Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.79 KB, 45 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QLNN ĐỐI
VỚI TTCK VIỆT NAM.
I.BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TTCK CỦA MỘT
SỐ
NƯỚC VÀ NHỮNG BÀI HỌC CHO QLNN ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM.
1.Mô hình quản lý TTCK Thái Lan:
TTCK Thái Lan là một thị trường có quy mô nhỏ so với thị trường trong khu
vực. Với giá trị thị trường chỉ vào khoảng 134 tỷ USD nhưng tỷ lệ doanh thu đạt
80% từ hoạt động này ở mức cao so với thị trường các nước trong khu vực. Thị
trường Thái Lan được coi là một thị trường mới nổi và là một trong những thị
trường hoạt động sôi động nhất tại Đông á.
SGDCK Thái Lan ( SET) được thành lập năm 1975. SET có mô hình sở hữu
thành viên, bao gồm 39 CtyCK thành viên. SET có Hội đồng quản trị gồm 11
thành viên, trong đó 5 thành viên do UBCK Thái Lan bổ nhiệm, 5 thành viên do
các CtyCK là thành viên của Sở bầu ra, 10 thành viên HĐQT của SET sẽ biểu
quyết để bổ nhiệm một chủ tịch của Sở cũng là thành viên thứ 11 của HĐQT.
Các thành viên của HDQT được đa dạng hoá về chuyên môn. Có người là đại
diện cho CtyCK thành viên, có người là đại diện cho công ty niêm yết, có người
là chuyên gia kinh tế, tài chính, quản trị tài sản. Thái Lan hiện có 41 CtyCK,
trong đó các CtyCK nước ngoài chiếm phần lớn thị phần. Các CtyCK có quy mô
nhỏ, phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập từ phí môi giới. Ngành Quỹ đầu tư tại Thái
Lan mới trong giai đoạn đầu phát triển với 19 công ty quản lý tài sản, 774 quỹ,
tổng giá trị tài sản ròng (NAV) của thị trường vào khoảng 28 tỷ USD. Tốc độ
tăng trưởng của TTCK cao trong giai đoạn 2001-2005 là cao so với khu vực
Ngân hàng, đạt 33,5%. Tuy nhiên, mức độ tăng trưởng này lại phụ thuộc phần
lớn vào mức tăng của giá chứng khoán (23,8%) chứ không phụ thuộc nhiều vào
sự gia tăng về giá trị vốn mới được đưa vào trong thị trường (9,7%).[17]
1
Bảng 3: Giá trị thị trường và doanh thu của một số nước trong khu vực
trong năm 2005.
Nước Hồng


Kông
Hàn
Quốc
Trung
Quốc
Thái
Lan
Philippine
s
Giá trị thị
trường
( triệu
USD)
1.054.99 718.011 286.190 134.885 39.799
Tỷ lệ
doanh thu
48% 168% 80% 80% 20%
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
1.1. Mục tiêu quản lý TTCK Thái Lan.
Mục tiêu quản lý TTCK Thái Lan được xác định trong Luật Chứng khoán là
xây dựng và giám sát thị trường vốn để có được một thị trường hiệu quả, công
bằng, minh bạch và toàn vẹn.
1.2. Cơ quan quản lý TTCK:
UBCK Thái Lan được thành lập năm 1992. Về cơ cấu tổ chức UBCK có Hội
đồng uỷ viên gồm 11 thành viên, trong đó Bộ trưởng Bộ Tài chính là chủ tịch
Hội đồng uỷ viên, thành viên Hội đồng bao gồm Thống đốc NHNN, Thứ trưởng
thường trực các Bộ Tài chính và Thương mại, 6 chuyên gia được thuê ngoài và 1
Tổng thư kí chịu trách nhiệm điều hành hoạt động hàng ngày của Uỷ ban.
UBCK là cơ quan độc lập về tài chính. UBCK và SET có thoả thuận nhau về
việc phân chia trách nhiệm trong quản lý TTCK. Trách nhiệm của UBCK là xây

dựng và kiểm soát chung đối với toàn bộ thị trường cả về kĩ thuật lẫn tài chính,
quy định chung về đạo đức hành nghề, có chức năng cấp chứng nhận đăng kí
cho môi giới, kiểm tra tại chỗ đối với các CtyCK. UBCK tiến hành thanh tra,
kiểm toán tại chỗ đối với SGDCK.
Trách nhiệm của SET là bắt buộc các thành viên phải tuân thủ các quy chế
( quy chế niêm yết, quy chế thành viên và quy chế giao dịch), duy trì một thị
2
trường có trật tự thông qua việc quy định các tiêu chuẩn và quy trình giao dịch,
hướng dẫn về quản lý rủi ro và kiểm soát đối với hoạt động thanh toán, bù trừ,
kiểm tra tại chỗ đối với các CtyCK thành viên.
Hiệp hội các CtyCK Thái Lan ( ASCO- Association of Securities
Companies) là tổ chức tự quản được pháp luật công nhận. Hoạt động chủ yếu
của Hiệp hội là đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề. Nhân viên môi giới muốn
được SET cấp phép thì phải qua đào tạo và được cấp chứng chỉ bởi Hiệp hội.
Hiệp hội được tổ chức dưới hình thức các nhóm hoạt động theo mô hình câu lạc
bộ. Dưới Hiệp hội là các Ngân hàng đầu tư, các câu lạc bộ IT, câu lạc bộ hoạt
động hỗ trợ ( back- office operation) và Viện đào tạo chứng khoán của Hiệp hội.
1.3.Phương thức quản lý của TTCK Thái Lan:
UBCK thực hiện chức năng quản lý TTCK bằng các phương thức:
- Duy trì chế độ cho phép cấp phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị
trường.
- Giám sát hoạt động của các trung gian thị trường bao gồm: công ty môi giới tự
doanh, quỹ tương hỗ, công ty tư vấn đầu tư.
- Cưỡng chế thực thi luật pháp đối với các hành vi giao dịch không công bằng.
1.4.Nội dung quản lý TTCK Thái Lan:
Trên thị trường sơ cấp: UBCK đóng vai trò là người quản lý quy trình IPO để
đảm bảo phù hợp về mặt thời gian và chi phí. Đồng thời, UBCK là người đảm
bảo cho hoạt động phát hành trên thị trường sơ cấp được diễn ra minh bạch
thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ về các khoản đầu tư được chào mời
trên thị trường, yêu cầu bắt buộc về bản cáo bạch. Vai trò này thể hịên ở việc

