1
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứmg khoán (TTCK) ở các nước
trên thế giới, sự phát triển của TTCK là một tất yếu trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Và đó cũng là xu thế tất yếu khi Việt Nam chủ
động bước vào hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Xu thế “toàn cầu hóa” đòi hỏi các quyết định ki
nh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế vì ngày nay nền kinh tế thế giới
đang nhanh chóng chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua
các mạng lưới công nghệ thông tin, “sự liên kết” này theo lập luận của một nhà báo lão
luyện của tờ The New York Times- Thomas L.Friedman- là một “thế giới phẳng”. Và
qua
n điểm “thế giới phẳng” sẽ là một cơ sở lý luận để cho chúng ta nhận thấy rằng sự
phát triển mạnh mẽ của một thị trường, công cụ tài chính nào được phổ biến và ưa
chuộng nhất trên thế giới hiện nay cũng sẽ là sự lựa chọn và định hướng phát triển tất
yếu của TTCK Việt Nam.
Thực tế cho thấy kể từ k
hi Trung tâm Giao dịch Chứng Khoán Thành phố Hồ Chí
Minh ra đời vào tháng 07 năm 2000, hoạt động của TTCK Việt Nam trở nên sôi động
và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Trong suốt thời gian hai năm trở lại đây,
không ai có thể phủ nhận rằng TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển rất tích
cực, ngày càng trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng từ
cuối năm 2007 đến nay, TTCK
Việt Nam cũng đã mang lại cho các nhà đầu tư một bài
học đắt giá rằng đầu tư Chứng khoán không phải là một “Con heo vàng” chỉ luôn mang
lại lợi nhuận mà nó có cả những rủi ro rất cao và không thể dự đóan trước thậm chí
nằm ngoài cả sự dự đoán của các chuyên gia chứng khoán, sự sụt giảm như một “cơn
sóng thần” cuống phăng toàn bộ giá trị đầu tư nếu không xác định được lọai chứng
khoá
n đầu tư và giá trị thu hồi chấp nhận khi thị trường đi xuống.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
2
Khi viết đề tài này tác giả đã luôn đặt ra câu hỏi “Liệu có biện pháp nào để phòng
ngừa rủi ro hay bảo vệ lợi nhuận cho các nhà đầu tư trước sự biến động không thể dự
đoán trước trên TTCK và các biện pháp hữu hiệu nào đã và đang được sử dụng ở các
nước trên thế giới ?“
Một trong những công cụ “bảo hiểm” giúp nhà đầu tư quản l
ý và hạn chế rủi ro
trong đầu tư chứng khoán hiện nay được ưa ch
uộng và phổ biến nhất trên thế giới là
Quyền chọn (Options). Và nếu theo luận điểm “thế giới phẳng” của Thomas
L.Friedman thì đây cũng sẽ là công cụ tài chính hữu hiệu “bảo hiểm” cho nhà đầu tư
trước sự biến động thất thường của TTCK Việt Nam.
TTCK
Việt Nam với danh mục cổ phiếu đang niêm yết trên thị trường chưa có tiêu
chuẩn đánh giá xếp l
oại, số lượng công ty niêm yết còn hạn chế, tỉ lệ ảnh hưởng và độ
biến động của Vn-Index còn phụ thuộc vào một số nhóm cổ phiếu, trình độ của nhà
đầu tư chưa đạt đến tầm bao phủ toàn thị trường nên quyền chọn chỉ số chứng khoán
sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc áp dụng và phát triển trong giai đoạn hiện na
y. Trong
khi đó, quyền chọn trên từng cổ phiếu lại rất gần gũi và có nhiều điểm tương đồng với
việc mua bán một cổ phiếu riêng lẻ sẽ giúp cho nhà đầu tư từng bước làm quen và sử
dụng các loại quyền chọn để bảo vệ cho lợi nhuận và rủi ro của mình. Với quy mô thị
trường như trên cùng với xu hướng phát triển tất yếu của TTCK Việt Nam trong bước
đầu triển khai quyền chọn vào giao dịch chứng khoán thì quyền chọn cổ phiếu thương
mại đơn lẻ - quyền chọn cơ bản và được giao dịch
đầu tiên trên thị trường thế giới – sẽ
là quyền chọn triển khai khả thi và thích hợp nhất.
