Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở PHÒNG BẢO HIỂM HUYỆN THANH TRÌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.21 KB, 20 trang )

THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN
SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở PHỊNG BẢO
HIỂM HUYỆN THANH TRÌ - HÀ NỘI
I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QT VỀ PHỊNG BẢO HIỂM THANH
TRÌ
Huyện Thanh Trì là một huyện có số dân cư tương đối đơng ở thành phố
Hà Nội, có trên hàng trăm các cơ quan, xí nghiệp, doanh nghiệp .v.v...hoạt động,
sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện đồng thời có tuyền đường quốc lộ 1A
chạy qua trên địa bàn. Đây là nguồn đối tượng vô cùng to lớn trong bảo hiểm
trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên ở địa bàn huyện không chỉ có văn phịng đại diện
bảo hiểm huyện độc quyền khai thác mà còn phải cạnh tranh với nhiều đại lý
của các Công ty bảo hiểm khác như: Bảo Minh , PJiCo, PVIC…nên thị trường
này luôn sôi động.
Với đặc điểm chỉ là văn phòng đại diện của Bảo Vịêt Hà Nội với 10 cán
bộ trong đó:
- 1 trưởng phịng chỉ đạo chung
- 1 cán bộ kế toán kiêm tài vụ
- 1 cán bộ thủ quỹ
- 1 cán bộ thống kê
- 1 cán bộ giám định kiêm khai thác
- 5 cán bộ khai thác và thu thập hồ sơ .
Tất cả đội ngũ khai thác đều thực hiện tất cả các nghiệp vụ bảo
hiểm mà Bảo Việt Hà Nội giao triển khai, chủ yếu là các loại hình bảo hiểm
như:
1- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
2- Cảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa
3- Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
4- Bảo hiểm vật chất ô tô


5- Bảo hiểm TNDS chủ xe đối với hành khách


6- Bảo hiểm trách nhiệm chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển trên
xe
7- Bảo hiểm TNDS chủ phương tiện đối với người thứ ba
8- Bảo hiểm toàn diện học sinh
9- Bảo hiểm kết hợp con người
10- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
11- Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
12- Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe
13- Bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt .
Nhiệm vụ chính của phịng là tun truyền quảng cáo về bảo hiểm đến
từng cơ sở trong địa bàn, bán phí bảo hiểm cho đối tượng tham gia giải quyết
bồi thường cho nạn nhân.. Hàng kỳ văn phịng phải có thông báo mức doanh thu
đạt được trong kỳ, mức đã chi trả bồi thường. Bảo Việt Hà Nội cho phép văn
phòng giữ lại từ 5 dến 7% doanh thu để chi phí hạn chế tổn thất và quản lý,
riêng phần hoa hồng của cán bộ khai thác được chi trả hàng tháng. Tất cả việc
bồi thường cho người tham gia dù lớn hay nhỏ đều phải có quyết định của
trưởng phịng và trưởng phịng chịu trách nhiệm chung trước Cơng ty.
* Những thuận và khó khăn
Trong những năm qua, nhất là từ khi nền kinh tế nước ta phát triển theo
cơ chế thị trường, Hà Nội đã và đang có những bước chyển biến tích cực về
nhiều mặt để trở thành thủ đo văn minh, trung tâm kinh tế, chính trị , văn hoá,
khoa học - kỹ thuật của cả nước. Thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước
ngồi, đặc biệt là sau khi Mỹ xố bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Tình
hình giá cả ngày càng ổn định, lạm pháp được kiềm chế, đời sống của nhân dân
thủ độ khơng ngừng tăng lên. Có thể nói đây là một mơi trường thuận lợi cho
ngành Bảo hiểm nói chung và chúng tơi Bảo hiểm Việt Nam nói riêng có điều
kiện phát triển đi lên.


Phịng Bảo hiểm Thanh Trì, mọt trong mười hai văn phòng đại diện bảo

hiểm trong thành phố trực thuộc chúng tôi Bảo hiểm Hà Nội cũng nắm bắt kịp
thời những thuận lợi để từ đó cung cấp tốt nhất nhưng dịch vụ bảo hiểm mà Bảo
Việt Hà Nội giao cho, đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho mọi người.
Với tình hình thực tiễn đó, bên cạnh những thuận lợi, hoạt động kinh
doanh của phịng bảo hiểm Thanh Trì gặp khơng ít khó khăn.
1- Về thuận lợi:
Là một văn phịng đại diện bảo hiểm nằm trên địa bàn Hà Nội nơi mang
đầy đủ tính chất của một nền kinh tế nhiều thành phần, có thể nói phịng bảo
hiểm Thanh Trì là một trong những văn phịng đại diện bảo hiểm có điều kiện
rất thuận lợi để hoạt động , cụ thể:
* Do địa bàn của phịng nằm trên một huyện có số dân đông của thành
phố mà mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập ổn định,
nhân dân lại có truyền thống tương thân, tương ái. Vì vậy nếu biết vận động và
tổ chức tốt bằng nhiều hình thức thì Bảo Việt sẽ đạt hiệu quả cao.
* Lãnh đạo phịng đã nhanh nhạy nắm bắt tình hình, xác định được yêu
cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ, có chủ trương và biện pháp
đúng đắn, ra nghị quyết kịp thời đưa phòng bảo hiểm Thanh Trì ngày một tiến
vững trong kinh doanh, bảo hiểm nhất là hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
* Điều quan trọng là sự đồn kết nhất trí cao của đội ngũ cán bộ, khai
thác viên trong. Có sự hợp đồng chặt chẽ trong công việc giữa các bộ phận liên
quan, giữa trên và dưới nhằm tạo nên một khí thế thi đua trong cơng việc cùng
nhau hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
* Được sự giúp đỡ, chỉ đạo của Ban lãnh đạo chúng tôi Bảo hiểm Hà Nội
và các cấp, các ngành có liên quan, giữa trên và dưới nhằm tạo nên một khí thế
thi đua trong cơng việc cùng nhau hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
* Được sự giúp đỡ, chỉ đạo của Ban lãnh đạo Công ty Bảo hiểm Hà Nội
và các cấp, các ngành có liên quan, các Cơng ty, xí nghiệp hoạt động trên địa



