Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.29 KB, 17 trang )

TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU
BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. Tổng quan về BHXH
1. Sự cần thiết khách quan của BHXH
Trong đời sống xã hội, con người luôn tác động vào tự nhiên để tạo ra các
sản phẩm, các giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình. Đồng thời
trong quá trình đó, con người cũng luôn chịu sự tác động của các quy luật khách
quan, của các điều kiện tự nhiên và điều kiện xã hội. Những tác động này nhiều
khi có thể biết trước, nhưng nhiều khi diễn ra một cách ngẫu nhiên mà con
người không dự đoán một cách đầy đủ. Khi đó chúng trở thành những thế lực
không kiểm soát nổi. Nó gây ra những tác hại to lớn đối với sinh mạng, điều
kiện sống của con người, những của cải mà con người làm ra chẳng hạn như:
Tai nạn, ốm đau, mất việc làm, tuổi già, chết...
Để vượt qua những khó khăn đó, từ lâu người ta đã áp dụng các biện
pháp phòng ngừa và các biện pháp khắc phục hậu quả cần thiết như: Tránh né
rủ ro, ngăn chặn tổn thất, giảm thiểu tổn thất... Một trong những biện pháp hưũ
hiệu nhất là lập quỹ dự trữ và tiến hành bảo hiểm tập trung trên phạm vi toàn xã
hội. Vì các rủi ro trong đời sống xã hội rất đa dạng và phức tạp, nên bảo hiểm
cũng đa dạng khác nhau và BHXH chỉ là một trong những loại hình bảo hiểm
mà đối tượng của nó là thu nhập của người lao động.
Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng khi thực hiện đầy đủ các chức
năng bảo hiểm, phân phối, điều chỉnh và ràng buộc các bên tham gia sẽ có tác
dụng to lớn trong đời sống xã hội. Nó góp phần đề phòng, hạn chế, khắc phục
hậu quả rủ ro đảm bảo cho sự phát triển bình thường và ổn định sản xuẩt kinh
doanh, góp phần tăng thu ngân sách và ngoại tệ cho Nhà nước và nó còn tập
hợp được mảng tiền nhàn rỗi nằm rải rác ở các tầng lớp dân cư hình thành nên
quỹ bảo hiểm.
Quỹ này không chỉ đầu tư cho nền kinh tế mà còn góp phần tiết kiệm
chống lạm phát ổn định đời sống cho người lao động. Mặt khác nó còn ràng
buộc chặt chẽ trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ lao động góp phần thực
hiện các chính kinh tế xã hội khác.


2. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH
Ra đời vào giữa thế kỷ XIX khi mà nền công nghiệp và kinh tế hành hoá
đã phát triển ở châu Âu, hệ thống BHXH đầu tiên là công trình của Chính phủ
Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck (1803 -1883) với cơ chế ba bên: Nhà nước,
giới chủ,giới thợ cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một
số trường hợp họ gặp rủ ro. Sau đó trước tác dụng tích cực của BHXH nhiều
nước đã tiến hành triển khai áp dụng hệ thống BHXH này. Trong những năm 30
của thế kỷ XX một số nước còn mở rộng chế độ khác ngoài BHXH Và xuất
hiện khái niệm “an toàn xã hội”. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã có công
ước 102 năm 1952 về “an toàn xã hội “.
BHXH từ khi xuất hiện luôn phát huy được tác dụng trong những lúc
người lao động gặp khó khăn hiểm nghèo do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, tuổi già...trên cơ sở những cam kết đóng góp của người lao động và người
sử dụng lao động cho một bên thứ ba (Cơ quan BHXH) trước khi xảy ra các rủi
ro. Tuy nhiên BHXH không trực tiếp chữa bệnh cho người tham gia BHXH khi
họ gặp ốm đau bệnh tật, hay sắp xếp việc làm cho họ khi bị mất việc làm, mà
BHXH chỉ bù đắp phần thu nhập bị giảm hay mất đi để họ trang trải chi tiêu do
gặp rủi ro trên.
Như vậy dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp là
sự bù đắp thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc
mất khả năng lao động.
Dưới góc độ pháp lý, chế độ BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà
nước, quy định các hình thức đảm bảo các điều kiện vật chất và tinh thần cho
người lao động và thành viên trong gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc
mất khả năng lao động.
Mục tiêu cuả BHXH là nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này
đã được tổ chức lao động Quốc tế (ILO) khuyến cáo như sau.
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

- Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
- Xây dựng các điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già và trẻ nhỏ.
Với những mục tiêu trên BHXH đã trở thành một trong những quyền con
người và Đại hội đồng liên hiệp quốc thừa nhận và được ghi vào tuyên ngôn
nhân quyền ngày 10/12/1948 “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của
xã hội đều có quyền hưởng BHXH...”.
Ở nước ta BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã
hội.
Giai đoạn năm 1993 về trước.
Giai đoạn này BHXH Việt nam được tổ chức thành hai hệ thống .
- Hệ thống I: Do Bộ lao động thưong binh xã hội quản lý (quản lý các
chế độ dài hạn).
- Hệ thống II: Do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý (quản lý
các chế độ ngắn hạn ).
Trong giai đoạn này BHXH Việt Nam còn một số bất cập như: Đối tượng
tham gia còn rất hạn hẹp (chỉ có công nhân viên chức làm việc trong cơ quan
Nhà nước và lực lượng vũ trang). Trong giai đoạn này chúng ta thực hiện 6 chế
độ ( ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất).
Quỹ BHXH phần lớn do ngân sách Nhà nước gánh vách, người lao động và chủ
sử dụng lao động chỉ đóng góp 4,7% tiền lương và quỹ lương.
Việc thực hiện chi trả còn nhiều bất cập về các khâu như: Giám định
thương tật mức lương, chế dộ khi về hưu... đặc biệt là trong nội bộ các chế độ
còn mang tính bình quân giữa các ngành nghề nên không khuyến khích được
người lao động làm việc trong các ngành nghề độc hại. Bên cạnh đó chúng ta
còn chưa bóc tách được ưu đãi xã hội ra khỏi BHXH. Vấn đề quản lý BHXH
trong giai đoạn này rất chồng chéo, chức năng nhiệm vụ chưa được rõ biệt. Việc
điều phối giữa hai cơ quan Tổng liên đoàn và Bộ lao động thương binh xã hội
chưa được thực hiện .
Giai đoạn từ 1993 - 1995