Và đó là lý do mà tôi đã chọn đề tài “Á
p dụng giao dịch quyền chọn cổ phiếu vào
Thị trường
Chứng khoán Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, làm
rõ một số khái niệm, vấn đề cơ bản về quyền chọn chứng khoán
nhằm thấy được sự hữu hiệu của công cụ tài chính này trong việc bảo vệ các nhà đầu tư
trước sự biến động thất thường của thị trường chứng khoán.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
3
Nghiên cứu những kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn
chứng khoán tại một số nước trên thế giới nhằm học hỏi và xây dựng được một mô
hình thích hợp cho việc triển khai và phát triển công cụ quyền chọn có hiệu quả với
tình hình thực tế của TTCK Việt Nam
Nghiên cứu thực tế của TTCK Việt Nam cho việc áp dụng giao quyền chọn từ đó
tập hợp và
đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho việc triển khai giao dịch quyền chọn
chứng khoán tại Việt Nam đạt hiệu quả cao.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phần cơ sở lý luận về quyền chọn, đề tài sẽ đi vào định nghĩa và các đặc điểm cơ
bản của quyền chọn chứng khóan hiện có và đang được giao dịch trên thế giới, đồng
thời phân tích, giới thiệu các vấn đề liên quan đến quyền chọn chứng khoá
n mà nhà
đầu tư cần quan tâm và nắm vững để thực hiện giao dịch;
Phần Kinh nghiệm về tổ chức sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán tại một số
nước trên thế giới, đề tài sẽ đi vào phân tích kinh nghiệm của sản giao dịch Chicago,
Sàn giao dịch giao sau và Quyền chọn tài chính quốc tế London trực thuộc s
àn giao
dịch quyền chọn Châu Âu, Sàn giao dịch Tokyo của Nhật Bản;
Phần áp dụng các giao dịch quyền chọn chứng khoán vào TTCK Việt Nam, đề tài
sẽ giới thiệu sơ lược TTCK Việt Nam sau đó đi vào phân tích sự cần thiết, tiền đề và
những khó khăn của TTCK Việt Nam và từ đó đề xuất một số giải pháp và khả năng
ứng dụng giao dịch quyền chọn c
hứng khoán tại TTCK Việt Nam;
Ngoài ra do có sự giới hạn nên trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, đề tài này
không đi sâu vào phân tích những vấn đề như: Các mô hình và kỹ thuật định giá quyền
chọn, các chiến lược mua bán quyền chọn theo phân tích kỹ thuật và các khoản chi phí
và thuế liên quan khi thực hiện quyền chọn.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
4
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân
tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, diễn dịch – quy nạp và phương pháp quan sát từ
thực tiễn để khái quát bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu. Đề tài này được tác giả
dựa vào cơ sở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh nghiệp, cùng với sự quan sát và
rút tỉa kinh nghiệm tham gia trên TTCK của chính tác giả từ năm 2000 đến nay đồng
thời kết hợp với nguồn dữ liệu t
hông tin do tác giả sưu tầm, tập hợp từ các sách báo,
tạp chí và các website có liên quan…
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán vốn chẳng bao giờ dễ dự đóan, điều đó càng đúng với một
thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ và chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn như
hiện na
y. Trong buổi thuyết trình của giáo sư – tiến sĩ Stanley Pliska đến từ Đại học
Illinois, Chicago, Mỹ về nghiệp vụ hợp đồng tương lai và quyền chọn diễn ra ngày
10/03/2008, ông đã đưa ra nhận định “ Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu
nói chung và thị trường Việt Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý
rủi ro, và đây cũng là thời điểm tốt để một thị trường non trẻ, với nhiều biến động
về
giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình
thức giao dịch tương lai và quyền chọn này”.
Xét về quy mô thị trường cũng như môi trường đầu tư hiện tại, việc nghiên cứu đưa
vào áp dụng các công cụ đầu tư là hết sức cần thiết. Quyền chọn - một sản phẩm đặc
trưng cho công cụ phái sinh- sẽ nâng cao đáng kể tính thanh khoản c
ho TTCK nếu
được đưa vào áp dụng và mang đến cho thị trường nhiều nhà đầu tư hơn với nhiều mức
chấp nhận rủi ro khác nhau, bảo vệ được lợi nhuận cho nhà đầu tư và tránh được tình
trạng sụt giảm liên tục trong thời gian dài của TTCK.
Hơn nữa, theo kế hoạch phát triển thị trường năm 2008, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà
Nước (“UBCKNN”) sẽ nghiên cứu và triển khai từng bước việc mở tài khoản ký quỹ,
tập trung nghiê
n cứu các sản phẩm phái sinh. Theo ông Vũ Bằng – Chủ tịch UBCKNN,
có khả năng sản phẩm quyền chọn (Option) sẽ áp dụng trước và triển khai dần các công
cụ phái sinh khác khi có sự đồng bộ về các yếu tố thanh toán.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
5
Do đó, việc nghiên cứu công cụ quyền chọn chứng khóan là việc làm hết sức cần
thiết và cấp bách trong lúc này. Đây không phải là công việc của riêng Nhà nước mà tất
cả những ý kiến đóng góp từ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và những ai quan tâm
đến nghiệp vụ này đều rất hữu ích và đáng được trân trọng.
