Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

KIẾN NGHỊ NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.61 KB, 18 trang )

1
KIẾN NGHỊ NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Thời gian bình ổn của thị trường tín dụng đã qua đi, sự tăng trưởng tín
dụng đột biến trong thời gian gần đây cùng với tình hình kinh tế ngày càng khó
khăn sẽ không tránh khỏi những rủi ro tín dụng gây ra, những khoản nợ xấu gia
tăng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng.
Từ những số liệu thống kê phân tích trên, những nguyên nhân dấu hiệu
nhận biết rủi ro tín dụng, ví dụ điển hình về chất lượng tín dụng tại ngân hàng
Việt Nam cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn, rủi ro luôn bao vây rình rập chúng
ta, nếu không có chính sách quản lý tốt, giải pháp hạn chế hữu hiệu thì không ít
trường hợp công ty Bông Bạch Tuyết còn tiếp diễn và những khoản nợ trở nên
khó thu hồi.
Trong bối cảnh nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, mà
vẫn đảm bảo nâng cao được chất lượng, đạt hiệu quả trong hoạt động tín dụng,
kiểm soát được rủi ro tín dụng thì cần phải có nhiều giải pháp được thực hiện
đồng bộ. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở các
ngân hàng thương mại Việt Nam.
3.1.VĨ MÔ
3.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định:
Môi trường kinh tế chính trị xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động tín dụng. Trong điều kiện khi Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế thế giới
thì cạnh tranh càng cao, nền kinh tế dễ biến động, doanh nghiệp dễ có nguy cơ
mất khả năng thanh toán, phá sản. Hơn nữa, hiện nay có nhiều ngân hàng mới
được thành lập, trong khi thị trường có hạn nên cạnh tranh ngày càng khốc liệt,
2
từ đó chất lượng tín dụng ngày càng giảm thấp. Đảm bảo các môi trường này ổn
định sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như khách hàng hoạt động kinh doanh
có hiệu quả hơn, khả năng hoàn trả nợ vay ngân hàng cao.
Để đảm bảo môi trường ổn định có nhiều cách, trong đó không thể không
có sự can thiệp của Chính phủ như đề ra các quy định về vốn điều lệ, nhân sự,…


giảm thiểu sự thành lập các ngân hàng, nâng cao chất lượng ngân hàng, cũng như
điều tiết nền kinh tế, giảm thiểu những khó khăn do thị trường gây ra tác động
lên các doanh nghiệp.
3.1.2. Nâng cấp hệ thống thông tin minh bạch chính xác:
Trong hoạt động tín dụng, thông tin về khách hàng vay vốn của các ngân
hàng thương mại rất quan trọng, mục đích ngăn ngừa rủi ro và góp phần ổn định
hệ thống ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là cho vay
với lòng tin khách hàng sẽ hoàn trả theo thoả thuận. Muốn cho vay đảm bảo
được an toàn, ngân hàng phải nắm đầy đủ các thông tin khách hàng để xem xét,
quyết định cho vay và giám sát sau khi vay như thông tin hồ sơ pháp lý, tình
hình tài chính, tình trạng nợ nần, tài sản bảo đảm, khả năng hoàn trả và các thông
tin cần thiết khác của khách hàng vay.
- Thông tin về hồ sơ pháp lý như tên khách hàng, địa chỉ, quyết định
thành lập, đăng ký kinh doanh, các chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc, họ tên và
trình độ người lãnh đạo, nghề nghiệp kinh doanh, mặt hàng sản xuất, kinh doanh
chủ yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm...
- Thông tin về tình hình tài chính bao gồm tình hình vốn, kết quả sản xuất
kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ, qua đó ngân hàng có thể đánh giá khả năng tài
chính, hoạt động và phát triển của khách hàng.
3
- Thông tin về tình hình quan hệ tín dụng gồm các khoản vay tại các tổ
chức tín dụng, tổ chức khác, thời hạn trả của các khoản vay đó, lịch sử quan hệ
tín dụng của khách hàng đối với các tổ chức tín dụng đã cho vay
- Thông tin về xếp loại tín dụng của khách hàng từ các cơ quan xếp loại
bên ngoài và kết quả xếp loại nội bộ của ngân hàng thương mại.
- Thông tin liên quan đến dự án xin vay của khách hàng, ngân hàng cần
xem xét khả năng trả nợ của khách hàng từ việc thực hiện dự án và các thông tin
khác liên quan đến tính khả thi của dự án.
- Thông tin về môi trường kinh doanh có liên quan đến ngành nghề, lĩnh
vực hoạt động của khách hàng, thông tin kinh tế, thị trường, xu thế phát triển,

