Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ÁP DỤNG GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN VÀO TTCK VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.9 KB, 29 trang )

1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ÁP DỤNG GIAO DỊCH QUYỀN
CHỌN CHỨNG KHOÁN VÀO TTCK VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển của TTCK Việt Nam đến năm 2020 và khả
năng áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
3.1.1 Định hướng phát triển của TTCK Việt Nam đến năm 2020
TTCK Việt Nam đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển nhanh
chóng, trong giai đoạn tiếp theo, với bối cảnh hội nhập kinh tế của nền kinh tế đất
nước và TTTC quốc gia, những định hướng chiến lược phát triển lâu dài là rất cần
thiết để phát triển TTCK Việt Nam. Ngày 02/08/2009 Thủ tướng chính phủ đã ra
quyết định số 128/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Mục tiêu là: Phát triển nhanh,
đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó TTCK đóng vai trò chủ đạo;
từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài
chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách
nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả,
tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập TTTC quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường
các nước trong khu vực. Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy
động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá
trị vốn hoá TTCK đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
Với các mục tiêu trên, quyền chọn đã được thể hiện rõ trong từng bước đi của
các chính sách, thể hiện sự cần thiết và cần được phát triển trên TTCK trong tiến
trình hội nhập phát triển. Theo quyết định này các loại chứng khoán phái sinh nói
chung và quyền chọn chứng khoán nói riêng đã được đề cập khá rõ ràng, chi tiết như
quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ
hạn; các sản phẩm liên kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín dụng, tiết
kiệm - chứng khoán...); các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và các khoản nợ....
1
1


2
Xu hướng của TTCK Việt Nam đến năm 2020 sẽ ngày càng phát triển mạnh
mẽ, với quá trình cổ phần hoá các DN, tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các
NHTM nhà nước, gắn việc cổ phần hoá với niêm yết trên TTCK thì hàng hóa trên
TTCK sẽ ngày càng đa dạng. Người dân sẽ ngày càng quan tâm đến TTCK.
3.1.2 Khả năng áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam
Qua việc tìm hiểu thực trạng về quá trình hình thành và phát triển, tổ chức sàn
giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một số nước trên thế giới cho thấy mặc dù
TTCK của các nước ra đời từ rất lâu (Mỹ: 1790, Anh: 1801) nhưng mãi đến năm
1973 giao dịch quyền chọn mới chính thức được giao dịch trên sàn giao dịch tập
trung. Điều này cho thấy việc ứng dụng giao dịch quyền chọn cần có sự chuẩn bị chu
đáo và thời điểm thích hợp. Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn ở TTCK Việt Nam
cũng cần có thời điểm thích hợp và phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết về mọi mặt.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển TTCK. Việc nghiên cứu
phát triển công cụ tài chính đồng hành với thị trường nói chung, quyền chọn nói riêng
là việc làm vô cùng cần thiết. Trong thời gian qua tốc độ phát triển của TTCK Việt
Nam khá nhanh, TTCK Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại như giá
chứng khoán tăng giảm đột biến, chỉ số VN- Index tăng giảm thất thường dẫn đến
nhiều NĐT thua lỗ nặng. Do đó nhu cầu về quyền chọn càng trở nên cấp bách. Việc
áp dụng giao dịch quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam là điều kiện khách quan tất
yếu để có thể phát triển TTCK Việt Nam nói riêng và thị trường vốn nói chung, là
một công cụ cần thiết cho các NĐT, DN và cho cả nền kinh tế nên cần được triển
khai sớm.
Tuy nhiên, những mặt trái của sản phẩm phái sinh cũng là điều mà các nhà
hoạch định chính sách phải tính đến như: Có thể gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng
các công cụ đòn bẩy hay vay mượn; rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng; tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với những nhà đầu tư nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Giá trị
danh nghĩa quá lớn: rủi ro dẫn đến thua lỗ lớn mà nhà đầu tư không thể bù đắp được.
Khả năng dẫn đến phản ứng dây chuyển phá hủy hàng loạt khi có khủng hoảng kinh
tế. Giá trị danh nghĩa quá lớn dẫn tới việc làm méo mó thị trường vốn thực. Nhà đầu