bàn huyện. Đặc biệt là các cấp chính quyền: Hyện uỷ, UBND huyệnkết hợp
chặt chẽ với các cơ quan đầu ngành trong huyện như phòng lao động - thương
binh xã hội, phịng CSGT, phịng cơng nghiệp.v.v… đã tạo điều kiện giúp đỡ
phịng bảo hiểm Thanh Trì hồn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện triển khai công
tác bảo hiểm trên địa bàn được sâu rộng, có hiệu quả, tạo ra thế mạng trong kinh
doanh và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
2- Về khó khăn:
Đi đơi với điều kiện thuận lợi có được, trong q trình hoạt động của
mình phịng bảo hiểm Thanh Trì nói chung và bảo hiểm thách nhiệm dân sự nói
riêng cũng cịn gặp phải ít nhiều khó khăn cần được khắc phục:
* Thứ nhất do trình độ dân trí chưa cao, nhân dân ta chưa có tập quán bảo
hiểm sản xuất - kinh doanh, mặc dù ở thủ đô đang trên đang phát triển mạnh
nhưng chưa ổn định, nhiều đơn vị cịn gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, mức sống
của đa số người dân chưa cao. Đây là một hạn chế rất lớn trong hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trong việc tuyên truyền, thuyết phục quần chúng nhân dân tham
gia bảo hiểm.
* Thứ hai, kể từ năm 1994, đứng trước bối cảnh mới đó là việc Nhà nước
ban hành "Nghị định về kinh doanh bảo hiểm" cho phép mọi thành phần kinh tế
được thành lập doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức bảo hiểm nước ngoài
đang hoạt động bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Trong bối cảnh đó, phịng bảo
hiểm Thanh Trì phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ của các
chúng tôi bảo hiểm khác, làm ảnh hưởng đến nghệp vụ bảo hiểm trên địa bàn.
* Thứ ba, phòn bảo hiểm thanh Trì chưa có nhiều cán bộ được đào tạo
chuên dâu từng lĩnh vực. Các cộng tác viên, khai thác nên bảo hiểm còn thiếu
nên chưa khai thác được một cách triệt để, sâu rộng nhu cầu đông đảo khách
hàng tham gia bảo hiểm trong toàn huyện.
Tất cả những khó khăn và thuận lợi trên đều có ảnh hưởng theo chiều
hướng tiêu cực hoặc tích cực đến hoạt động kinh doanh bao rhiểm của phịng
Thanh Trì nói chung cũng như nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói



riêng. (Tuy nhiên trước tình hình biến động ngày mọt lớn của cơ chế thị trường.
Phịng Thanh Trì cần phải năng động tìm ra những biện pháp hữu hiệu, khắc
phục những khó khăn, nắm bắt những thuận lợi và những cơ hội mới để khơng
ngừng phát triển kinh doanh.
II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Ở
PHỊNG BẢO HIỂM THANH TRÌ, HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 1996 - 2000
Trước sự cần thiết khách quan của bảo hiểm trách nhiệm dân sự và đặc
biệt là sự cấp thiết mang tính xã hội của vấn đề nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã
hội, kỷ cương của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của ngượi bị nạn trong các vụ
tai nạn giao thông, ngày 10/3/1998 HĐBT ra nghị định 30/HĐBT quy định bắt
buộc tất cả các chủ xe cơ giới lưu hành trên lãnh thổ nước CNXHCN Việt Nam
đều phải tham gia bảo hiểm thực hiện theo quiy định này. Được sự đồng ý của
Công ty Bảo Việt Hà Nội, phịng bảo hiểm Thanh Trì cũng đã tiến hành triền
khai nghiệp vụ bao rhiểm trách nhiệm dan sự của chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, trong những năm đầu hoạt động
của nghiệp vụ, do cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là nhân dân chưa hiểu được đây
là loại hình bắt buộc. Đời sống kinh tế tuy chưa được cải thiện song vẫn gặp
nhiều khó khăn đối với người dân lao động. Hơn nưa, trình độ dân trí chưa cao
chưa nhận thức đầy đủ công tác bảo hiểm nên công tác triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cịn gặp nhiều khó khăn, chưa đồng đều và rộng khắp,
kết quả đạt được của nghiệp vụ này còn ở mức độ thấp. Cụ thể phí chi nghiệp
vụ bảo hiểm trách nhiệm bảo hiểm dân sự chỉ chiếm 5% - 9%, tổng phí bảo
hiểm thu được. trong những năm gần đây, đứng trước bói cảnh mới: Nền kinh tế
chuyển sang tự hạch toán kinh doanh, sựk xoá bỏ lệnh cám vận kinh tế chuyên
sang tự hạch toán kinh doanh, sự xoá bỏ lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ ngày
càng thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhất là là sự cạnh tranh giữa các Công
ty bảo hiểm Hà Nội nói chung và phịng bảo hiểm Thanh Trì nói riêng đã sớm
định ra hướng đi của mình nhằm đứng vững và phát triển khong ngừng trong cơ