UBCK là người cấp phép IPO và thẩm định bản cáo bạch.
Trên thị trường thứ cấp: UBCK đóng vai trò là người đảm bảo tính minh
bạch của thị trường thông qua việc kiểm tra đầy đủ, chính xác, kịp thời các
thông tin đầu tư. UBCK quản lý hoạt động nghiệp vụ của các trung gian thị
trường, qua đó duy trì sự công bằng trong giao dịch thị trường. UBCK giám sát,
3
ngăn ngừa và xử lý các hành vi giao dịch không công bằng, chủ yếu là thao túng
thị trường và giao dịch nội gián.
1.5. Các tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý TTCK Thái Lan:
Thái Lan đã xác định được rõ ràng mục tiêu trong quản lý TTCK và mục tiêu
này được quy định trong Luật Chứng khoán. Các tiêu chí đánh giá hệ thống
quản lý được xây dựng trên cơ sở tuân thủ gần hết nguyên tắc và mục tiêu trong
quản lý TTCK do IOSCO khuyến nghị. UBCK Thái Lan hiện đang tích cực
chuẩn bị cho việc hài hoà hoá các tiêu chuẩn trong quản lý TTCK để chấp nhận
toàn bộ các nguyên tắc và mục tiêu của IOSCO, hướng tới việc tham gia kí kết
Biên bản ghi nhớ đa phương về hợp tác trong quản lý TTCK.
2. Mô hình quản lý TTCK của Ba Lan:
2.1. Một số nét về thị trường vốn:
Thị trường vốn Ba Lan hình thành từ năm 1991, ngay sau đó, một hệ thống
pháp lý hoàn chỉnh mang tính chất “cách mạng”, tránh được những xung đột
giữa Luật Chứng khoán với Luật Thương mại, Luật Dân sự đã được xây dựng.
Thị trường Ba Lan được đánh giá là thị trường phát triển nhanh và khá thành
công trong nền kinh tế chuyển đổi các nước Đông Âu. Hiện nay, giá trị vốn hoá
của thị trường vốn Ba Lan khoảng vào 25% GNP. Việc phát triển thị trường vốn
đã tạo ra một kênh hiệu quả nhất, thúc đẩy quá trình tư nhân hoá một cách minh
bạch, tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết, hiệu qủa quản lý
nợ công ( Ba Lan phải thực hiện theo Hiệp định Maxtric), sử dụng nguồn vốn
hưu trí hiệu quả thông qua đầu tư trên thị trường vốn.
2.2. Hoạt động QLNN đối với TTCK Ba Lan:
a. Bộ Tài chính:

Hiện nay Bộ Tài chính Ba Lan có chức năng quản lý, giám sát chung về hoạt
động của thị trường tài chính liên quan đến hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, thị
trường vốn. Nội dung quản lý chủ yếu là xây dựng, giám sát việc thực hiện chức
năng nhiệm vụ theo quy định của luật pháp ( Bộ Tài chính không quản lý hoạt
động nghiệp vụ).
4
Đối với dự thảo luật, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với PESC xây dựng dự
thảo luật, lấy ý kiến các thành viên thị trường và các tổ chức có liên quan trình
Chính phủ và Quốc hội thông qua. Đối với văn bản dưới luật, PESC chủ trì dự
thảo thông tư tự hướng dẫn và trình Bộ Tài chính ban hành. PESC chỉ ban hành
các văn bản quy định nghiệp vụ cho hoạt động của thị trường và có trách nhiệm
giải thích về pháp luật ( luật, thông tư ) cho thị trường.
b. Ngân hàng TW Ba Lan:
NHTW Ba Lan phối hợp với PESC giám sát các tổ chức hoạt động kinh
doanh chứng khoán thuộc ngành Ngân hàng. Theo pháp luật Ba Lan, các Ngân
hàng muốn cung cấp dịch vụ chứng khoán phải thành lập CtyCK độc lập, các
công ty này chịu dự giám sát của PESC.
Ba Lan thành lập Hội đồng Giám sát hoạt động của ngân hàng nằm ngoài
NHTW, có chức năng cấp phép, quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng. Hội
đồng có 7 thành viên. Hội đồng này và PESC kí kết văn bản để giám sát hoạt
động các ngân hàng niêm yết trên TTCK trên cơ sở trao đổi thông tin về tình
trạng tài chính, mức độ rủi ro và hoạt động đầu tư của các ngân hàng này.
c. UBCK Ba Lan:
PESC bắt đầu hoạt động từ năm 1991 từ khi thành lập thị trường vốn Ba Lan.
Việc ra đời cơ quan quản lý cùng với thời điểm thành lập thị trường vốn đã tránh
được một số sai lầm mà một số nước mắc phải, đảm bảo cho thị trường hình
thành một cách có tổ chức, thực hiện đúng yêu cầu CBTT và thu hút các luồng
vốn đầu tư vào thị trường vốn..
PESC là cơ quan Chính phủ có chức năng sau: Thẩm định và cấp chứng nhận
đăng kí PHCK ra công chúng; cấp phép kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư;