2
2
3
tư bắt đầu nhìn vào thị trường các công cụ phái sinh để quyết định mua hoặc bán
chứng khoán, như vậy cái mà ban đầu được xem là thị trường là để chuyển rủi ro trở
thành một chỉ số hướng dẫn thị trường. Đòn bẩy nợ trong nền kinh tế: việc gia tăng
đòn bẩy nợ trong nền kinh tế làm nền kinh tế thực không đủ khả năng để tài trợ cho
nghĩa vụ nợ và điều chỉnh những hoạt động kinh tế thực, điều này có thể gây ra suy
thoái hay khủng hoảng kinh tế
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp
về tổ chức và quản lý sàn giao dịch và một số giải pháp về phát triển TTCK năm đáp
ứng những yêu cầu cơ bản cho việc hình thành thị trường quyền chọn chứng khoán.
Việt Nam cần lập ra cho mình một kế hoạch hành động cụ thể với những bước đi
thận trọng với mục tiêu là phát huy một cách tối đa vai trò của thị trường quyền chọn
chứng khoán đối với nền kinh tế xã hội.
Trên cơ sở tham khảo mô hình tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán
tại một số nước trên thế giới, Việt Nam có thể xây dựng cho mình một mô hình sàn
giao dịch quyền chọn chứng khoán dựa vào quy mô và điều kiện hiện tại. Chúng ta
có thể thí điểm triển khai quyền chọn sau đó đánh giá kết quả thực hiện, rút ra kinh
nghiệm để từ đó có thể áp dụng rộng rãi trên TTCK cho toàn bộ chứng khoán.
3.2. Một số giải pháp để áp dụng quyền chọn quyền chọn chứng khoán
vào TTCK Việt Nam
3.2.1 Giải pháp về xây dụng và hoàn thiện khung pháp lý
3.2.1.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK
Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán ra đời
đã tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị
trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch
và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các NĐT.
TTCK muốn thu hút được nhiều NĐT, trước hết phải tạo cho NĐT tâm lý
được kinh doanh một cách công bằng trên thị trường. TTCK ổn định và phát triển là

thị trường ít xảy ra gian lận, phạm pháp; mọi hành vi sai phạm phải bị xử lý nghiêm
minh, chính xác. Thị trường đó chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở có một hệ thống
3
3
4
pháp luật hoàn thiện. Còn rất nhiều việc phải làm để xây dựng hành lang pháp lý
nhằm tăng cường tính minh bạch, giảm rủi ro cho thị trường và tính cấp bách của vấn
đề này không cho phép kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn như:
- Đẩy mạnh việc triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban
hành và triển khai các văn bản dưới luật hướng dẫn; hoàn thiện cơ chế đấu giá theo
hướng ngày càng công khai và minh bạch hơn.
- Ban hành quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết, CTCK
và công ty quản lý quỹ đầu tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế trên cơ sở hệ thống
kế toán và kiểm toán tốt.
- Cải cách thủ tục hành chánh, minh bạch hoạt động quản lý, giám sát thị
trường của các cơ quan quản lý.
- Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu theo lô lớn, tăng cường hình thức
phát hành thông qua đấu thầu, bảo lãnh để niêm yết trên TTCK.
- Tiêu chuẩn hóa hoạt động của Trung tâm lưu ký chứng khoán và các thành
viên lưu ký. Từng bước phát triển và hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ của Trung
tâm lưu ký chứng khoán theo các chuẩn mực quốc tế.
- Để hạn chế tình trạng giao dịch nội gián, lạm dụng thông tin từ việc cổ phần
hoá DN do khép kín quá trình cổ phần hoá, từ định giá đến xác định NĐT, cần xem
xét chuyển Uỷ ban chứng khoán thành một cơ quan nhà nước độc lập, tách các sàn
giao dịch chứng khoán khỏi Uỷ ban chứng khoán. Trong trường hợp các trung tâm
giao dịch tách khỏi Uỷ ban chứng khoán nhưng vẫn là DN nhà nước thì các vấn đề tổ
chức, cán bộ vẫn do bộ chủ quản quyết định. Khi đó tác dụng không như mong đợi.
- Hoàn thành việc xây dựng đề án thành lập cơ quan giám sát tài chính tiền tệ
độc lập.
3.2.1.2 Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động quyền chọn chứng khoán