Giai đoạn này BHXH thực hiện theo nghị định 43-CP/1993. Đây là giai
đoạn mà nền kinh tế thị trường đã được thực hiện ở Việt nam gần 10 năm (1986
– 1995) nên chính sách BHXH buộc phải thay đổi theo cho phù hợp. Giai đoạn
này khác giai đoạn trước ở chỗ mức đóng góp của chủ sử dụng lao động là
15%, thợ là 5% .
Nội dung mỗi chế độ BHXH cũng có sự thay đổi. Đặc biệt chúng ta đã bỏ
chế độ mất sức lao động và bắt đầu bóc tách các chế độ ưu đãi xã hội ra khỏi
BHXH. Đối tượng tham gia BHXH cũng được mở rộng (quy định những doanh
nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên phải tham gia BHXH ) .
Giai đoạn từ 1995 đến nay.
Giai đoạn này BHXH thực hiện theo nghị định 12/CP và 19/CP, dựa trên
luật lao động (1994). Giai đoạn này BHXH có một số điểm khác so với một số
giai đoạn trước ở chỗ BHXH đã thống nhất về mặt tổ chức tập trung về một mối
đó là thành lập cơ quan BHXH Việt Nam trực thuộc Chính phủ. Cơ quan này
quản lý toàn bộ sự nghiệp BHXH, còn Bộ lao động thương binh xã hội quản lý
về mặt Nhà nước về BHXH .
Ngoài BHXH bắt buộc (các doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động trở lên)
còn có BHXH tự nguyện. Nội dung của các chế độ BHXH cũng có sử đổi cho
phù hợp. Giai đoạn này còn thực hiện BHXH cho cán bộ xã phường, nguồn
quỹ BHXH do được quản lý tập trung thống nhất vì thế hiệu quả đầu tư tốt , quỹ
tăng trưởng mạnh. Các chính sách ưu đãi xã hội hầu như đã được bóc tách ra
khỏi BHXH .
Như vậy ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995,
Chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối
với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của Điều lệ này đã
góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ của xã hội, góp phần lành mạnh hoá
thị trường người lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông
đảo người lao động ở các thành phần kinh tế.
3. Đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH.
3.1. Đối tượng của BHXH.

BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi
do người lao động bị giám hoặc mất khả năng lao động vì các nguyên nhân như:
ốm đau, tai nạn già yếu ... Vì vậy đối tượng của BHXH chính là thu nhập của
người lao động bị biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm của những người tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động.Tuỳ theo điều kiện kinh tế phát triển của mỗi nước mà đối tượng này có
thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động. Ban đầu khi mới có chính sách
BHXH, các bước đều thực hiện BHXH bắt buộc đối với các viên chức Nhà
nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không rời khỏi thực
tế này, dù như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Song
về mục tiêu của BHXH về lâu dài sẽ áp dụng với tất cả mọi người lao động
trong xã hội đặc biệt là khi nền kinh tế phát triển. Vì thế trong thời gian qua
BHXH ở nhiều nước đã được thực hiện dưới hai hình thức: Bắt buộc và tự
nguyện
3.2. Chức năng của BHXH.
BHXH thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động tham
gia BHXH khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm
vụ tính chất và cơ chế tổ chức cuỷa BHXH.
BHXH tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH. Các bên tham gia BHXH đều phải đóng góp vào quỹ BHXH.
Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia BHXH khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập. Theo quy luật ” số đông bù số ít ” BHXH thực hiện
phân phối lại thu nhập cả theo chiều dọc và chiều ngang. Thực hiện chức năng
này BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất,
góp phần nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
Người lao động khi bị đau, thai sản, tai nạn lao động, về già đã có BHXH trợ
cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Do đó cuộc sống của họ và gia đình họ luôn

được bảo đảm, tạo cho người lao động luôn yên tâm làm việc.
BHXH gắn bó lợi ích giữa ngưòi lao động và người sử dụng lao động,
giữa người lao động với xã hội, giải quyết được mâu thuẫn giữa giới chủ và giới
thợ, đồng thời làm cho họ gắn bó và hiểu nhau hơn. Đối với Nhà nước và xã
hội, chi cho BHXH là cách thức chi ít nhất và có hiệu quả nhất, giải quyết được
khó khăn về đời sống cho ngưòi lao động.
3.3. Tính chất của BHXH.
- Tính tất yếu khách quan: Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, khoa
học
kỹ thuật ngày càng tiến bộ thì những rủi ro trong cuộc sống lại càng gia
tăng vì thế BHXH ngày càng phát triển.
- Tính ngẫu nhiên: Phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian.
- Tính kinh tế: Được thể hiện ở chỗ đã tham gia BHXH thì phải đóng
quỹ và khi người lao động gặp rủi ro sẽ được trợ cấp BHXH.
- Tính xã hội: Được thể hiện ở chỗ mọi người đều có quyền tham gia
BHXH và được BHXH chấp nhận.
- Tính dịch vụ: Được thể hiện ở chỗ ở đâu có nhu cầu BHXH thì ở đó có
BHXH.

×