chế thị trường. Đáng chú ý nhất là sự ra tăng của nghiệp vụ bảo Hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Sau một thời gain hoạt động và nhất là trong
ba bốn năm trở lại đây nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba, ở phòng bảo hiểm Thanh Trì đã thu được một số kết
quả đáng khích lệ.
Doanh thu của nghiệp vụ này tăng từ hơn hơn 300 triệu đồng năm 1996
lên tới 700 triệu đồng năm 2000 tức là trong vòng 5 năm chỉ riêng doanh thu phí
bảo hiểm gốc của bảo hiểm trách nhiệm dân sự cuả chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba đã tăng hơn 200%. Số phí thu này chiếm một tỷ lệ rất lớn .
(Khoảng trên dưới 35% tổng phí bảo hiểm các nghiệp vụ mà phịng
Thanh Trì đang tiến hành hoạt động ) đặc biệt là 2 năm trở lại đây. Như vậy có
thể nói hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba là một nghiệp vụ chủ chốt trong hoạt động kinh doanh của
phịng Thanh Trì.
Sở dĩ đạt được kết quả rực rỡ đó là do trong những năm gần đây. Phịng
bảo hiểm Thanh Trì đã áp dụng cho các chủ xe tham gia ở nhiều mức trách
nhiệm khác nhau ứng với các mức phí, tuỳ thuộc vào khả năng của tài chính
của chủ xe. Trong đó mức trách nhiệm về người và tài sản được phân tích rõ
ràng. Mặt khác trong những năm gần đây. Phịng bảo hiểm Thanh Trì đã áp
dụng cho các chủ xe tham gia bảo hiểm. Khác với năm trước, khi mới bắt đầu
triển khai nghiệp vụ, bảo việt đã khống chế mức trách nhiệm, phí, số lượng
người tham gia và áp dụng bồi thường theo thiệt hại thực tế. Việc làm này dẫn
tới hiệu quả thấp của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba cho chúng tôi bảo hiểm Hà Nội nói chung và bảo hiểm
Thanh Trì nói riêng.
Tuy nhiên dù có bằng hình thức nào đi chăng nữa, cũng giống như các
nghiệp vụ bảo hiểm khác, quá trình kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của phòng bảo hiểm Thanh trì

thực chất theo ba giai đoạn: Khai thác- giám định - bồi thường. Vì vậy ở đây


cần đi sâu xem xét, đánh giá tình hình kinh doanh nghiệp vụ này ở phịng Thanh
trì theo trình tự ba giai đoạn đó.
1. Khâu khai thác :
Q trình khai thác có hệ thốngể nói dó là khâu đầu tiên và là khâu quan
trọng nhất của một chu kỳ kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt nó lại càng có ý nghĩa
đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới. Thực chất của quá
trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này là bằng mọi biện pháp để khuyến khích
đoọng viên các chủ xe tham gia bảo hiểm một cách tối ưu. Q trình khai thác
có vai trị hết sức quan trọngm, có ý nghĩa quyết định chủ yếu tới nghiệp vụ
kinh doanh bảo hiểm, bởi vì có tổ chức khai thác tốt thì mới thu được nhiều
pphí bảo hiểm của các chủ xe để hình thành nên các quỹ bảo hiểm, từ đó dùng
để chi trả bồi thường, bù đắp các chi phí, trích lập các quỹ thực ghiên các biện
pháp mà bảo việt Hà Nội giao cho phịng.
Bên cạnh đó do đặc điểm của hoạt động kinh doanh kinh doanh bảo hiểm
thì các khoản thu từ phí bảo hiểm gốc lại là phần chủ yếu trong thu nhập của
nghiệp vụ bảo hiểm này.
Nhận biết được đây là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Phịng Thanh trì đã mở rộng địa bàn hoạt động nhằm khai thác một cách
triệt để các khách hàng. Trưởng phịng cùng với cán bộ cơng nhân viên trong
phịng lập một kế hoạch khai thác cụ thể rõ ràng. Những cán bộ phụ trách kế
toán, thủ quỹ, thống kê thường xuyên ở tại phòng phục vụ bán bảo hiểm cho các
chủ xe trực tiếp đến tham gia tại các văn phịng cịn những cán bộ khai thác
khác được phân cơng cụ thể đến từng địa bàn trong huyện như các doanh
nghiệp, xí nghiệp lắp ráp phụ tùng ơ tơ - xe máy, bến xe giáp bát ... để liên hệ,
chỉ rõ cho các chủ xe thấy được quyền lợi khi tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự chủ phương tiện. Tích cực tuyên truyền về nội dung, ý nghĩa mục đích
của chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba

để chủ xe hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm. Hơn
thế nữa, phòng còn tổ chức thực hiện việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo


hiểm nhanh, gọn, tạo điều kiện cho các chủ xe tham gia bảo hiểm được thuận
lợi và dễ dàng. Đồng thời phịng cịn có mối quan hệ tốt, tranh thủ được sự ủng
hộ của huyện uỷ, UBND, các cấp, các ngành trong địa bàn huyện để phục vụ
một cách tốt nhất được đến " tận tay" các đối tượng bảo hiểm.
Tình hình khai thác bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba của phịng Thanh trì trong giai đoạn 1996 - 2000 được đánh
giá qua bảng số liệu sau (bảng 1)
Bảng 1: Tình hình khai thác bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới đối với người
thứ ba ở phịng bảo hiểm Thanh Trì - Hà Nội ( 1996 - 2000)

Chỉ tiêu

Số xe khai thác (chiếc)
Ơ tơ

Năm

Số phí thu (tr đồng)
Xe máy

Ơ tơ

xe máy

Tổng


Thực tế

Tham

Tham

Thực tế

Tham

Tham

lưu

gia bảo

gia /

lưuhành

gia bảo

gia/

hành

hiểm

lưu


hiểm

lưu

1996

8.900

1.017

hành
11,4

80.492

177

hành
0,2

300,114

12,500

312,614

1997

9.850


1312

13,3

82.855

261

0,3

399

20,117

419,995

1998

11.120

1894

17

98017

425

04


483,247

29,568

512,815

1999

13,700

2960

21,6

103.660

630

0,6

517,500

33,213

550,713

2000

14,900


3121

21

112,834

770

0,7

663,372

35,239

698,611

Theo số liệu bảng 1, nhận thấy trong 5 năm từ 1996 - 2000 tổng số lượng
mỗi loại xe tham gia bảo hiểm và tổng số phí thu được qua các năm có sự tăng
lên một cách đáng kể. Số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm tăng từ 1017 chiếc
năm 1996 lên tới 3121 chiếc năm 2000 (tăng khoảng 306%). Số lượng xe máy