Do hạn chế về thời gian, trình độ và kinh nghiệm, đề tài không thể đi sâu tìm hiểu,
khảo sát và phân tích hết các khía cạnh có liên quan đến quyền chọn. M
ong rằng đề tài
này sẽ được tiếp tục nghiên cứu, khảo sát, kiểm chứng đầy đủ hơn và trên cơ sở đó có
thể củng cố hoặc bổ sung thêm các giải pháp, đề xuất nhằm cho việc triển khai áp dụng
quyền chọn chứng khoán trên TTCK Việt Nam đạt được hiệu quả cao hơn, giúp các
nhà đầu tư có thêm công cụ tài chính cần thiết để bảo hiểm, đa dạng hóa cách thức đầu
tư, giảm th
iểu rủi ro và mở ra các cơ hội mới tìm kiếm lợi nhuận cho chính họ và cũng
là góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế quốc gia được ổn định và bền vững.
VI. Kết cấu của đề tài
Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của đề tài bao gồm 03 chương
Chương I: Cơ sở lý luận về quyền chọn cổ phiếu
Chưong II: Những kinh nghiệm về tổ chức sàn giao dịch
quyền chọn cổ phiếu
tại một số nước trên thế giới
Chương III: Áp dụng các giao dịch quyền chọn cổ phiếu tại TTCK Việt Nam
Ngòai ra đề tài còn có các phần: Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Danh mục các từ viết tắt,
Danh mục các bảng biểu và hình vẽ, Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU
1.1 SƠ LƯỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN
Những giao dịch đầu tiên của quyền chọn mua và quyền chọn bán trên thế giới
được cho là đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 ở Châu Âu.
Vào đầu những năm 1900, một nhóm Công ty gọi là “Hiệp hội những nhà môi
giới và kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán” đã thành lập thị trường các
quyền chọn. Nếu một người nà
o đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp
hội sẽ này sẽ tìm một người bán sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu
công ty thành viên không thể tìm ra được người bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn với
giá cả thích hợp. Vì vậy, một công ty thành viên có thể vừa là nhà môi giới vừa là nhà
kinh doanh. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC
(over-the-counter).
Tháng 4 năm 1973, Uỷ ban t
hương mại Chicago (Chicago Board of Trade- CBO)
thành lập sàn giao dịch quyền chọn chứng khoán Chicago (Chicago Board Options
Exchange – CBOE), đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. TTCK
Philadelphia (Philadelphia Exchange – PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn
vào năm 1975, TTCK Pacific (Pacific Stock Exchange – PSE) thực hiện vào năm
1976 và TTCK New York ( New York Stock Exchage – NYSE) thực hiện vào năm
1985.
Việc mua bán quyền chọn trở nên phổ biến đầu tiên ở Chicago Board of Options
Exchange. Vào thời kỳ đó chủ yếu trao đổi các cổ phiếu thương mại đơn lẻ. Năm
1992, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng tương lai với trái phiếu chính
phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường đấu giá mở,
việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng hộ giá ch
o
cộng đồng thương mại.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ biến
hơn, lan rộng sang A
nh, Brazil, Đức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
7
Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và
thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo ra
những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn giao
dịch điện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và Project A
(được CBOT phát triển). Ở Đức, Deustche Term
inborse Exchange đã bỏ kiểu giao
dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống GLOBEX,
các nhà đầu tư cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số S&P 500, S&P 500 mini và
NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các nhà đầu tư còn có thể mua bán ngoại hối trên
GLOBEX. Trên hệ thống Project A ( hiện tại là hệ thống Eurex- tháng 8/2000 CBOT
xây dựng Eurex, tất cả giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex). Các nhà
đầu tư cá thể có thể m
ua bán trái phếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn và tất cả các
sản phẩm ngũ cốc trên CBOT.
1.2 QUYỀN CHỌN VÀ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU:
1.2.1 Định nghĩa
Quyền chọn là một hợp đồng ký kết giữa một bên là “người ký phát”
(Writer/Seller) và một bên là người mua hợp đồng (Buyer) trong đó, cho phép người
mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số lượng tài
sản với một giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Hợp đồng
quyền chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua hoặc
bán. Vì vậy người chủ quyền chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền trong
thời gian hiệu lực của hợp đồng quyền chọn.
Các hàng hoá trong giao dịch quyền chọn có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái
phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, tiền tệ hay
hợp đồng tương lai…
Một quyền chọn phổ biến nhất trên thế giới hiện nay trong lĩnh vực tài chính và có
nhiều điểm tương đồng với giao dịch cổ phiếu là quyền chọn cổ phiếu.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
8
Quyền chọn cổ phiếu là một công cụ giao dịch linh hoạt nhất đã được tìm ra trong
lĩnh vực kinh doanh – tài chính. Do chi phí cho quyền chọn thấp hơn giao dịch cổ
phiếu, quyền chọn cung cấp một đòn bẩy tài chính cao với một mức thiệt hại giới hạn
cụ thể trong việc giao dịch và đồng thời làm tăng thêm thu nhập cho nhà đầu tư. Người
mua quyền chọn có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ bắt buộc, mua hoặc bán các
chứng khoán cơ sở (underlying st
ock) tại mức giá thực hiện đã thoả thuận trước (strike
price/ exercise price) vào trước hoặc tại ngày đã định trước(expiry date). Các quyền
chọn này tồn tại đối với hàng ngàn cổ phiếu riêng lẻ, mặc dù khối lượng giao dịch có
thể thấp đối với quyền chọn của một số loại cổ phiếu nhất định.