Điều quan trọng nhất để phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán là hệ
thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ. Bởi giao dịch công cụ tài chính phái sinh này không
thể là việc hình thành cung - cầu một cách bản năng tự nhiên của các chủ thể trong
nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính là một trong những bộ phận quan trọng bật
4
4
5
nhất trong nền kinh tế, cần phải được phát triển lành mạnh, hoạt động có hiệu quả và
trong khuôn khổ pháp luật cho phép vì lợi ích vĩ mô và toàn cục. Như vậy, môi
trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực pháp lý cao là điều kiện cần cho sự hình
thành và phát triển của thị trường quyền chọn chứng khoán.
Quyền chọn chứng khoán là một công cụ phái sinh và là công cụ phái sinh
phức tạp nhất trong số các sản phẩm phái sinh hiện nay. Vì vậy để phát triển được
sản phẩm này, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cần phải chuẩn bị xây dựng
một cơ sở pháp lý chặt chẽ và hợp lý. Hệ thống khung pháp lý là cơ sở quan trọng
nhất quy định nguyên tắc tổ chức và hoat động của thị trường phái sinh và tạo nên
những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính, đồng thời các văn bản
pháp luật cũng là cơ sở quan trọng cho dịch vụ mới ra đời. Xây dựng được khung
pháp lý mang tính thực tiễn, thống nhất và khoa học. Hệ thống văn bản pháp luật phải
được xây dựng trên cơ sở thực tế, căn cứ vào hoạt động của TTCK và có thể điều
chỉnh được thị trường theo hướng bao quát, toàn diện và kịp thời.
Từ tính chất phức tạp của các hợp đồng quyền chọn, ngoài việc ban hành mới
và bộ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật để quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt
động của thị trường này, thì việc điều hành và giám sát hoạt động của thị trường cũng
rất cần thiết để đảm bảo được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh, bảo vệ được
quyền lợi chính đáng của NĐT, dung hòa lợi ích của tất cả những chủ thể tham gia
thị trường. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiệu lực pháp lý cao và có tính tiên
liệu sẽ là nền tảng vững chắc để mọi tác nhân có thể an tâm tham gia vào các giao
dịch trên thị trường.
Cần phải xây dựng những nền tảng cốt lõi và cần thiết về bộ máy điều hành

TTCK và thị trường quyền chọn tương lai nhằm có thể kiểm soát và dự báo dược các
tình thế trước khi đưa quyền chọn chứng khoán ra thị trường. Cần phải có các văn
bản pháp luật, các quy định cho các đối tượng tham gia vào thị trường này điển hình
như: người mua, người bán, người môi giới, các chứng khoán cơ sở, các công ty
thanh toán bù trừ…. nhằm giúp cho TTCK hoạt động hiệu quả hơn.
5
5
6
Hơn nữa, do tính chất phức tạp của giao dịch, khiến hoạt động của công cụ
quyền chọn chứng khoán càng nhạy cảm với những hành vi gian lận, tiêu cực. Trên
thị trường này có nhiều đối tượng tham gia như: NĐT, nhà đầu cơ, nhà môi giới…
Mỗi người tham gia trên thị trường đều vì những mục đích, lợi ích và sự hiểu biết
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, nguy cơ rủi ro cũng như khả năng thu
lợi trên hợp đồng quyền chọn là rất lớn. Đặc tính đó khiến cho thị trường phái sinh dễ
xảy ra các hoạt động kiếm lời không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận,
mua bán tay trong, gây thiệt hại các NĐT, thậm chí cho các nhà môi giới – làm trung
gian trong các hợp đồng quyền chọn. Bên cạnh đó, để thị trường quyền chọn chứng
khoán phát huy vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa rủi ro, tránh các hành
vi tiêu cực từ mặt trái của sản phẩm phái sinh như lừa đảo, trốn thuế, làm sai lệch
thông tin, thao túng TTCK… trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho hoạt động
giao dịch này, Chính phủ, Bộ Tài chính, UBCKNN cần xây dựng cho được các quy
định ràng buộc, các yêu cầu về: Nội dung của Hợp đồng quyền chọn; Điều kiện đối
với các chứng khoán cơ sở; Quy định về giới hạn giá và số lượng hợp đồng quyền
chọn giao dịch để tránh tình trạng thao túng thị trường; Điều kiện về công bố thông
tin, đảm bảo tính chuẩn xác và minh bạch trên thị trường…Qua đó, nhằm mở cửa thị
trường cho tất cả các NĐT, các định chế trung gian triển khai các hợp đồng quyền
chọn chứng khoán nhằm đãm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường.
3.2.1.3 Xây dựng việc tổ chức và quản lý sàn giao dịch quyền chọn
Nhằm phát triển, áp dụng được công cụ quyền chọn vào TTCK ở Việt Nam
hiện nay, chúng ta cần phải xây dựng hình thức tổ chức và quản lý của sàn giao dịch.