tham giua bảo hiểm cũng tăng lên không kém từ 177 chiếc năm 1996 lên tới 770
chiếc năm 2000 tăng 650%.
Đi đôi với số lượng ô tô, xe máy tham gia gia bảo hiểm tăng, số lượng phí
thu được của nghiệp vụ này cũng có sự tăng đều từ 312,614.tr đồng năm 1996
lên tới 698,611 tr đồng năm 2000.
Đặc biệt trong 2 năm 1999, 2000 số lượng ô tô tham gia bảo hiểm chiếm
1 tỷ trọng lớn trong tổng số xe ô tô đang lưu hành trong địa bàn mà có thể thống
kê được (21%) Bên cạnh đó, mặc dù lượng xe máy tham gia bảo hiểm cũng đã

tăng rất nhiều, song chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số lượng xe máy lưu
hành trên địa bàn.
Để thấy rõ xu hướng phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách
nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, hãy xem xét tốc độ phát triển của từng loại xe
tham gia bảo hiểm và số phí thu được giữa hai năm liên tiếp nhau (bảng 2)
Bảng 2: Tốc độ phát triển của số lượng xe tham gia bảo hiểm TSDS
và số phí thu được giữa 2 năm liên tiếp (1996 - 2000).
Đơn vị: %
Chi tiêu

1997/1996

1998/1997

1999/ 1998

2000/ 1999

Loại xe
Ơ tơ

Số xe

Số phí

Số xe Số phí

Số xe

Số phí


số xe

Số phí

129

133,2

144,4

120,8

156,3

107,1

105,4

128,2

Xe máy

147,5

160,9

162,8

147


148,2

112,3

122,2

106,1

Tổng

131,7

134,3

147,4

122,1

154,8

107,4

108,

126,9

Qua số liệu bảng 2 ta thấy:
* năm 1997/ 1996: Tổng số xe tham gia bảo hiểm tăng lên 31,7%. (tăng
379 chiếc) trong số lượng xe ô tô tăng 29% và lượng xe máy tham gia tăng

47,5%. Tổng số chi phí tăng 34,3 %; Trong đó phí thu bảo hiểm trách nhiệm dân
sự ô tô tăng 33,2%; Bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe máy tăng 60,9%.


* Năm 1998/ 1997: Toàn bộ số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng 47,4%
(tăng 746 chiếc) trong đó lượng xe ô tô tham gia tăng 44,4% và lượng xe máy
tham gia tăng 62,8%. Tuy nhiên tổng số phí thu được nghiệp vụ này có sự gia
tăng nhưng lại giảm hơn so với năm 1997/ 1996, tổng số phí thu chỉ là tăng
22,1% ( giảm đi 12,2% So với 1997 / 1996) , số phí ơ tơ thu được tăng 20,8%;
số phí xe máy tăng 47%.
Sở dĩ số phương tiện ô tô, xe máy tham gia nhiều hơn nhưng số phí thu
được lại giảm đi là do chủ phương tiện tham gia bảo hiểm với hạn mức trách
nhiệm thấp.
* Năm 1999/ 1998: Tổng số phương tiện tham gia bảo hiểm tăng 54,8%
(tăng 1271chiếc) trong đó số lượng ơ tơ tham gia tăng 56,3% lượng xe máy
tham gia tăng 48,2%. Toàn bộ phí thu tăng 7,4% trong đó phí ơ tơ tăng 7,1%;
Phí thu xe máy tăng 12,3%.
Như vậy số ơ tô tham gia bảo hiểm tăng lên rất đáng kể nhưng số phí thu
được lại có sự giảm đi, nghun nhân là do chủ xe tham gia bảo hiểm chọn với
hạn hạn mức trách nhiệm không cao.
* Năm 2000/ 1999: Tổng số xe tham gia bảo hiểm tăng 8,45 (tăng 301
chiếc) trong đó lượng xe ơ tơ tham gia tăng 5,4%, lượng xe máy tham gia tăng
22,2%. Tổng số phí thu được tăng 26,9% trong đó phí ơ tơ tăng 28,2%, phí xe
máy tăng 6,1%.
Nhìn chung số lượng xe tham gia bảo hiểm và số phí thu được của năm
sau so với năm trước là tăng lên . Căn cứ vào bảng tốc độ phát triển của số
lượng xe tham gia bảo hiểm và số phí thu được 2 năm liên tiếp (1996 - 2000) ta
thấy hầu hết cac chủ xe ơ tơ đều tham gia bảo hiểm, chỉ cịn lại một số ít là chưa
tham gia. Riêng về xe máy, tuy lượng xe tham gia bảo hiểm so với lượng xe
lưu hành trên địa bàn còn thấp, song đến năm 2000 thì lượng xe máy tham gia

bảo hiểm đã tăng lên rất nhiều so với 4 năm trước. Đạt được kết quả này bởi rất
nhiều nguyên nhân.