Tất cả các quyền chọn niêm
yết có quyền thực hiện cho tháng hiện tại hoặc các
tháng quy định trong tương lai (ở Mỹ thường là vào ngày thứ sáu của tuần thứ ba trong
tháng đáo hạn). Mỗi cổ phiếu sẽ có một chu kỳ thích hợp đối vói quyền chọn. Tại Sàn
giao dịch Chứng khoán Chicago của Mỹ, có ba chu kỳ đáo hạn cố định được quy định
cho quyền chọn, mỗi chu kỳ thường cách nhau đều đặn là bốn t
háng: Chu kỳ thứ nhất
bắt đầu từ tháng Giêng, tháng tư, tháng bảy và tháng mười; Chu kỳ thứ hai bắt đầu từ
tháng hai, tháng năm, tháng tám và tháng mười một; Chu kỳ thứ ba bắt đầu từ tháng ba,
tháng sáu, tháng chín và tháng mười hai.
Mỗi quyền chọn luôn có vài mức giá thực hiện (strike price) cao hơn hoặc thấp hơn
giá giao dịch hiện hành của chứng khoán cơ sở trên thị trường và tăng giảm th
eo một
biên độ nhất định, giá thực hiện được niêm yết giá với biên độ là 2
1/2
, 5 và 10 điểm tuỳ
thuộc vào giá thị trường của chứng khoán cơ sở và chỉ có vài giá thực hiện ở trên hoặc
dưới giá hiện hành mới được giao dịch. Giá quyền chọn được xác định do cung cầu
trên cơ sở đấu giá công bằng, công khai và cạnh tranh của sàn giao dịch. Ngoài ra, giá
đóng cửa của quyền chọn luôn được đăng báo phổ biến hàng ngày.
Người nắm giữ quyền chọn có ba phương pháp để hiện thực hoá lợi nhuận hoặc
giảm th
iếu phần thua lỗ bằng cách: hoặc bán lại quyền chọn; hoặc thoát khỏi giao dịch
bằng cách giao dịch ngược lại với quyền chọn đang nắm giữ (offseting); hoặc để quyền
chọn tự động đáo hạn không giá trị .
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
9
Với đặc tính của Quyền chọn cổ phiếu đã nêu trên có nhiều điểm tương đồng với
việc giao dịch cổ phiếu như: thứ nhất, việc giá giao dịch mua bán hình thành và thực
hiện theo phương thức đấu giá mở; thứ hai, giao dịch quyền chọn cổ phiếu được thực
hiện theo qui mô hợp đồng - tuỳ theo quy định cụ thể của từng sàn giao dịch, nhưng
thông thường là 100 cổ phần/
hợp đồng quyền chọn- tương tự hình thức giao dịch theo
lô đối với cổ phiếu tại TTCK Việt Nam; thứ ba, nhà đầu tư quyền chọn còn có thể theo
dõi xu hướng giá, khối lượng giao dịch và thông tin liên quan mỗi ngày, thậm chí mỗi
phút của chứng khoán cơ sở giống như các nhà đầu tư cổ phiếu
và nhanh chóng biết
được mức giá nào nên thực hiện hợp đồng Quyền chọn của mình.
Vì vậy, trong đề tài này tôi chỉ tập trung đề cập đến việc áp dụng Quyền chọn cổ
phiếu và
o TTCKVN và những khái niệm về Quyền chọn chứng khoán xuất hiện trong
đề tài này cũng chỉ hàm ý đến Quyền chọn cổ phiếu
1.2.
2 Các loại quyền Chọn
1.2.2.1 Quyền chọn Mua ( Call Options )
Quyền chọn mua cho người mua có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, mu
a
chứng khoán cơ sở tại một mức giá thực hiện đến khi đáo hạn. Có rất nhiều giá thực
hiện có sẵn tuỳ thuộc vào giá giao dịch hiện thời của chứng khoán cơ sở. Thời gian đáo
hạn có thể từ một tháng đến hơn một năm (Quyền chọn dài hạn LEAPS – Longterm
Equity Anticipation Securities). Tuỳ thuộc vào trạng thái thị trường mà người mua
quyền chọn có thể m
ua (go long a Call option) hoặc bán ( go short a Call option) một
quyền chọn mua. Người mua quyền chọn mua có kỳ vọng về xu hướng tăng giá của cổ
phiếu.
Một quyền chọn mua mà giá chứng khoán cao hơn giá thực hiện được gọi là cao
giá ITM (quyền chọn mua có lãi); Nếu giá chứng khoán thấp hơn giá thực hiện, quyền
chọn mua được gọi là kiệt giá OTM (quyền chọn mua bị lỗ); Nếu giá chứng khoán
bằng với giá thực hiện,
quyền chọn là ngang giá ATM ( quyền chọn mua hoà vốn).