cấp phép hành nghề và tổ chức sát hạch cấp phép hành nghề; thanh tra giám sát
hoạt động của các tổ chức tham gia trên thị trường; xử lý vi phạm của các bên
liên quan đến TTCK; chuẩn bị các văn bản pháp lý liên quan tới hoạt động
TTCK và thị trường hàng hoá; hợp tác với các cơ quan chức năng... PESC chỉ
quản lý phát hành ra công chúng, không quản lý phát hành riêng lẻ.
5
PESC hoạt động theo cơ chế uỷ viên và hiện có 8 uỷ viên. PESC là cơ quan
có thẩm quyền quyết định cao nhất
d. SGDCK Vacxava ( WSE):
WSE được thành lập từ năm 1817 và hoạt động đến trước chiến tranh thế
giới thứ 2, năm 1939; đến năm 1991 mới thành lập lại. WSE là CtyCP do
KBNN thành lập, WSE chịu sự giám sát của PESC. Lụât và các quy định áp
dụng cho các hoạt động của Sở bao gồm: Luật các công ty thương mại 2000,
Luật Giao dịch chứng khoán đại chúng; Điều lệ hoạt động của WSE; Quy định
của Ban hoà giải ( Exchange Court).
Những loại chứng khoán được giao dịch trên WSE gồm cổ phiếu, trái phiếu và
các loại chứng khoán phái sinh. Cổ phiếu được yết gía trên hệ thống giao dịch
liên tục hoặc trên hệ thống yết giá đơn với 2 lần yết giá/ ngày. Cổ phiếu của các
công ty công nghệ cao, trái phiếu đều được giao dịch trên hệ thống khớp lệnh
liên tục.
Tổ chức giao dịch: giao dịch được phân chia theo hai khu vực: thị trường
chính ( Main market) được gọi là PLUS và thị trường thứ hai ( Secondary
market) được gọi là PRIM . Sự phân biệt này tuân theo các quy định của EU có
hiệu lực kể từ ngày 1/5/2004 khi Ba Lan chính thức gia nhập EU. Quy định về
tổ chức giao dịch, đặt lệnh và xác nhận kết quả giao dịch được quy định trong
quy chế của WSE và quy chế giao dịch cụ thể.
Vụ thông tin và phân tích thị trường của PESC có chức năng giám sát hoạt
động giao dịch trên WSE. Việc giám sát real- time được thực hiện hàng ngày
thông qua hệ thống giám sát kết nối trực tiếp với hệ thống giám sát của WSE.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện giao dịch khả nghi, PESC có quyền yêu

cầu công ty môi giới cung cấp thông tin về giao dịch của nhà đầu tư. Đối với
giao dịch chứng khoán phái sinh, nhà đầu tư phải có mã giao dịch, qua đó PESC
có thể quản lý cả lỗ lãi và vị thế mà nhà đầu tư đang nắm giữ. WSE cung cấp
thông tin real time về giao dịch và thông tin sau giao dịch cho PESC.
6
3.Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm trong quản lý TTCK của một số nước,
chúng ta có thể rút ra bài học sau đây:
Một là, mục tiêu quản lý được các nước xác định rõ ràng và được công bố
trong các văn bản chính thức của UBCK ( Thái Lan quy định mục tiêu quản lý
tại Luật Chứng khoán ). Các nước đều đặt mục tiêu trong quản lý TTCK là tạo
thị trường công bằng, minh bạch và hiệu quả. Mục tiêu quản lý cần có sự cân
bằng với mục tiêu phát triển, trong đó cơ quan quản lý TTCK không chỉ đóng
vai trò người quản lý mà còn đóng vai trò người phát triển thị trường.
Hai là, việc thiết lập cơ quan quản lý ngay từ khi mới hình thành giúp thị
trường phát triển lành mạnh, bảo vệ được quyền lợi của nhà đầu tư, tránh được
những giai đoạn phát triển thăng trầm phải điều chỉnh thị trường. Cơ quan
QLNN về TTCK đóng vai trò là người giám sát hoạt động của TTCK thông qua
việc duy trì chế độ cấp giấy phép, đăng kí, thực hiện các chương trình kiểm tra,
thanh tra và cưỡng chế thực thí pháp luật về TTCK. Tổ chức tự quản được sử
dụng hợp lý trong hệ thống quản lý, được pháp luật công nhận và được cơ quan
quản lý phân chia nhiệm vụ, thẩm quyền cụ thể trong quản lý TTCK. Tổ chức tự
quản giữ vai trò quản lý người hành nghề trên TTCK, quản lý thành viên của
mình thông qua các quy chế, quy định, quy tắc nghề nghiệp và đạo đức kinh
doanh. ở Việt Nam hiện nay, vai trò của các tổ chức tự quản còn mờ nhạt. Việc
phát huy vai trò của các tổ chức này sẽ là một giải pháp tốt trong việc tăng
cường công tác quản lý TTCK.
Ba là, phương thức hay công cụ quản lý được sử dụng là kết hợp giữa giám
sát, thanh tra và thực thi pháp luật, tăng cường kỉ luật thị trường. Cấp phép,
thanh tra, giám sát và thực thi luật pháp là các chức năng cơ bản của cơ quan