tiềm năng của ngành.
Để có thể cung cấp các thông tin đó cho ngân hàng thương mại một cách
đầy đủ và có hiệu quả, cần phải có những cơ quan chuyên môn thu thập, xử lý và
cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế, việc cung cấp thông tin này
còn hạn chế và thiếu minh bạch chính xác. Mặc dù đã có nhiều kênh cung cấp
thông tin, nhưng vẫn không tránh khỏi thiếu sót như tình hình dư nợ, vay nợ của
khách hàng, tình trạng thế chấp bất động sản ở nhiều nơi,… Do vậy, việc nâng
cấp hệ thống thông tin minh bạch chính xác là rất cần thiết và hữu ích, các kênh
cung cấp thông tin cần phải cập nhật thường xuyên, cẩn thận, có kế hoạch lưu trữ
thông tin hợp lý, hiệu quả. Chính phủ cần có các biện pháp, ban hành luật định
xử lý nghiêm các đơn vị cố tình che giấu, khai báo, cung cấp sai sự thật ảnh
hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
4
3.1.3. Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo, rút ngắn
thời gian giải quyết hồ sơ để các ngân hàng nhanh chóng thu hồi nợ:
Mặc dù luật và các văn bản có liên quan của Việt Nam quy định Ngân
hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay khi khách hàng không
trả được nợ, tuy nhiên cơ chế pháp lý chưa rõ ràng, đặc biệt là quyền sử dụng
đất. Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ tại điểm
4, điều 34 cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói
chung và tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự
thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-
NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp,
Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 (sau đây gọi tắt là
Thông tư 03) quy định TCTD không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận
quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và
theo Khoản 2 – Mục III của thông tư này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của
các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra Tòa: “Trường hợp tài
sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không xử lý được theo
thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì tổ chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu

giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra tòa án”. Việc này gây cản trở cho các ngân
hàng thương mại khi xử lý tài sản thế chấp trong thực tế, việc xử lý thu hồi nợ
còn mất nhiều thời gian và qua nhiều khâu đoạn, do:
- Ngân hàng chuyển hồ sơ của tài sản đảm bảo sang Trung tâm bán đấu
giá chuyên trách thuộc Sở tư pháp để xử lý, tuy nhiên tiến độ xử lý quá chậm,
mất nhiều thời gian, thậm chí có nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được.
Việc này do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân không thể không
nhắc đến là hoạt động của Trung tâm bán đấu giá kém hiệu quả. Khi đó, không ít
5
trường hợp ngân hàng có thể phối hợp với người có tài sản đảm bảo để xử lý
hoặc tự xử lý được, nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản
gắn liền với đất cho người mua, thì các cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện
công chứng, đăng bộ,… với lý do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải
thông qua Trung tâm bán đấu giá chuyên trách theo quy định.
- Khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, theo Khoản 3 – Mục III,
phần B của Thông tư Liên tịch 03, thì TCTD phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền cho phép bán đấu giá, làm cho quy trình bán đấu giá càng mất
nhiều thời gian và thủ tục:
° 15 ngày xin cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản.
° 15 ngày thực hiện việc đăng ký bán đấu giá tài sản.
° 30 ngày niêm yết tài sản bán đấu giá.
° 60 ngày cho thời gian cấp giấy chứng nhận cho người mua tài sản.
- Công tác thi hành án còn chậm. Trong thực tế có nhiều bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của
ngân hàng. Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như
bản án chưa rõ ràng, hoặc lý do khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải chờ
cơ quan thi hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo
dài hàng tháng thậm chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của
cơ quan thi hành án.
Một ví dụ điển hình là vụ án Công ty Thuận Thuận An, sau khi mất khả

