộng đồng và
bản thân người được cứu trợ.
Thực tế cho thấy, CTXH nảy sinh ngay tại cộng đồng, sức mạnh cộng đồng
là rất to lớn, vì vậy nó phải được xã hội hoá ngay tại cộng đồng. Dựa vào cộng
đồng sẽ làm cho công tác cứu trợ được thực hiện nhanh chóng, trực tiếp và rất
có hiệu quả. Tuy nhiên trong một loạt trường hợp với các tình huống phức tạp
và diện rộng, đòi hỏi phải có sự trợ giúp của Nhà nước thậm chí còn phải kế
hoạch hoá công tác quản lý cứu trợ xã hội ở từng địa phương và trong phạm vi
quốc gia để chủ động trong mọi tình huống. Tuy nhiên, cần phải tránh tư tưởng
ỷ lại vào Nhà nước. Bản thân những người được cứu trợ xã hội phải tự vươn lên
để khắc phục khó khăn và đến lượt mình còn phải có trách nhiệm cứu trợ cho

người khác. Trong quá trình thực hiện chính sách CTXH, vai trò của các tổ chức
trong xã hội là rất lớn, bởi vì ngoài sức mạnh và tiềm lực kinh tế, họ còn đặt và
đưa những quyết sách nhanh chóng, hợp lý và rất chủ động trong mọi lúc, mọi
nơi.
- Thứ tư, CTXH là một chính sách xã hội song lại có ý nghĩa kinh tế -
chính trị sâu sắc. Trong điều kiện kinh tế thị trường, quá trình phân tầng xã hội,
phân hoá giầu nghèo diễn ra nhanh chóng và sâu sắc ở mọi lúc, mọi nơi. Nếu
thực hiện tốt chính sách CTXH sẽ góp phần bảo đảm an toàn xã hội, ổn định
chính trị và thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1.4. Đối tượng và phạm vi cứu trợ xã hội
Khi xem xét đối tượng CTXH, cần nhìn nhận trên 2 phương diện: kinh tế
và nhân đạo. Phải chăng những đối tượng được đưa vào diện cứu trợ xã hội là
những thành viên của xã hội có mức sống thấp hơn so với mức sống tối thiểu
của xã hội hoặc những người gặp cảnh bất hạnh trong cuộc đời mà xã hội cần
nâng đỡ như: Bị tàn tật, gặp rủi ro, cơ nhỡ, hoạn nạn… Trên quan điểm nhân
đạo và nhân văn, những người rơi vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, tiêm
chích ma tuý, gái mại dâm cũng có thể được coi là đối tượng cứu trợ xã hội.
Đương nhiên, xã hội không thể chấp nhận những kẻ có khả năng lao động mà
lười biếng hoặc ăn chơi cờ bạc, rượu chè.
Quy luật phát triển của kinh tế thị trường tất yếu đẻ ra sự phân hoá giầu
nghèo và phân tầng xã hội, ngay cả các nước phát triển vẫn có người giầu,
người nghèo. Nước ta vốn đã nghèo, đời sống nhân dân còn quá thấp thì sự
phân hóa đó càng sâu sắc và gay gắt khi nền kinh tế đất nước chuyển sang vận
động theo cơ chế thị trường. Điều đó kéo theo sự tăng lên cả về diện và số
lượng các đối tượng cần cứu trợ xã hội. Trong đó không ít các đối tượng thuộc
chính sách ưu đãi xã hội và bảo hiểm xã hội cũng rơi vào diện cần cứu trợ.
Mục tiêu tổng quát của chính sách cứu trợ xã hội là làm giảm sự chênh
lệch về mức sống (cả về vật chất lẫn tinh thần) giữa mọi thành viên trong cộng
đồng và cả xã hội. Không để ai rơi vào cảnh cùng cực, tuyệt vọng hoặc bị bỏ
rơi, xây dựng nếp sống tốt đẹp, giữa con người với nhau giầu lòng nhân ái, nhân

văn, làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp, nhân đạo và văn minh.
Theo từng loại đối tượng chúng ta có những mục tiêu cụ thể. Với người
này có thể cứu khỏi chết đói, chết rét, chết bệnh ;nhưng với người khác lại là
giảm dần tình trạng nghèo đói hoặc kéo dần khoảng cách chênh lệch về mức
sống đối với các đối tượng cùng địa phương, cùng cộng đồng hoặc cùng một
tầng lớp dân cư tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ vật chất hoặc tinh thần để đối
tượng vươn lên hoà nhập với cộng đồng và xã hội. Tuỳ theo từng đối tượng mà

×