quản lý TTCK. Pháp luật nhấn mạnh đến các hoạt động công bố thông tin đầy
đủ, chính xác, kịp thời, đồng thời yêu cầu tăng cường QTCty theo thông lệ tốt
nhất. UBCK cần có thẩm quyền áp dụng và cưỡng chế thực thi các hình thức xử
7
phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực CK &TTCK. UBCK có quyền
tham gia vào các quy trình dân sự,…
Bốn là, CNTT đóng vai trò rất quan trọng trong việc vận hành và giám sát
giao dịch trên SGDCK. Hoạt động giao dịch và giám sát giao dịch tại SGDCK
được tự động hoá ngay từ đầu, cùng với việc bắt buộc lưu ký tập trung chứng
khoán của công ty đại chúng là những cơ sở rất quan trọng cho viêc tiếp cận thị
trường của nhà đầu tư. Điều này giúp cho việc thực hiện thẩm quyền và chức
năng giám sát của cơ quan quản lý cũng như mở rộng cung cấp dịch vụ và cung
cấp thông tin của SGDCK ngày càng tốt hơn. SGDCK của Ba Lan cung cấp hệ
thống thông tin cho các CtyCK.
Năm là, để quản lý TTCK hiệu quả không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chức năng như Bộ Tài chính, NHTW, UBCK. Bên cạnh đó là
sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan quản lý TTCK với các tổ chức tự quản cũng tỏ
ra khá phù hợp và phát huy hiệu quả trong lĩnh vực đào tạo, hoàn thiện khung
pháp lý và nâng cao uy tín của thị trường.
Sáu là, cùng với việc gia nhập các tổ chức trong khu vực và quốc tế, thì các
hoạt động quản lý TTCK cũng nên chuyển dần theo các quy định của các thông
lệ quốc tế này.
II. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
TTCK VIỆT NAM:
1. Mục tiêu định hướng phát triển TTCK Việt Nam:
1.1. Mục tiêu cơ bản:
Mục tiêu định hướng xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam được đặt ra
trong những năm tới là:
- Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt
động để TTCK Việt Nam thực sự đóng vai trò là một kênh huy động vốn trung

và dài hạn quan trọng của nền kinh tế, góp phần hoàn thiện hệ thống thị trường
tài chính Việt Nam. Phấn đấu đưa quy mô thị trường cổ phiếu và trái phiếu niêm
yết năm 2010 đạt khoảng 10-15% GDP. Tuy vậy, tính đến cuối tháng 12/2006,
8
tổng giá trị thị trường cổ phiếu niêm yết và ĐKGD đã đạt khoảng 221.156 tỷ
tương đương xấp xỉ khoảng 22,7% GDP và tổng mệnh giá các loại trái phiếu
niêm yết và ĐKGD đạt khoảng trên 70.000 tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 7,7% GDP.
Nếu tính tổng giá trị thị trường cho các loại chứng khoán niêm yết thì đã vượt
khá xa mục tiêu trên. Do vậy, theo tình hình phát triển hiện nay của TTCK Việt
Nam thì mục tiêu trên nên là phải “ đưa tổng giá trị thị trường cổ phiếu và trái
phiếu niêm yết đến năm 2010 đạt từ 35-40% GDP.
- Hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động của thị trường có tổ chức. Duy trì
hoạt động của thị trường an toàn, hiệu quả trên cơ sở tăng cường hiệu lực quản
lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
- Từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài
chính quốc tế theo lộ trình cam kết gia nhập WTO và các cam kết quốc tế khác.
1.2.Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến 2010:
- Củng cố và phát triển SGDCK, TTGDCK, TTLKCK nhằm cung cấp các dịch
vụ cho các hoạt động của TTCK theo hướng hiện đại hoá. Xây dựng và phát
triển SGDCK Tp.HCM với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và hệ thống
công bố thông tin tự động hoàn toàn. Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại TTGDCK HN; chuẩn bị điều kiện để sau
năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung OTC.
- Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại DNNN và
doanh nghiệp có vốn ĐTNN thành CtyCP.
- Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK, tăng quy mô và phạm
vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ và CtyCK chuyên doanh nhằm tăng
chất lượng hoạt động. Khuyến khích các CtyCK thực hiện nghiệp vụ quản lý
danh mục đầu tư.
- Thành lập các công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại

chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân. Thiết lập hệ
thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các NHTM, các CtyCK, các công ty
9
tài chính,…tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia vào thị trường với vai trò
là người đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của nhà tạo
lập thị trường. Mở rộng va phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia TTCK thông
qua góp vốn vào các quỹ đầu tư.
2. Cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế thế giới đã
đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với TTCK Việt Nam.
2.1.Cơ hội:
- Nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển cùng với việc đẩy nhanh tiến trình
CPH, các DNNN sẽ cung cấp cho TTCK một khối lượng hàng hoá to lớn, có
chất lượng cao dưới hình thức trái phiếu, cổ phiếu …làm cho quy mô thị trường
có khả năng tăng nhanh. Đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư trong nước cũng
như nước ngoài.
- Tỷ lệ tiết kiệm cao cùng làn sóng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
tăng mạnh sẽ góp phần thúc đẩy TTCK phát triển nhanh ( theo dự báo của Bộ
KH-ĐT, vốn ĐTNN đáp ứng khoảng 30% trong tổng số 40 tỷ USD vốn đầu tư
của nền kinh tế giai đoạn 2006-2010).[ ]
- Hội nhập quốc tế làm cho TTCK có khả năng cạnh tranh và chuyên môn hoá
cao hơn, tiếp cận được kinh nghiệm quốc tế về quản lý, công nghệ và những bài
học của những nước đi trước.
2.2. Thách thức:
Bên cạnh những cơ hội tốt cho sự phát triển của TTCK Việt Nam thì cũng
còn không ít thách thức. Đó là:
- TTCK Việt Nam mới ở giai đoạn đầu phát triển, năng lực quản lý,giám sát còn
hạn chế trong khi các công cụ chính sách vĩ mô chưa được sử dụng đồng bộ và

hữu hiệu.
10
- Hội nhập tạo ra áp lực cạnh tranh khốc liệt trong bối cảnh các CtyCK trong
nước chưa đủ để mạnh, dễ dẫn đến khả năng bị thâu tóm, sáp nhập hoặc phá
sản.
- Gia tăng nguy cơ hoạt động đầu cơ, thao túng và thâu tóm thị trường, nắm
quyền kiểm soát các công ty Việt Nam từ phía các nhà đầu tư lớn cả trong và
ngoài nước, gây rối loạn thị trường.
- Sự ra tăng luồng vốn vào TTCK cũng chứa đựng khả năng rút vốn (đổi chiều)
ồ ạt, ảnh hưởng trực tiếp đến TTCK và cung tiền tệ trong nền kinh tế, tác động
đến hệ thống ngân hàng trong khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn mỏng, việc
kiểm soát các luồng tiền chưa được chặt chẽ.
Như vậy, với mục tiêu định hướng đã định ra cho sự phát triển của TTCK
Việt Nam trong giai đoạn tới (cụ thể là giai đoạn 2006-2010), cùng với những
cơ hội thách thức đặt ra đối với TTCK Việt Nam thì lúc này vai trò của cơ quan
QLNN đối với TTCK là rất lớn. Yêu cầu đặt ra là phải có các giải pháp cụ thể để
tăng cường hơn nữa vai trò và hiệu quả của các cơ quan quản lý để thực hiện
được các mục tiêu, định hướng đã đề ra, nâng cao hơn hoạt động của TTCK Việt
Nam để phát huy hết chức năng là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu
tư phát triển; duy trì hoạt động của thị trường an toàn, hiệu quả.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QLNN ĐỐI
VỚI TTCK VIỆT NAM:
1. Các giải pháp chung:
1.1. Hoàn thiện khung pháp lý CK & TTCK:
Hoàn thiện khung pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các chủ thể
tham gia trên TTCK là để đảm bảo khắc phục các khiếm khuyết nảy sinh từ thực
tế, đồng thời tạo tiền đề để hướng các hành vi, chủ thể đi đúng hướng và đúng
khuôn khổ pháp luật.Mặt khác, phải dung hoà tính hấp dẫn về mặt kinh tế, an
toàn về pháp lý. Có như vậy mới thúc đẩy được sự tham gia của các chủ thể trên
TTCK.

11
*Nhanh chóng xây dựng và ban hành các văn bản cần thiết để thực hiện Luật
Chứng khoán, đồng thời đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Luật Chứng khoán
và các văn bản hướng dẫn Luật. Mặc dù Luật Chứng khoán đã được xây dựng
tương đối cụ thể và chi tiết để hạn chế việc ban hành các văn bản hướng dẫn,
song Luật Chứng khoán là luật chuyên ngành hàm chứa nhiều phạm trù và nội
dung còn khá mới lạ như công ty đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán, chào
bán chứng khoán ra công chúng…Đồng thời các văn bản pháp luật liên quan
cũng phải thường xuyên được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự phát triển
của thị trường. Cụ thể như:
- Cần phải có các văn bản pháp lý quy định một cách cụ thể và chi tiết hơn nữa
về việc xử lý các vi phạm pháp luật như giao dịch nội gián, đầu cơ…nhằm bảo
vệ lợi ích của nhà đầu tư; đưa ra các quy định khuyến khích sự điều tiết của thị
trường, tránh sự can thiệp hành chính của các cấp quản lý vào hoạt động của thị
trường.
- UBCKNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trong việc ban hành các quy định về
giao dịch kỳ hạn (Repo), cho vay cầm cố chứng khoán, vay đầu tư chứng khoán
của các NHTM.
- Bộ Tài chính sớm trình Chính phủ ban hành nghị định tổ chức và hoạt động
của các tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) nhằm hỗ trợ thị trường trái phiếu
phát triển…
*Tiếp tục chỉnh sửa và hoàn thiện các văn bản pháp luật chung tham gia điều
chỉnh lĩnh vực CK & TTCK . Thực trạng hiện nay là hầu hết các văn bản pháp
lý chung tham gia điều chỉnh lĩnh vực CK & TTCK như Luật Dân sự, Luật Hình
sự, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đều được ban
hành trước khi TTCK được thành lập và hoạt động, cho nên nhiều lĩnh vực liên
quan đến CK & TTCK còn bị bỏ ngỏ hay có đề cập thì còn chưa rõ ràng hay có
mâu thuẫn với các quy định của pháp luật chuyên ngành. Do đó, cần rà soát lại
các văn bản pháp luật có liên quan, điều chỉnh những sai khác, thiếu sót trong
các luật. Cụ thể như:

12
- Pháp luật về doanh nghiệp cần có hướng dẫn về vấn đề phát hành riêng lẻ, cần
có các quy định cụ thể hơn về Quản trị công ty áp dụng chung cho tất cả các
doanh nghiệp, cần có quy định cụ thể về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân
nước ngoài.
- Đối với pháp luật về thuế: xây dựng và hoàn thiện các chính sách thuế liên
quan đến lĩnh vực CK & TTCK nhằm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
song vẫn đảm bảo khuyến khích phát triển TTCK. Để thúc đẩy TTCK Việt Nam
phát triển, chính sách thuế vẫn phải dành ưu đãi cho một số đối tượng nhất định.
Ví dụ như đối với hoạt động của các tổ chức định mức tín dụng doanh nghiệp là
rất cần thiết, do đó Nhà nước cần bổ xung hoạt động này vào danh mục hoạt
động không chịu thuế VAT và được hưởng ưu đãi tạm thời về thuế thu nhập
doanh nghiệp.
- Đối với hoạt động kế toán, kiểm toán: Nhà nước tiếp tục bổ xung và hoàn
chỉnh chế độ kế toán, kiểm toán đối với các đối tượng tham gia TTCK để tạo
điều kiện cho các đối tượng này có thể thực hiện tốt công tác và yêu cầu về kế
toán và kiểm toán. Bên cạnh đó, cần tăng cường trách nhiệm thực hiện kiểm
toán và công khai tài chính của các doanh nghiệp chưa niêm yết, chưa ĐKNY.
Điều này sẽ thu hẹp chỗ dựa cho sự che dấu các tiêu cực trong các hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp này, đồng thời góp phần tạo ra môi trường
kinh doanh bình đẳng, minh bạch.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý cho TTCK Việt Nam là một trong
những nhiệm vụ quan trọng và có tính liên tục của cơ quan QLNN và các nhà
hoạch định chính sách. Một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh sẽ tạo ra môi trường
pháp lý ổn định, vững chắc và thuận lợi cho các cơ quan quản lý cũng như cho
mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào TTCK và từ đó thu
hút được các tổ chức trong và ngoài nước tham gia. Một hệ thống pháp lý hoàn
thiện còn là yếu tố quan trọng góp phần đưa Việt Nam hội nhập với TTCK các
nước trong khu vực và trên thế giới.
1.2. Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với TTCK:

13
- Nâng cao thẩm quyền, đảm bảo vị thế tương đối độc lập của UBCKNN trong
bộ máy QLNN. Với những kết quả đạt được có thể thấy mô hình hiện nay về tổ
chức cơ quan QLNN đối với TTCK là tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế-
xã hội, với xuất phát điểm của Việt Nam theo đúng quy luật phổ biến mà nhiều
nước triển khai. Tuy vậy mô hình này hiện nay vẫn còn một số nhược điểm như
đã đề cập ở trong Chương II. Bởi vậy, chúng ta cần nâng cao tính chủ động và
độc lập tương đối của UBCKNN trong quá trình cơ quan này thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của mình. Như vậy, trước hết, cần xác định rõ trách nhiệm,
quyền hạn và vị thế pháp lý của UBCKNN. UBCKNN thuộc Bộ Tài chính về
mặt pháp lý hành chính, chỉ trực tiếp báo cáo, chịu trách nhiệm và chịu sự chỉ
đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính, không chịu sự chi phối của các Cục,
vụ và Uỷ ban khác trực thuộc Bộ Tài chính. UBCKNN cần có thẩm quyền cao
hơn và độc lập hơn đối với lĩnh vực chứng khoán, ví dụ như như việc quản lý
việc tổ chức và thực hiện các chính sách vĩ mô đã ban hành, triển khai chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch đã được duyệt…Bộ Tài chính không nên can thiệp
vào việc điều hành hàng ngày của UBCKNN mà chỉ nên giám sát hoạt động của
UBCKNN và tạo sự gắn kết của cơ quan này với các Cục, Vụ có liên quan trong
việc ban hành các chính sách quản lý và phát triển TTCK.
- Phân định hợp lý chức năng, nhiệm vụ của UBCKNN với các SGDCK,
TTGDCK, TTLKCK. UBCKNN cần thành lập một bộ phận đảm trách chức
năng giám sát các hoạt động trên TTCK chứ không thể giao toàn bộ nhiệm vụ
này cho các SGDCK, TTGDCK. TTGDCK, SGDCK chỉ thực hiện chức năng
giám sát các hoạt động tại đơn vị của mình theo các nhiệm vụ đã đề ra. Bên cạnh
đó, từng bước cắt giảm sự can thiệp trực tiếp của UBCKNN vào hoạt động của
SGDCK, TTGDCK, TTLKCK như từng bước đơn giản hóa các thủ tục hành
chính trong việc phê duyệt các quyết định quản lý và điều hành các hoạt đông
diễn ra tại trung tâm theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện triệt để các cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực QLNN, trong
toàn bộ các quy trình triển khai các chức năng QLNN của Bộ Tài chính,