Hình 1.1(a) mô tả thành quả của người mua quyền chọn mua với lợi nhuận tiềm
năng là vô hạn khi giá của chứng khoán cơ sở tăng trong tương lai. Ngược lại, nếu giá
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
10
chứng khoán giảm so với giá thực hiện, người mua quyền chỉ lỗ với mức lỗ tối đa bằng
với phí mua quyền chọn
Hình 1.1: Vị thế của Quyền chọn Mua
Vùng Lãi
Giá tài sảntăng
Giá thựchiện
Điểmhoàvốn
Lãi
Lỗ
Phí
0
Hình
1.1(b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn mua, người bán quyền
chọn mua chỉ kiếm lời bằng khoản phí nhận được từ người mua quyền chọn và sẽ bị
thua lỗ vô hạn khi giá tài sản tăng so với giá thực hiện.
(a)- Thành quả của người mua quyền chọn mua
1.2.
2.2 Quyền chọn Bán (Put Options)
Giá thực hiện
Điểm hoà vốn
Giá tài sản tăng
Vùng Lỗ
(b)- Thành quả của người bán quyền chọn mua
Lãi
Lỗ
Phí
0
Quyền chọn bán cho người mu
a có quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, bán
chứng khoán cơ sở tại một mức giá thực hiện đến khi đáo hạn. Có rất nhiều giá thực
hiện có sẵn tuỳ thuộc vào giá giao dịch hiện thời của chứng khoán cơ sở. Thời gian đáo
hạn có thể từ một tháng đến hơn một năm (
Quyền chọn dài hạn LEAPS). Tuỳ thuộc
vào trạng thái thị trường mà người mua quyền chọn có thể mua (go long a Put option)
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
11
hoặc bán ( go short a Put option) một quyền chọn bán. Người mua quyền chọn bán kỳ
vọng cổ phiếu có xu hướng giảm giá.
Nếu giá cổ phiếu thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán được xem là cao giá ITM
(quyền chọn bán có lãi); Nếu giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện, quyền chọn bán được
xem là kiệt giá OTM (quyền chọn bán bị lỗ); Nếu giá cổ phiếu bằng với giá thực hiện,
quyền chọn bán là ngang giá ATM (quyền chọn bán hoà vốn).
Vị thế người mua, người bá
n và phí quyền chọn bán được mô tả bằng hình sau:
Hình 1.2(a) Mô tả thành quả của người mua quyền chọn bán với lợi nhuận tiềm
năng là vô hạn khi giá của tài sản giảm trong tương lai. Ngược lại, nếu giá chứng
khoán tăng so với giá thực hiện thì người mua quyền chỉ lỗ với mức tối đa bằng với phí
mua quyền chọn.
Hình 1.2: Vị thế của Quyền chọn Bán
Vùng lãi Giá tài sản tăng
Giá thực hiện
Điểmhoà vốn
Lỗ
Lãi
Phí
0
Hình 1.2(
b) mô tả thành quả của người bán quyền chọn bán, người bán quyền
chọn bán chỉ kiếm lời bằng khoản phí nhận được từ người mua quyền chọn và sẽ bị
thua lỗ vô hạn khi giá tài sản giảm so với giá thực hiện.
(a) – Thành quả của người mua Quyền chọn Bán
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
12
Vùng
lỗ Giá tài sản tăng
Giá thực hiện
Điểm hoà vốn
Lỗ
Lãi
Phí
0
(b) – Thành quả của người bán Quyền chọn bán
Tóm
lại, nhà đầu tư nắm giữ tài sản cơ sở mua quyền chọn bán khi họ dự đoán
trong tương lai tài sản giảm giá để bảo hiểm cho tài sản của mình hoặc cũng có thể đầu
cơ thu lợi trước dự đoán đó. Và ngược lại, khi nhà đầu tư kỳ vọng tài sản đó sẽ tăng lên
trong tương lai thì họ sẽ phòng ngừa rủi ro bằng cách m
ua một quyền chọn mua.