* Khi mới bắt đầu đi vào nghiệp vụ triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân
sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba bảo việt thanh trì ngồi nhiệm vụ tuyên
truyền cho các chủ xe hiêủ được đây là nghiệp vụ bắt buộc, còn tuyên truyền về
nội dung, ý nghĩa, mục đích, sự cần thiết cảu chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để chủ xe hiểu được nghĩa vụ, quyền
lợi của mình khi tham gia.
* Bảo hiểm phối hợp với cảnh sát giao thông ở các chốt điểm giao thơng
chính để kiểm tra kiểm sốt các xe lưu hành trên đường. Trường hợp xe lưu
hành khơng có bảo hiểm tghì yêu cầu xử phạt nghiêm khắc.
* Qua thực tế các chủ xe cơ giới đã thấy rõ được các tác dụng của loại
hình bảo hiển dân sự. Việc khắc phục, bịi thường của bảo hiểm đã góp phần
không nhỏ trong việc khắc phục hậu quả tai nạn.
* Từ năm 1993, bảo việt Hà Nội đã triển khai với nhiều hạn mức trách
nhiệm khác nhau đồng thời cũng giao cho phịng bảo hiểm Thanh trì tiến hành
các hạn mức trách nhiệm đó và có biểu phí tính cho từng hạn mức trách nhiệm.
Việc làm này là hết sức cần thiết và phù hợp với thực tế tạo điều kiện cho các
chủ xe có thể tham gia các mức trách nhiệm khác nhau tùy thuộc vào khả năng
tài chính của mình.
* Hơn thế nữa những vụ tai nạn lớn xảy ra, Bảo Việt Thanh Trì đã phối
hợp kịp thời với CSGT giải quyết hậu quả tai nạn ở ngay hiện trường, trợ cấp về
mặt tài chính cho người bị nạn ở ngay hiện trường, phối hợp với các cấp, các
ngành hoàn tất mọi thủ tục, cuối cùng đưa người bị nạn đi cấp cứu. Có rất nhiều
lá thư cảm tạ với lòng biết ơn sâu sắc của chủ xe, lái xe và gia đình họ là sự
động viên, cổ vũ to lớn đối với cán bộ làm công tác bảo hiểm nói chung và bảo
hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng. Đồng thời tạo ra sự tin tưởng của người dân
đối với loại hình này.

Bên cạnh kết quả đó, mặc dù số lượng xe máy lưu hành ngày một tăng
lên, song kết quả lượng xe máy tham gia bảo hiểm cịn ở độ thấp. Ngun nhân
của tình trạng này là do:


* Khác với ô tô cách quản lý xe máy còn rất lỏng lẻo. Hầu hết các chủ xe
máy mua xe chỉ cần có giấy tờ hợp lệ là đủ, thậm chí khơng cần sang tên, đổi
chủ để tránh nộp thuế xe, không cần khám định kỳ hàng năm vẫn đủ điều kiện
lưu hành. Đó chính là khe hở để chủ xe không tham gia bảo hiểm trách nhiệm
dân sự.
* Biện pháp phối hợp với công an, CSĐT chưa thường xuyên, chưa kích
thích được đúng mức về lợi ích kinh tế để họ quan tâm nhiệt tình cơng tác tham
gia bảo hiểm. Hơn thế nữa kết quả phối hợp giữa Bảo Việt Thanh Trì và cơng
an, CSGT trong việc kiểm tra xe tham gia bảo hiểm, xử phạt, cấp giấy chứng
nhận mới… còn hạn chế.
Mặc dù định kỳ hàng quý vẫn có đợt kiểm tra gắt gao trong tồn thành
phố nhưng cơng tác này ít nhiều các tiêu cực nên kết quả thu được chưa cao.
* Mặt khác, do trình độ dân trí cũng như ý thức trách nhiệm của người
dân chưa cao. Họ cho rằng việc gây tai nạn xe máy đối với họ là rất hạn hữu vì
thế nên việc mua phí bảo hiểm khơng cần thiết.
Song, cho dù số lượng xe máy tham gia bảo hiểm chưa cao nhưng lượng
xe tham gia vẫn có sự tăng đều giưã các năm kèm theo đó là số phí thu về bảo
hiểm trách nhiệm dân sự xe máy cũng tăng theo.
Từ khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba đến nay, trong số hơn 10 nghiệp vụ mà phịng Thanh
Trì đang tiến hành, nghiệp vụ bảo hiểm này ln là một trong số các nghiệp vụ
nịng cốt của phịng. Doanh thu của nó chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong
tổng số doanh thu từ phí bảo hiểm gốc cuả phịng (bảng 3)
Bảng 3: Doanh thu phí bảo hiểm TNDS chủ phương tiện đối với
người thứ ba so với tổng doanh thu phí ở phịng bảo hiểm Thanh Trì

(1996- 2000)
Đơn vị: Đồng
Doanh thu phí bảo hiểm

Tổng doanh thu

TNDS của chủ xe cơ giới đối

phí bảo hiểm các

Tỷ lệ %


với người thứ ba
1996
1997
1998
1999
2000

nghiệp vụ của

312614251
419993630
512815182
550712626
698610493

phịng Thanh Trì
1397996824

1583901302
1695870463
1721486783
1885327746

22,4%
26,5%
30,2%
32%
37,1%

Qua bảng số liệu trên cho thấy năm 2000 doanh thu của nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chiếm tỷ trọng
37,1% là lớn nhất trong tổng số phí thu bảo hiểm gốc của phịng Thanh Trì so
với các năm trước.
Tỷ lệ phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba so với tổng doanh thu phí bảo hiểm các nghiệp vụ là tương đối lớn và có sự
tăng đều giữa các năm chứng tỏ nghiệp vụ này là nghiệp vụ chủ chốt của phịng
và phịng Thanh Trì cũng đã phát huy được tối đa hiệu quả nghiệp vụ để hướng
tới một hiệu quả kinh doanh tốt nhất.
Nói tóm lại, trong những năm gần đây, về khâu khai thác Bảo Việt Thanh
Trì đã đạt được kết quả khả quan. Phần lớn là khai thác lượng xe ô tô lưu hành
trên địa bàn. Số lượng xe máy khai thác được qua các năm tăng lên rõ rệt. Tuy
nhiên, trong thời gian tới, phịng Thanh Trì vẫn phải có những biện pháp để có
thể khai thác triệt để lưu lượng xe trên địa bàn, nhất là xe máy.
2. Công tác đề phịng, hạn chế tổn thất
Cơng tác đề phịng và hạn chế tổn thất không những chỉ mang lại cho Bảo
Việt nói chung và bảo hiểm Thanh Trì nói riêng hậu quả kinh doanh mà nó cịn
thực hiện mục tiêu cao cả và mang lại sự an toàn cho xã hội, tạo điều kiện cho
con người luôn được yên tâm trong sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được ý nghĩa

đó, Bảo Việt Thanh Trì thường cử cán bộ, nhân viên xuống các đơn vị tham gia
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để cơng
tác này ngày càng đóng vai trị hết sức quan trọng.