14
UBCKNN và các đơn vị chức năng thuộc UBCKNN. Giảm bớt các khâu, các
công đoạn, thủ tục rườm rà không cần thiết trong qúa trình xây dựng và ban
hành các văn bản pháp quy cũng như các chính sách, biện pháp phát triển TTCK
để vừa đảm bảo rút ngắn thời gian ban hành nhưng cũng đồng thời đảm bảo
được chất lượng của hoạt động quản lý.
- Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội
ngũ lãnh đạo và nhân viên trong các cơ quan QLNN chuyên ngành CK&TTCK.
Cần có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu mới trong công tác
quản lý, mở rộng hợp tác đào tạo và trao đổi chuyên gia với nước ngoài để học
hỏi thêm kinh nghiệm và trình độ quản lý.
- Đẩy mạnh sự liên kết phối hợp giữa Bộ Tài chính, UBCKNN với các Bộ,
ngành chức năng có liên quan trong việc thống nhất quản lý, ban hành các chính
sách đồng bộ có liên quan đến hoạt động của TTCK nói riêng và các hoạt động
của nền kinh tế nói chung.
1.3. Một số giải pháp chung khác:
- Nhà nước cần ban hành các và hướng dẫn việc thực hiện quy chế quản trị công
ty đối với các TCPH, TCNY, tổ chức ĐKGD, tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Sự yếu kém về quản trị công ty hiện nay đang là một trong những nguyên nhân
làm hạn chế tính công khai, công bằng và minh bạch của TTCK. Các quy chế về
quản trị công ty cần được xây dựng trên những thông lệ tốt nhất về về tình hình
quản trị công ty ở Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu cơ bản bảo vệ quyền lợi của
cổ đông, đối xử công bằng với các cổ đông, bảo vệ quyền lợi của những người
hưởng lợi liên quan đến công ty; thực hiện nguyên tắc CBTT và đảm bảo minh
bạch công khai, yêu cầu cao hơn với trách nhiệm của HĐQT.
- Tăng cường sự phối hợp giữa UBCKNN và hiệp hội ngành nghề liên quan như
Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam (VASB), Hiệp hội các nhà đầu tư
tài chính Việt Nam (VAFI). Mặc dù các tổ chức này không phải là các cơ quan
QLNN, song họ sẽ hỗ trợ đắc lực cho UBCKNN trong việc quản lý và phát triển
TTCK. Ngoài việc quản lý và bảo vệ quyền lợi của các hội viên, các tổ chức này

15
còn có nhiệm vụ góp ý xâydựng và hoàn thiện khung pháp lý về CK&TTCK, tổ
chức đào tạo nghề nghiệp, xây dựng các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp và đề
xuất giải pháp phát triển TTCK. Trong thời gian qua, việc phối hợp giữa
UBCKNN và các hiệp hội này còn chưa chặt chẽ, chưa phát huy được trách
nhiệm và vai trò của các hiệp hội. Trong thời gian tới, UBCKNN cần phải đẩy
mạnh hơn nữa sự phối hợp với các hiệp hội này trong các hoạt động xây dựng
và hoàn thiện khung pháp lý, tổ chứcđào tạo nghề và tìm ra các giải pháp phát
triển TTCK Việt Nam.
- Các cơ quan Nhà nước, mà trực tiếp là UBCKNN và NHNN cần phải phối hợp
với nhau trong hoạt động quản lý và giám sát các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm,
chứng khoán. Thị trường tiền tệ , thị trường bảo hiểm và TTCK là những bộ
phận cấu thành nên thị trường tài chính. Do đó, những biến động trên mỗi bộ
phận thị trường thì lại có tác đông nhất định tới các bộ phận thị trường còn lại.
Ví dụ như, sự điều chỉnh lãi suất ngân hàng lại có tác động tới giá chứng khoán;
ngược lại, sự biến động của TTCK cũng có thể tác động đến các hành vi trên thị
trường tiền tệ, bảo hiểm. Nhiều NHTMCP hiện nay tham gia niêm yết cổ phiếu,
trái phiếu trên TTCK, hoạt động kinh doanh dưới hình thức là các thành viên lưu
ký, thành lập các CtyCK để đầu tư chứng khoán, cho vay… Bởi vậy, sự đan xen
và phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực này là rất lớn. Một số biện pháp để triển
khai quản lý và giám sát các hoạt động này như cấm các NHTM chuyển tín
dụng cho các CtyCK trực thuộc để ĐTCK, hạn chế cho vay cầm cố chứng
khoán, thắt chặt ngoại hối nhằm ngăn chặn rủi ro và đổ vỡ của thị trường…
- Tăng cường đào tạo, thông tin tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về
CK&TTCK. Trong thời gian qua, hoạt động đào tạo, thông tin tuyên truyền về
CK&TTCK đã được UBCKNN chú trọng thực hiện và đã đạt được những kết
quả khả quan. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế nói chung và của
TTCK trong những năm tới thì số lượng người được đào tạo hoặc tiếp cận các
kiến thức về CK&TTCK cho đến nay chỉ là một con số rất nhỏ. Như vậy việc
mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, phổ biến, tuyên truyền về CK&TTCK