Nói như vậy, không có nghĩa là người bán quyền chọn mua và quyền chọn bán là
những kẻ liều lĩnh hay thích đùa, thích đánh đổi một lợi nhuận rất nhỏ (phí quyền
chọn) với những rủi ro vô hạn như 2 mô hình trên. Trên thị trường các nhà đầu tư khác
nhau sẽ có những cảm nhận, nhận định và đánh giá khác nhau về xu hướng thay đổi
của thị trường và các loại cổ phiếu nhất định nào đó – đây còn được gọi là thuyết đầu
tư “phi lý” nhưng lại rất phổ biến theo các nhà nghiên cứu t
huyết tài chính hành vi - vì
vậy họ sẽ tin và hành động theo nhận định, phân tích và dự báo của mình với “khẩu vị”
rủi ro và mục tiêu lợi nhuận của riêng mình. Trong suốt quá trình đầu tư, họ không
ngừng tiến hành bù trừ các vị thế rủi ro hay tự bảo vệ mình khỏi thua lỗ bằng cách kết
hợp các chiến lược m
ua bán khôn khéo và độc đáo, do đó, các khả năng đạt được lợi
nhuận đa dạng đến nỗi gần như bất kỳ một nhà đầu tư nào cũng có thể tìm được một
chiến lược đáp ứng mức rủi ro ưa thích của mình mà vẫn phù hợp với dự báo của thị
trường.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
13
1.2.3 Các kiểu thực hiện Quyền Chọn
Có ba kiểu thực hiện Quyền chọn: Quyền chọn Kiểu Mỹ ( American Style Option),
Quyền chọn Kiểu Châu Âu ( European Style Option) và Quyền chọn Giá Trần (Capped
Option)
Quyền chọn Kiểu Mỹ ( American Style Option): Cho phép người nắm giữ Quyền
chọn có quyền thực hiện hợp đồng quyền chọn vào bất kỳ ngày nào trước khi đáo hạn
của Quyền chọn. Nếu không thực hiện, Quyền chọn sẽ không còn giá trị khi đến ngà
y
đáo hạn và tồn tại như là một công cụ tài chính. Hiện nay, tất cả các giao dịch quyền
chọn chứng khoán thường là Quyền chọn Kiểu Mỹ.
Quyền chọn Kiểu Châu Âu ( European Style Option): chỉ cho phép người nắm giữ
Quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn vào ngày đáo hạn. Do đặc tính này nên
việc phân tích quyền chọn kiểu Châu Âu dễ hơn quyền chọn kiểu Mỹ.
Quyền c
họn Giá Trần (Capped Option): là một hợp đồng Quyền chọn với một
mức lợi nhuận trần hoặc giá trần được xác định trước. Giá trần được tính bằng giá thực
hiện cộng với biên độ giá trần (interval cap) đối với hợp đồng Quyền chọn mua và
bằng giá thực hiện trừ đi biên độ giá trần đối với hợp đồng Q
uyền chọn bán. Hợp đồng
Quyền chọn giá trần tự động sẽ được thực hiện khi chứng khoán cơ sở đóng cửa tại
mức giá cao hơn ( đối với Quyền chọn Mua) và thấp hơn (đối với Quyền chọn Bán )
mức giá trần đã thoả thuận trong hợp đồng. Ngược lại, nếu không đạt được giá trần đã
thoả thuận,
Hợp đồng Quyền chọn giá trần chỉ cho phép người nắm giữ Quyền chọn
thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn.
1.3 QUI TRÌNH CƠ BẢN GIAO DỊCH QUYỀN CHỌN
1.3.1 Các chủ thể tham gia thị trường Quyền chọn
1.3.1.1 Chủ thể phát hành ( Writer/ Seller)
Chủ thể phát hành là những chủ thể mà họ sẽ cung quyền lựa chọn cho thị trường.
Chủ thế phát hành có thể là cá nhâ
n, tổ chức và cũng có thể là các nhà tạo lập thị
trường.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
14
Chủ thể phát hành còn là các nhà tạo lập thị trường, họ chịu trách nhiệm đáp ứng
nhu cầu của công chúng đối với Quyền chọn. Khi một công chúng nào đó muốn mua
(bán) một quyền chọn và không có thành viên nào trong công chúng muốn bán (mua)
quyền chọn đó, nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó. Hệ thống này đảm bảo
rằng nếu một nhà đầu tư tư nhân muốn mua một quyền chọn cụ thể, sẽ có người sẵn
sàng chà
o bán, và nếu một người mua quyền chọn và sau đó muốn bán nó đi, sẽ có
người sẵn sàng mua. Nhà tạo lập thị trường cung cấp cho công chúng tiện ích về thực
hiện giao dịch ngay lập tức.
1.3.1.2 Chủ thể trung gian
Các môi giới và môi giới trên sàn giao dịch (Broker): Nếu một người nào đó muốn
mua hoặc bán một quyền chọn, cá nhân người đó phải thiết lập một tài khoản tại công
ty môi giới.
Công ty này phải thuê một nhà môi giới trên sàn hoặc có hợp đồng hợp tác
với hoặc là một nhà môi giới độc lập trên sàn giao dịch hoặc là nhà môi giới sàn giao
dịch của một công ty đối thủ. Nhà môi giới trên sàn thực hiện các lệnh của những
người không phải là thành viên và hoặc là nhận một mức lương thuần hoặc là nhận hoa
hồng trên mỗi lệnh thực hiện đư
ợc.
Trung tâm thanh toán bù trừ - Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn (OCC): là
một công ty độc lập, đảm bảo cho việc thực hiện của người bán quyền chọn. OCC là
một trung gian thanh toán trong mỗi giao dịch. Người mua Quyền chọn khi thực hiện
quyền không hướng vào người bán quyền chọn mà hướng vào Công ty thanh toán bù
trừ quyền chọn và người bán quyền chọn cũng thực hiện chi trả hoặc giao chứng khoán
cho Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn. Mỗi thà
nh viên của OCC được gọi là công
ty thanh toán, có mở một tài khoản với OCC. Sự tham gia của OCC đảm bảo cho quy
trình thực hiện các hợp đồng Quyền chọn diễn ra thông suốt và hạn chế rủi ro phá vỡ
hợp đồng từ các bên nhờ thế mà quyền lợi của người mua ngày càng được đảm bảo.