Nhận rõ được tầm quan trọng của công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
trong mấy năm qua Bảo Việt Thanh Trì đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm
tối đa số vụ tai nạn có thể xảy ra cũng như thiệt hại của nó: Đặt các panơ, áp
phích, biển báo tại các đầu mối giao thông hay tại một số đoạn đường nguy
hiểm thường xảy ra tai nạn. Phối hợp cùng các ngành chức năng tuyên truyền
rộng rãi trong nhân dân về luật lệ giao thông nhằm nâng cao ý thức chấp hành
luật lệ an tồn giao thơng của người dân. Ngồi ra, phịng bảo hiểm Thanh Trì
cịn áp dụng các biện pháp thưởng, phạt đối với những xe chấp hành tốt hoặc
không đúng luật lệ giao thông. Hơn thế nữa, thỉnh thoảng phòng còn tổ chức các
hội nghị khách hàng với mục đích nhằm khuyến khích và giáo dục các chủ xe
ln có ý thức trách nhiệm khi hoạt động xe của mình. Trong phạm vi kinh phí
được duyệt, Bảo Việt Thanh Trì ln cố gắng làm hết sức mình để người tham
gia bảo hiểm có ý thức, trách nhiệm tốt hơn trong cơng tác đề phịng và hạn chế
tổn thất.
3. Công tác giám định
Giám định tai nạn là khâu trung gian quan trọng của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm, nó là cơ sở để thực hiện cơng tác bồi thường. Việc bồi thường
có được nhanh chóng, chính xác, hợp lý hay khơng phần lớn là phụ thuộc vào
kết quả của công tác giám định.
Trong công tác giám định, khâu giám định giải quyết tai nạn giao thông ở
ngay hiện trường là khâu quan trọng nhất. Khi tai nạn xảy ra CSGT, CSGT có
trách nhiệm thơng báo kịp thời cho cơ quan bảo hiểm biết. Đối với các vụ tai
nạn nghiêm trọng, làm chết bị thương nhiều người, thiệt hại lớn về tài sản thì
cán bộ bảo hiểm cần có mặt tại hiện trường để cùng các ngành chức năng giải
quyết. Trường hợp cần thiết cơ quan bảo hiểm cùng chủ xe có thể ứng trước một

số tiền để cấp cứu người bị thương hay chôn cất người chết (nếu có), hạn chế
tổn thất gia tăng. Trong quá trình giải quyết tai nạn, bảo hiểm phối hợp chặt chẽ
với cảnh sát giao thông, cảnh sát điều tra tìm hiểu về nguyên nhân gây tai nạn,
xác định lỗi các bên có liên quan và thiệt hại thực tế phát sinh trong tai nạn. Với


những vụ tai nạn được giải quyết bằng biện pháp thương lượng, hồ giải dân sự
giữa các bên thì CSGT hoặc CSĐT nơi thụ lý tai nạn thông báo cho cơ quan bảo
hiểm thống nhất về phương pháp, cách thức thực hiện để buổi hoà giải đạt kết
quả tốt. Đồng thời CSGT, CSĐT cung cấp bản sao hồ sơ tai nạn cho cơ quan bồi
thường bao gồm:
Biên bản kiểm nghiệm hiện trường hiện tại
Biên bản kiểm nghiệm xe có liên quan trong vụ tai nạn
+ Biên bản kết luận điều tra
+ Các chứng cứ khác liên quan đến vụ tai nạn
Từ năm 1994 để phù hợp với mơ hình tổ chức công tác giám định Bảo
Việt Hà Nội đã thay đổi từ giám định tại chỗ ở tất cả các văn phịng đại diện bảo
hiểm. Do đó việc giám định xác minh kịp thời và thuận lợi cho khách hàng khi
có tai nạn xảy ra đồng thời việc thu thập những thông tin cần thiết được đầy đủ
hơn, đặt điều kiện cho việc giải quyết bồi thường tốt hơn.
Cùng với sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba, trong thời gian qua ở phịng bảo hiểm Thanh Trì,
khâu giám định tai nạn nghiệp vụ này cũng ngày càng tiến bộ, đáp ứng được
yêu cầu: Nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trung thực. Tuy vậy cũng cần phải
thống nhất mối quan hệ trong công tác giám định, kết hợp chặt chẽ giữa các bộ
phận, các ngành chức năng có liên quan để hồn tất hồ sơ nhanh nhất.
Cơng tác giám định nhằm giúp cho việc bồi thường được chính xác kể cả
về mặt pháp lý lẫn mặt kinh tế, do vậy mà đòi hỏi người giám định viên phải
giỏi về nghiệp vụ cũng như tinh thần trách nhiệm cao.
4. Công tác bồi thường

Công tác bồi thường là khâu cuối cùng khép kín và khơng kém phần quan
trọng trong công tác bảo hiểm. Chất lượng của công tác này hoặc sẽ làm tăng uy
tín của bảo hiểm, kết quả của cơng tác uy tín bảo hiểm một mặt phản ánh hiệu
quả xã hội của công tác bảo hiểm, mặt khác lại thể hiện chất lượng của công tác