Cơ cấu tổ chức này bao gồm SGDCK; Các công ty môi giới (CTCK); Các cơ quan
quản lý và giám sát; trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ và các đối tượng tham gia thị
trường. Bên cạnh đó cũng phải xây dựng cho được các nguyên tắc hoạt động ; quy
trình thực hiện giao dịch; và các quy định cho từng đối tượng tham gia thị trường một
cách rõ ràng.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thông qua những quy tắc, và điều lệ Sàn Giao
dịch. Những quy tắc và điều lệ này ban hành những quy định có liên quan đến nhiệm
6
6
7
vụ, cơ cấu tổ chức, việc bổ nhiệm các thành viên của sàn giao dịch. Đồng thời,
UBCKNN có trách nhiệm soạn thảo điều lệ và chuẩn mực chung cho thị trường
quyền chọn, từ đó, các SGDCK, trung tâm lưu ký – thanh toán bù trừ sẽ ban hành các
quy định cho các hoạt động giao dịch trên sàn, bao gồm các biểu mẫu, các quy định
trong hợp đồng, giá thực hiện, hạn mức thực hiện, phương thức đặt lệnh, ký quỹ, và
thanh toán hợp đồng….
SGDCK là một tập thể chịu trách nhiệm quản lý và điều hành Sàn giao dịch và
được giám sát bởi UBCKNN. Nó đáp ứng được chiến lược được đề ra của sàn giao
dịch, đồng thời đặt ra được những tiêu chuẩn và thi hành những quyết định liên quan
đến phát triển thị trường. Bên cạnh đó, Sở giao dịch sẽ quy định các điều kiện cho
các loại cổ phiếu mà giao dịch quyền chọn được phép, trước tiên là những cổ phiếu
của các công ty lớn, có tỷ suất sinh lợi cao, khối lượng giao dịch đáng kể và đạt được
tính thanh khoản theo yêu cầu để duy trì việc niêm yết quyền chọn. Ngoài ra Sở giao
dịch cũng quyết định CTCK nào được phép tham gia vào thị trường quyền chọn này
dựa theo năng lực và uy tín của công ty đó.
Các CTCK đóng vai trò là các công ty môi giới làm nhiệm vụ thực hiện các
yêu cầu của NĐT. Công ty môi giới có trách nhiệm giao dịch các lệnh nhận được ở
mức giá tốt nhất có thể và đặt lệnh trực tiếp hay chuyển lệnh về cho các nhân viên
nhập lệnh tại Sở giao dịch để thực hiện giao dịch. Doanh thu của các CTCK là phần
hoa hồng nhận được cho mỗi giao dịch thành công.