1.3.1.3 Chủ thể đầu tư ( Taker/ Buyer)
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
15
Chủ thể đầu tư là những chủ thể có nhu cầu quyền chọn trên thị trường quyền chọn.
Chủ thể này tham gia thị trường quyền chọn nhằm mục đích kiếm lợi.
Thế giới tài chính bao gồm một số lượng khổng lồ các định chế ở đủ mọi qui mô,
mà rất nhiều trong số này tham gia giao dịch quyền chọn. Một số các định chế này là
công ty môi giới thực hiện lệnh cho công chúng, các công ty này tìm kiếm các quyền
chọn bị định giá không đúng, giao dịch chúng và nhờ vậy tạo t
hêm lợi nhuận cho công
ty. Nhiều nhà đầu tư có tổ chức lớn, như quỹ hưu bổng, quỹ uỷ thác và quỹ hỗ tương
cũng giao dịch quyền chọn. Trong hầu hết các trường hợp, các nhà đầu tư dạng này ký
kết quyền chọn đối với cổ phiếu tr
ong danh mục của mình. Số lượng các tổ chức nước
ngoài giao dịch quyền chọn cũng tăng lên. Ngoài các nhà đầu tư có tổ chức lớn, dĩ
nhiên cũng có nhiều cá nhân – giàu có hoặc không giàu có – mua bán quyền chọn.
1.3.2 Quy trình cơ bản giao dịch Quyền chọn hiện nay
Một cá nhân muốn giao dịch quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở công ty
môi giới. Khách hàng xác định quyền chọn, lệnh và quyết định số lượng hợp đồng
muốn giao dịch … và thông báo cho m
ôi giới của mình, công ty môi giới gởi lệnh đến
cho người môi giới sàn giao dịch của công ty trên sàn giao dịch quyền chọn và thông
báo cho công ty thanh toán, công ty đã xử lý giao dịch ban đầu. Công ty thanh toán sau
đó đặt lệnh thực hiện cho OCC, OCC chọn ngẫu nhiên một công ty thanh toán mà
thông qua đó có một khách hàng vừa bán một hợp đồng giống như vậy. Các thành viên
của Trung tâm thanh toán bù trừ sẽ tự động thực hiện các giao dịch có cung – cầu gặp
nha
u và thông tin giao dịch thành công cho khách hàng và đưa thông tin lên sàn giao
dịch hoặc gởi thông tin cho các thành viên trong hệ thống giao dịch để làm cơ sở cho
giao dịch tiếp theo, thực hiện thanh toán chuyển đổi tiền và chứng khoán cho khách
hàng theo thời gian quy định, thông báo cho khách hàng sự thay đổi trong tài khoản
giao dịch.
1.4 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
16
Hiện nay, các mô hình định giá quyền chọn như mô hình Black-Scholes và mô hình
nhị phân có thể giúp nhà đầu tư xác định giá tham khảo hợp lý (fair value) của quyền
chọn theo một công thức toán học. Có nhiều yếu tố tạo nên giá trị của quyền chọn và
ảnh hưởng đến phí quyền chọn khi giao dịch như:
Giá chứng khoán cơ sở (Underlying Stock Price): Giá trị của một quyền chọn
tuỳ thuộc chủ yếu vào giá của chứng khoán cơ sở. Tr
ong trường hợp quyền chọn cao
giá ITM, sự chênh lệch giữa giá thực hiện hợp đồng quyền chọn và giá cổ phiếu trên
thị trường được xem là giá trị nội tại của quyền chọn (Intrinsic value).
Trong trường hợp quyền chọn ngang giá ATM hoặc kiệt giá OTM thì quyền chọn
đó không có giá trị nội tại nhưng các yếu tố khác sẽ tạo ra giá trị cho quyền chọn và
cùng nhau ảnh hưởng đến giá trị giao dịch của phí quyền chọn, được gọi là giá trị thời
gian (Ti
me value) – được xác định bằng chênh lệch giữa phí quyền chọn và giá trị nội
tại. Các thành phần chính tạo ra giá trị thời gian của quyền chọn là Thời gian đến lúc
đáo hạn, độ biến động, cổ tức và lãi suất.
Như vậy, phí quyền chọn được xác định bởi giá trị nội tại của quyền chọn và giá trị
thời gia
n, trong trạng thái ngang giá ATM và trạng thái kiệt giá OTM thì giá trị thời
gian cũng chính là phí quyền chọn.
Thời gian đến lúc đáo hạn (Time Remaining Until Expiration): Thông thường,
thời gian đến lúc đáo hạn càng dài thì phí quyền chọn càng cao vì trong thời gian đó có
nhiều cơ hội để giá cổ phiếu cơ sở thay đổi và làm cho quyền chọn có lãi. Giá trị thời
gian sẽ rớt rất nhanh trong vài tuần cuối trước khi đáo
hạn quyền chọn.