năng thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng Kỹ thương, từ năm 2004 ngân hàng
tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để phát mãi tài sản đảm bảo là quyền sử
dụng đất và sở hữu nhà thu hồi nợ. Tuy nhiên mất một thời gian khá lâu (từ năm
2004 đến năm 2006), tốn nhiều chi phí, đi lại, mới có quyết định của Tòa án có
6
hiệu lực thi hành, song ngân hàng vẫn chưa thu hồi được nợ mãi đến cuối tháng
02 năm 2008, nhưng chỉ thu hồi được một phần nợ gốc. Điều này cho thấy, để
một TCTD có thể thu hồi được nợ từ việc phát mãi tài sản đảm bảo không phải
đơn giản, nhanh chóng, không phải là việc có thể xử lý dễ dàng trong tầm tay.
Trong nền kinh tế thị trường, đi đôi với sự sinh sôi phát triển các doanh
nghiệp làm ăn hiệu quả là sự phá sản của các doanh nghiệp kinh doanh hoạt
động yếu kém, đào thải trong cạnh tranh là quy luật khách quan, không phụ
thuộc vào ý chí của nhà doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại với chức năng
trung gian tài chính, luôn phải gánh chịu những khoản nợ tồn đọng là tất nhiên.
Việc áp dụng các giải pháp khai thác và thanh lý đối với các khoản nợ chuyển
quá hạn đều là giải pháp tác động của ngân hàng lên khách hàng khi mọi việc đã
rồi, vì thế ngân hàng luôn ở trạng thái bị động.
Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí, Chính phủ
cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu thi hành
án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch thoả
thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các
tài sản đảm bảo.
3.2.VI MÔ
3.2.1. Quản lý thanh tra chế độ báo cáo:
Hệ thống quản lý thanh tra giám sát của các ngân hàng thương mại cổ
phần hiện nay vẫn còn coi trọng công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác
thanh tra giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ. Việc giám sát từ xa, kiểm toán nội
bộ mục đích là cung cấp những thông tin cần thiết, tín hiệu cảnh báo nhằm ngăn
chặn sớm, phát hiện kịp thời những sự cố để có hướng khắc phục, phòng ngừa
hiệu quả.

7
Muốn thực hiện được tốt vấn đề này, các ngân hàng thương mại cổ phần
cần phải xây dựng, thiết lập đội ngũ kiểm tra giám sát có trình độ, chuyên môn
cao, luôn được đào tạo nghiệp vụ vững chắc và cập nhật mới để nắm bắt kịp thời
những sự cố và kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó phải định kỳ kiểm tra giám
sát các hoạt động của ngân hàng để giảm thiểu được những sai sót có thể xảy ra.
Đồng thời phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ báo cáo, báo cáo hàng tháng,
hàng quý đều đặn, đảm bảo tính chính xác khách quan và minh bạch.
3.2.2. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro tín dụng:
Quy trình quản lý rủi ro tín dụng có bốn giai đoạn cơ bản: khởi đầu và giải
ngân; giám sát và quản lý; thu hồi và xử lý nợ; thẩm định lại rủi ro tín dụng.
Mỗi ngân hàng nên có một quy trình quản lý rủi ro tín dụng cho riêng
mình, nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ các giai đoạn. Xây dựng và thực hiện tốt quy
trình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sai sót, rủi ro, nâng cao chất
lượng tín dụng.
3.2.2.1.Khởi đầu và giải ngân:
Đây là giai đoạn đầu tiên trong quy trình. Giai đoạn này, các ngân hàng
thương mại cần phải làm tốt, làm kỹ ngay từ lúc bắt đầu, cụ thể như việc thu thập
thông tin, thẩm định khách hàng,... trong đó cần chú trọng đến các khâu như:
-So sánh kết quả xếp hạng khách hàng nội bộ với xếp hạng của các cơ
quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC).
-Phân tích cơ cấu nợ, mục đích là để xác định những tác động của cơ
cấu nợ đối với nguy cơ vỡ nợ của khách hàng. Nếu cơ cấu nợ không hợp lý và
hiệu quả thì người trả nợ sẽ bị hạ thấp loại xếp hạng.
Hai khâu này cần phải được tiến hành phối hợp cùng với nhau mới phát
huy được tối đa hiệu quả.

×