phòng ngừa, hạn chế tổn thất và là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm
Thấy rõ được tầm quan trọng trong công tác bồi thường trong thời gian
qua phòng bảo hiểm Thanh Trì khơng ngừng nâng cao chất lượng cơng tác bồi
thường, đặc biệt là đã sắp xếp theo mơ hình cơ cấu tổ chức mới, thành lập bộ
phận bồi thường và bộ phận giám định riêng biệt, tạo điều kiện trong việc
chun mơn hố trong cơng việc, cải tiến lề lối, thái độ phục vụ khách hàng.
Song song với việc làm này Bảo Việt Thanh Trì cịn tích cực đấu tranh
phịng ngừa các hiện tượng tiêu cực trong công tác bồi thường, cải tiến lề lối
của bộ phận bồi thường, hoàn thiện quy trình bồi thường, nhằm đáp ứng phục
vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, hạn chế hồ sơ tồn đọng khơng có lý do chính
đáng, giải quyết dứt điểm hồ sơ tai nạn.
Để gắn bó với khách hàng, tạo điều kiện cho việc khai thác các nghiệp vụ
bảo hiểm có hiệu quả, phịng Thanh Trì đã phân cấp trách nhiệm bồi thường cho
cán bộ phân giải quyết bồi thường, qua một vài năm triển khai hầu hết các cán
bộ đều làm tốt nhiệm vụ, mở rộng và củng cố thêm quan hệ với khách hàng gây
uy tín cho phịng.
Trong mỗi năm bảo hiểm, xác suất tai nạn của số xe hoạt động nói chung
và số xe tham gia bảo hiểm nói riêng là khác nhau. Mức độ thiệt hại giữa các vụ
tai nạn và mức độ bồi thường của bảo hiểm cũng khác nhau. Do đó số tiền bồi
thường thiệt hại trách nhiệm dân sự của chủ xe, số vụ tai nạn giao thơng xảy ra
cịn ít nên số bồi thường thiệt hại trong thời gian này nhỏ. Nhưng cùng theo thời
gian, số lượng xe hoạt động ngày càng tăng lên, số vụ tai nạn ngày một nhiều,
có những vụ tai nạn khá lớn nên số tiền bồi thường cũng ngày một tăng.

Bảng 4: Tổng số chi bồi thường bảo hiểm TNDS chủ phương tiện đối
với người thứ ba ở phịng bảo hiểm Thanh Trì (1996- 2000)
Đơn vị : Đồng
Năm

Bồi thường ô tô

Tổng số bồi thường
Bồi thường xe máy

Tổng


1996
1997
1998
1999
2000

10700.000
13.890.520
16.212.300
18.950.593
22.991.800

481.400
515.664
533.700
623.500
714.200


11.181.400
14.406.184
16.746.000
19.574.093
23.706.000

Theo số liệu ở bảng 4, tổng số tiền bồi thường cũng như số tiền bồi
thường từng nghiệp vụ ô tô, xe máy của năm sau tăng lên so với năm trước.
Trong cơ cấu số tiền bồi thường của một năm thì số tiền bồi thường do tai nạn ơ
tơ gây ra luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Thực tế có thể thấy rằng số vụ tai nạn do
xe máy gây ra cao hơn rất nhiều so với một số vụ tai nạn ô tô gây ra nhưng số
tiền bồi thường xe máy lại thấp hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường tai nạn ô
tô. Nguyên nhân là do tính chất hoạt động của ơ tơ có độ nguy hiểm cao hơn rất
nhiều so với xe máy. Vì thế thiệt hại trong vụ tai nạn ô tô là rất lớn
Mặt khác, nhìn vào bảng số liệu chứng tỏ tỷ lệ giải quyết tai nạn giao
thông (giải quyết bồi thường) ở phịng bảo hiểm Thanh Trì qua các năm ngày
càng tăng. Tỷ lệ này đánh giá khả năng, tinh thần trách nhiệm làm việc của cán
bộ bảo hiểm, đánh giá trình độ nghiệp vụ và khả năng tài chính của phòng.
Cùng với việc phát triển của việc tổ chức khai thác bảo hiểm và tổ chức
giám định, công tác giải quyết bồi thường thiệt hại của nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Bảo Việt Thanh
Trì cũng ngày được hồn thiện đảm bảo tính nhanh chóng, chính xác, kịp thời,
tạo điều kiện cho chủ xe nhanh chóng nhận được tiền bảo hiểm, nhằm khắc
phục khó khăn về tài chính sau khi xảy ra tai nạn, làm cho các chủ xe thấy được
lợi ích của xe tham gia bảo hiểm, tin tưởng vào bảo hiểm và có tác dụng tích
cực trong việc tun truyền cơng tác bảo hiểm, gây uy tín cho Bảo Việt.
Tuy vậy, trong cơng tác bồi thường ở nghiệp vụ này ở Bảo Việt Thanh Trì
khơng tránh khỏi một số tồn tại sau:
* Một số tai nạn còn giải quyết bồi thường chậm trễ chưa thực sự giúp đỡ

chủ xe khắc phục khó khăn về tài chính do phải bồi thường cho nạn nhân, vừa
phải chịu những thiệt hại về tài sản, sức khoẻ của chính bản thân.


* Khả năng giải quyết tai nạn mặc dù đã tăng nhiều so với các năm trước
nhưng vẫn còn tồn đọng một vài vụ sang năm sau làm kéo dài thời gian, chế độ
của chủ xe
* Việc hoàn tất thủ tục hồ sơ vụ tai nạn bị chậm trễ do các cơ quan, bộ
phận gây ra cho chủ xe như việc lấy giấy nằm viện, thanh tốn viện phí, thuốc
men, giấy chứng nhận thu nhập…
* Trong thực tế hiện nay, khi xe gây tai nạn thiệt hại cho bên thứ ba, chủ
xe thường phải bồi thường một khoản rất lớn so với những thiệt hại thực tế của
bên thứ ba, nhằm mục đích làm giảm trách nhiệm hình sự của chủ xe. Do đó với
số tiền bồi thường của bảo hiểm chủ xe vẫn cảm thấy nhỏ bé so với số tiền bồi
thường của mình bỏ ra. Điều này dễ làm nảy sinh tư tưởng tiêu cực làm ảnh
hưởng xấu đến uy tín của Bảo Việt Thanh Trì nói riêng và tồn ngành bảo hiểm
nói chung
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI
NGƯỜI THỨC BA Ở PHỊNG BẢO HIỂM THANH TRÌ, HÀ NỘI (19962000)
Đặc điểm hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Bảo Việt Thanh Trì là hạch tốn kinh
doanh độc lập, tự trang trải thu chi và đảm bảo yêu cầu có lãi. Chế độ tài chính
kế tốn của nghiệp vụ này ở phịng bảo hiểm Thanh Trì thường áp dụng theo
hướng dẫn của Bảo Việt Hà Nội trong mỗi thời kỳ, có tính đến những điều kiện
đặc thù của phòng và địa phương cũng như sự biến động của thị trường để điều
chỉnh cho phù hợp với thực tế.
Về khoản thu của nghiệp vụ này, chủ yếu là khoản thu phí bảo hiểm gốc.
Sau đó, định kỳ hàng tháng bộ phận kế tốn của phịng phải báo cáo, quyết tốn
doanh thu báo lên cơng ty Bảo Hiểm Hà Nội