Cơ quan quản lý và giám sát có trách nhiệm giám sát, hướng dẫn các hoạt
động giao dịch đảm bảo đúng nguyên tắc và pháp luật, có quyền xác nhận tư cách
thành viên của các CTCK thành viên, có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các sai phạm
liên quan đến các CTCK thành viên, kiểm tra và thông báo đến Sở giao dịch những
giao dịch có dấu hiệu bất thường. Đồng thời, cơ quan quản lý và giám sát sẽ kiểm tra
tính chính xác của những thông tin được đưa lên thị trường thông qua các CTCK
nhằm đảm bảo tính trung thực, minh bạch của thông tin cho thị trường. Cơ cấu tổ
chức của cơ quan này bao gồm có các bộ phận như bộ phận điều hành thị trường; bộ
phận giám sát giao dịch; bộ phận giám sát thành viên; bộ phận giám sát thông tin…
7
7
8
với mục đích chính là quản lý và giám sát các giao dịch trên sàn nhằm bảo vệ các
NĐT, đảm bảo cho thị trường phát triển đúng theo định hướng mà Nhà nước và
Chính phủ đã đề ra.
Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ là nơi nhận lưu giữ các chứng khoán,
nhận ký quỹ và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch quyền
chọn. Các NHTM đáp ứng đủ các điều kiện của UBCKNN sẽ thực hiện dịch vụ lưu
ký và thanh toán bù trừ chứng khoán và quyền chọn. Mọi giao dịch thành công trên
sàn đều được thông báo đến Trung tâm lưu ký, thanh toán bù trừ, sau đó trung tâm sẽ
tiến hành thanh toán và thực hiện hợp đồng theo nguyên tắc giao dịch của Sở giao
dịch đề ra cùng với các CTCK thành viên.
Vì lợi ích của các đối tác trong giao dịch, lợi ích chung của nền kinh tế những
giao dịch phức tạp của thị trường phải đi đôi với khả năng quản lý của bộ máy điều
hành, giám sát thị trường và hệ thống pháp luật điều chỉnh tương xứng với sự phát
triển của thị trường qua từng giai đoạn.
Các lệnh đặt mua, đặt bán phải xác định nhà môi giới, mã chứng khoán cơ sở,
loại hợp đồng quyền chọn, thời gian đáo hạn, giá thực hiện, giá chuyển nhượng, khối
lượng giao dịch và được gởi đến Sở giao dịch thông qua các CTCK.
3.2.2 Giải pháp về tổ chức quản lý của các cơ quan chức năng

3.2.2.1 Nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng có liên
quan.
Để nâng cao vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan chức năng trong việc
điều hành và quản lý TTCK tại thị trường Việt Nam, về cơ bản chúng ta cần thực
hiện một số điểm sau đây:
− Nâng cao vai trò của UBCKNN để đủ sức vận hành, quản lý và giải quyết
các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đồng thời thực hiện các ý tưởng về xây dựng và
phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian sắp tới. Chúng ta cần phải cử các cán bộ
có trình độ sang các nước đã triển khai thành công nghiệp vụ quyền chọn chứng
khoán để học hỏi kinh nghiệm từ đó đưa ra lộ trình cũng như mô hình phát triển cho
quyền chọn chứng khoán tại Việt Nam.
8
8
9
− Cúng cố cơ cấu tổ chức của SGDCK. SGDCK phải đủ sức kiểm soát các rủi
ro, giám sát các giao dịch nội gián và các giao dịch bất thường bằng những công cụ
hiện đại và công nghệ tiên tiến nhằm củng cố lòng tin cho các NĐT.
− Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng bộ phận, từng cá nhân
trong công tác quản lý hoạt động TTCK, tránh tình trạng chốn tránh đùn đẩy trách
nhiệm khi xẩy ra các vấn đề phát sinh
− Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của các hiệp hội trong việc hỗ
trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuôn khổ pháp lý, đào
tạo nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành viên tham gia
TTCK.
3.2.2.2 Nâng cao hiệu quả quản lý giảm sát của cơ quan quản lý nhà nước.
TTCK Việt Nam là một thị trường còn non trẻ, các nhà quản lý còn chưa có
nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và điều hành. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế thì năng lực quản lý của nhà nước đối với TTCK cần
được nâng cao. Để có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý của mình nhà nước cần:
− Nâng cao năng lực và trình độ nguồn nhân lực của nhà nước. Quan tâm

nhiều hơn nữa đến vấn đề tuyển dụng nhân sự. Có chính sách tiền lương thỏa đáng để
chiêu mộ và gìn giữ nhân tài. Có chương trình, kế hoạch đào tạo dài hạn cả trong và
ngoài nước cho cán bộ, công nhân viên,…
− Tăng cường năng lực quản lý của nhà nước, đảm bảo sự quản lý linh hoạt,
nhạy bén đối với TTCK. Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh, điều tiết thị trường
thông qua các chính sách, công cụ kinh tế – tài chính tiền tệ như các chính sách về
thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác.
− Chính phủ, Bộ Tài chính và UBCKNN cần phối hợp chặt chẽ trong việc
hoàn thiện khung pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu
cầu của công tác quản lý TTCK.
− Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của TTCK; phát triển
kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ
năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng thị trường.
9
9
10
− Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật của các thành viên thị trường; áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự
đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK.
3.2.2.3 Nới lỏng vai trò điều hành của Nhà Nước vào thị trường tài chính.
Hoạt động giao dịch phải thật sự có ý nghĩa trong điều kiện tình hình biến
động của thị trường hoàn toàn khách quan. Các NĐT, DN, những người kinh doanh
chứng khoán, ngoại tệ,… dựa vào những phán đoán về diễn biến của thị trường, họ sẽ
lựa chọn các phái sinh, quyền chọn thích hợp để thực hiện những mục tiêu cụ thể của
mình là kinh doanh hay hạn chế rủi ro.
Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước ta
đã cam kết với WTO, nhà nước cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào
thị trường. Đối với TTCK tập trung, biên độ giao động của chứng khoán cũng cần
được nâng dần theo mức độ phát triển của thị trường từ mức +/-5% ở HOSE và +/-
7% ở HASTC hiện nay. Điều này sẽ đảm bảo giá cả chứng khoán phản ảnh đúng