16
là một nhiệm vụ quan trọng đặt ra với UBCKNN nhằm mục tiêu xã hội hoá
chứng khoán. Một số giải pháp cụ thể như: tiếp tục thực hiện công tác nghiên
cứu khoa học để hỗ trợ cho hoạt động quản lý và phát triển TTCK. Song song
với việc đổi mới cần cập nhật chương trình, giáo trình mới nhất, quy định về tiêu
chuẩn của người dạy chứng khoán, tránh tình trạng dạy chay. Tiếp tục mở rộng
hoạt động đào tạo, cấp phép hành nghề đồng thời đổi mới các hình thức đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức theo yêu cầu của công chúng. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính,
UBCKNN cần phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh, truyền
hình để xây dựng các chương trình phổ cập các kiến thức chứng khoán một cách
thường xuyên, chuyên nghiệp, tăng tần suất, chủng loại, và chất lượng thông tin
được đưa ra. Tổ chức thường xuyên các cuộc họp báo để định hướng thông tin
dư luận và trả lời thắc mắc của báo giới; tổ chức các diễn đàn để thu thập ý kiến
phản ánh những bất cập trong chính sách và tiếp thu các góp ý của công chúng.
- UBCKNN cần tiếp tục phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế cả về chất
lượng và chiều sâu, đưa TTCK Việt Nam hội nhập với TTCK thế giới. Có thể
thấy,các hoạt động hợp tác quốc tế ban đầu đã góp phần giúp Việt Nam có được
bước đi ban đầu thuận lợi và tương đối vững chắc trong quá trình phát triển
TTCK. Chúng ta đã học hỏi được kinh nghiệm quản lý, tận dụng được sự trợ
giúp về vốn, kĩ thuật, rút ngắn được khoảng cách về trình độ phát triển trong
lĩnh vực chứng khoán so với các khu vực khác trên thế giới. Bởi vậy, cần tiếp
tục duy trì các mối quan hệ hợp tác sẵn có, không ngừng mở rộng các mối quan
hệ mới dưới các hình thức như trao đổi thông tin, tổ chức các cuộc hội thảo quốc
tế về TTCK, trao đổi chuyên gia…và tiếp tục tìm kiếm sự trợ giúp về tài chính,
kĩ thuật…để hỗ trợ, phát triển TTCK. Với tư cách là thành viên của IOSCO,
Việt Nam phải chủ động tham gia và tổ chức hoạt động của các tổ chức này;
xem xét và có kế hoạch thực hiện các đề xuất về các quy tắc quản lý mà tổ chức
này khuyến nghị đối với các thành viên trên cơ sở phù hợp với thực tiễn hoàn
cảnh đất nước.
17

- UBCKNN cần triển khai việc đầu tư, áp dụng công nghệ thông tin trong ngành
chứng khoán. Công việc trước mắt là triển khai việc thực hiện Dự án hiện đại
hoá công nghệ thông tin ngành chứng khoán đến năm 2010, tiến tới tự động hoá
toàn bộ các giao dịch, thanh toán, CBTT, giám sát thị trường theo chuẩn quốc tế.
UBCKNN cần mỏ rộng tin học hoá để hoàn chỉnh hệ thống thống kê ngành
chứng khoán, xây dựng đơn vị tin học độc lập, chịu trách nhiệm triển khai và
vận hành các hệ thống và chương trình ứng dụng cho toàn ngành.
2. Các giải pháp riêng:
2.1. Giải pháp đối với hoạt động phát hành ra công chúng.
*Đối với hoạt động phát hành TPCP
- Tạo ra tính linh hoạt trong công tác điều hành lãi suất và tăng tính hấp dẫn đối
với TPCP. Bộ Tài chính cần quy định lãi suất trần trong đấu thầu TPCP một các
linh hoạt hơn, không chỉ căn cứ vào mục tiêu, nhu cầu huy động vốn của Chính
phủ mà còn phải dựa vào diễn biến cung cầu tiền tệ và tình hình kinh tế để định
ra mức lãi suất trần cho phù hợp, nhằm đảm bảo thành công các đợt phát hành
TPCP. Việc định ra lãi suất TPCP phát hành theo kênh bán lẻ qua hệ thống
KBNN thì cần phải xem xét với tình hình lãi suất huy động vốn cùng kì hạn của
các NHTM và mức lạm phát của nền kinh tế.
-Cải tiến phương thức phát hành TPCP, tăng cường phát hành theo phương thức
đấu thầu và phương thức bảo lành phát hành TPCP. Đa dạng hoá các kì hạn
TPCP, xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu nhằm cung cấp
đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK.
* Đối với hoạt đông PHCK ra công chúng của các doanh nghiệp.
- Theo như những bất cập đã nêu ở chương II, hiện nay hoạt động PHCK ra
công chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều các văn bản khác nhau, do vậy cần
phải quy định một cách thống nhất các vấn đề về cơ sở pháp lý cho hoạt động
PHCK ra công chúng của các đối tượng khác nhau.
- Phối hợp với các Bộ,ngành, địa phương trong việc thực hiện chuyển đổi các
DNNN thành các CtyCP. Quyết liệt thực hiện kế hoạch CPH DNNN giai đoanj
18

×