Các khoản chi, ngoài khoản chi bồi thường bảo hiểm gốc là khoản chi
chủ yếu còn các khoản chi như: chi đề phòng và hạn chế tổn thất, chi quản lý,
chi hoa hồng bảo hiểm gốc và một số khoản chi khác.
Giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở Bảo Việt Thanh Trì nghiệp vụ
bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đượcc hạch
tốn độc lập trong tồn ngành chứ khơng xét riêng trong phạm vi của phòng.
Trong 3, 4 năm trở lại đây hoạt động của nghiệp vụ này đều đem lại cho Bảo
Việt Thanh Trì một khoản lợi nhuận lớn và ngày một tăng. Đạt được kết quả đó
phần lớn là do sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ trong phịng. Phịng bảo
hiểm Thanh Trì đã khơng ngừng đổi mới và tiếp tục vươn lên về mọi mặt để đáp
ứng với tình hình mới hiện nay. Đặc biệt là sự cố gắng đổi mới trong việc nâng
cao khả năng, chất lượng khai thác, chú ý khâu giải quyết bồi thường nhanh
chóng, chính xác, cụ thể:
* Về tổ chức: Được sự chỉ đạo trực tiếp của công ty bảo hiểm Hà Nội,
phịng bảo hiểm Thanh Trì đã có sự thay đổi đáng kể. Bộ máy làm việc gọn nhẹ
nhưng năng động, hiệu quả đảm bảo yêu cầu khai thác, giám định, kịp thời bồi
thường được nhanh chóng, uy tín
* Phịng ln tích cực đổi mới chính sách khách hàng, tạo mối quan hệ,
hợp tác chặt chẽ, đồng bộ với các ngành liên quan và các cộng tác viên
* Việc quan tâm đổi mới về cơ sở vật chất kỹ thuật như: xây dựng mở
rộng trụ sở, trang bị hệ thống máy vi tính, thơng tin liên lạc… giúp cho phịng
có những thuận lợi mới để tiếp cận phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
* Công tác đào tạo cán bộ luôn được chú trọng, đặc biệt là cán bộ nghiệp
vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Đội ngũ cán bộ cộng tác viên giỏi sẽ là một
tiềm năng lớn đối với hợp đồng kinh doanh của phòng.
* Từ năm 1995 Bảo Việt Thanh Trì đã được sự phân cấp giám định và
giải quyết bồi thường từ Công ty bảo hiểm Hà Nội, tạo điều kiện cho các chủ xe
thamgia bảo hiểm một cách dễ dàng cũng như việc bồi thường được kịp thời,



không mất thời gian cho các chủ xe tăng uy tín đối với nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự nói riêng và tồn ngành bảo hiểm nói chung.
Bên cạnh những thành công trên, trong thực tế triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Bảo Việt Thanh
Trì vẫn còn một số vấn đề tồn tại cần phải giải quyết:
1. Phần lớn các chủ xe (lái xe) chưa hiểu sâu về quyền lợi và trách nhiệm
của mình khi tham gia bảo hiểm, đặc biệt là chủ xe máy. Vì thế việc tuyên
truyền, quảng cáo, giáo dục trong quần chúng nhân dân về nghiệp vụ này bằng
tất cả biện pháp, xúc tiến mạnh mẽ nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Đây là hạn chế lớn mà phòng chưa khắc phục được.
2. Trong một số vụ tai nạn, số tiền của bảo hiểm thấp hơn thiệt hại thực
tế, đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn. Vì vậy phịng nên đề nghị cơng ty
xem xét lại phí hàng năm cho phù hợp với mức bồi thường của bảo hiểm trong
năm trước.
3. Từ trước tới nay số hồ sơ bồi thường vụ tai nạn phụ thuộc quá nhiều
vào hồ sơ của cơng an và tồ án. Thực tế có nhiều hồ sơ công an lập sơ sài,
không đủ cơ sở để bảo hiểm tính tốn bồi thường, nhiều hồ sơ cơng an tự giải
quyết nhưng bảo hiểm lại tính tốn bồi thường. Vấn đề này thiếu sự chính xác
trong khâu giải quyết bồi thường tai nạn, tạo ra sự “chán nản” cho các chủ xe.
4. Trường hợp lái xe gây tai nạn nhưng khơng có lỗi và cũng khơng phải
là do sự cố ý của nạn nhân. Trong trường hợp này đương nhiên là không phát
sinh trách nhiệm dân sự, do đó khơng phát sinh trách nhiệm bồi thường của bảo
hiểm. Nhưng trong thực tế, lái xe (chủ xe) cũng phải mất một khoản chi lớn để
giải quyết vụ việc ổn thoả và không nhận được lại khoản tiền bồi hoàn của bảo
hiểm. Nên chăng, với những trường hựp này ngành bảo hiểm cần có một phần
là phí bảo hiểm tai nạn hoặc có chính sachs “đền bù nhân thọ” để có thể giải
quyết đền bù thoả đáng.




×