cung cầu trên thị trường. Khi đó, rủi ro đối với giao dịch chứng khoán sẽ dần hiện rõ,
gây ra những thiệt hại lớn hơn, buộc các DN, cá nhân, NĐT phải quan tâm đến các
hợp đồng quyền chọn để bảo hiểm, giảm thiểu rủi ro cho chính mình.
3.2.2.4 Nâng cao hiệu quả thị trường thông qua việc công khai hóa và minh
bạch hóa thông tin.
TTTC Việt Nam mới chỉ tăng tốc phát triển trong một thời gian ngắn, vấn đề
truyền thông tài chính cũng đã bắt đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhưng
nhìn chung, truyền thông tài chính ở Việt Nam chỉ mới phát triển sơ khai, hầu như là
mang tính tự phát, thiếu sự quản lý, ràng buộc trách nhiệm từ các cơ quan quản lý
nhà nước. Với một TTTC bậc cao như thị trường quyền chọn, thông tin càng đóng
một vai trò quan trọng trong các quyết định đầu tư, phòng ngừa rủi ro của DN,
NĐT…Do đó, để phát triển thị trường quyền chọn, đặc biệt là quyền chọn quyền
chọn chứng khoán, cần chấn chỉnh và thúc đẩy truyền thông tài chính phát triển.
Thông tin tài chính cần được công khai, minh bạch hóa. Nhà nước cần tiếp tục ban
10
10
11
hành các qui chế, thông tư, hướng dẫn…chi tiết hơn việc công bố thông tin ra TTCK
cũng như chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm về công bố thông tin.
Ngoài ra, cần thúc đẩy các nguồn thông tin đa dạng, đầy đủ và cần thiết đến
với mọi đối tượng tham gia thị trường. Trước mắt, nên thành lập các tổ chức chuyên
nghiên cứu phát triển các công cụ dự báo giá và công bố kết quả dự báo giá cả, đặc
biệt là giá của một số mặt hàng quan trọng như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, xăng
dầu… qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc qua các tạp chí chuyên ngành để
các NĐT có cơ sở phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định kinh doanh hay phòng
ngừng rủi ro cho riêng mình.
3.2.2.5 Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán.
Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói
chung hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn
thiện các vấn đề pháp lý về hạch toán, xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp đồng

quyền chọn, phái sinh là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng
ngừa rủi ro của các DN không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo hiểm, kinh
doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một khoản
chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế. Điều này
sẽ góp phần khuyến khích các DN sử dụng công cụ quyền chọn nhiều hơn, trong đó
có quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn cổ phiếu.
3.2.3 Nhóm giải pháp phát triển thị trường
3.2.3.1 Tăng cung- cầu hàng hóa cho TTCK
• Về cung hàng hóa.
Việc tăng cung hàng hóa cho TTCK tập trung trong thời gian tới, cả trước mắt
và lâu dài, chắc chắn phụ thuộc vào nguồn cung hàng cổ phiếu của các DN nhà nước
CPH. Để gia tăng lượng cung hàng hóa cho TTCK Việt Nam trước tiên cần kiên
quyết hơn trong công tác CPH DN nhà nước, gắn CPH DN nhà nước với việc niêm
yết đồng thời trên TTCK.
Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tác động cũng như lựa chọn một số DN
có quy mô lớn, có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng phát triển tốt để CPH và
11
11

×