Độ biến động(Volatility): Độ biến động của giá chứng khoán cơ sở sẽ ảnh hưởng
đến phí quyền chọn. Độ biến động giá chứng khoán càng cao thì phí quyền chọn càng
cao do sẽ có một khả năng lớn là giá chứng khoán thay đổi và làm cho quyền chọn có
lãi.
Cổ tức: Thực tế cổ tức được trả cho người nắm giữ cổ phiếu, do đó cổ tức tiền
mặt sẽ ảnh hưởng đến phí quyền c
họn thông qua sự tác động của nó đến giá của chứng
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
17
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
khoán cơ sở. Cổ tức làm cho giá cổ phiếu giảm xuống trong ngày giao dịch không
hưởng quyền, cổ tức có tương quan ngược chiều với giá quyền chọn mua và tương
quan cùng chiều với giá quyền chọn bán.
Tỉ lệ lãi suất: Thông thường thì lãi suất càng cao sẽ có khuynh hướng làm giá
quyền chọn mua cao hơn và giá quyền chọn bán thấp hơn.
Tuy nhiên, giá giao dịch của một quyền chọn không nhất thiết phải bằng với giá
tham khảo (fair value), bởi vì các trông đợi khác nha
u vào độ biến động và cổ tức sẽ có
nhiều kết quả giá tham khảo tương ứng. Trong thực tế, cung và cầu sẽ quyết định giá
quyền chọn là bao nhiêu. Các nhà đầu tư sẽ tính toán giá tham khảo của một hợp đồng
quyền chọn và có sự chỉ dẫn khi nào là giá thị trường đang cao hơn hoặc thấp hơn giá
tham khảo (fair value), và họ sẽ có quyết định mua hoặc
bán quyền chọn và góp phần
hình thành mức giá thị trường của chính quyền chọn đó.
1.5 CÁC CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CƠ BẢN CỦA QUYỀN CHỌN
Hiệu quả của Quyền chọn được quyết định bởi các chiến lược riêng của mỗi nhà
đầu tư. Có một số chiến lược cơ bản mà chúng ta sẽ xem xét dưới đây, với giả định bỏ
qua một số yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến kết quả của quyền c
họn (
1
)
1.5.1 Mua Quyền chọn Mua ( Buying Calls/ Long Call)
1.5.1.1 Mua quyền chọn mua khi giá có khuynh hướng tăng lên
Mua quyền chọn mua cổ phiếu XYZ July 50, là quyền mua 100 cổ phiếu XYZ với
giá $50 cho mỗi cổ phiếu tại bất cứ thời điểm nào trước khi quyền chọn đáo hạn vào
tháng bảy. Giả định rằng phí quyền chọn phải trả là 3.5 (hay là $350 cho hợp đồng
này).
Nếu giá của cổ phiếu XYZ tăng lên $55 trước khi quyền chọn đáo hạn và phí quyền
chọn lúc này tăng lê
n 5.5 nhà đầu tư có thể quyết định:
1
Các yếu tố như hoa hồng phí, phí giao dịch, thuế sẽ được bỏ qua trong các chiến lược nêu trên để thuận lợi cho việc phân tích. giả định Giả
định rằng các quyền chọn thực hiện là quyền chọn kiểu Mỹ và qui mô hợp đồng quyền chọn cổ phiếu là 100 cổ phiếu.
18
Thực hiện quyền mua với tổng giá trị là $5.350 (bao gồm cả phí quyền chọn)
đồng thời bán lại số cổ phiếu này trên thị trường thu về $5.500 ($55x100),
lợi nhuận ròng đạt được là $150;
Hoặc bán quyền chọn với giá $550 ($5.5x100), thu chênh lệch của việc mua
bán phí quyền chọn là $200 ($550-$350), đạt 57% (200/350) cao hơn tỉ lệ lợi
nhuận thu được so với đầu tư trực tiếp 100 cổ phiếu là 10% ($55/$50).
Ngược lại, nếu giá cổ phiếu rớt còn $45 và phí quyền chọn giảm
là 0,9 thì nhà đầu
tư có thể bán lại quyền chọn thu $90 (0.9x100) hoặc để cho quyền chọn đáo hạn không
giá trị và bạn sẽ mất toàn bộ phí mua quyền $350. Như vậy, mức lỗ do đầu tư quyền
chọn tối đa chỉ bằng phí quyền chọn hoặc ít hơn nếu bán lại quyền chọn và đặc biệt
phần thiệt hại sẽ thường là ít hơn lỗ do đầu tư cổ phiếu trực tiếp $500 [(50-45)x100]
.
Chiến lược mua quyền chọn mua cung cấp lợi nhuận tiềm năng vô hạn (bởi việc
bán lại quyền chọn để đạt lợi nhuận hoặc bán cổ phiếu và hưởng chênh lệch giá với giá
thị trường) và mức rủi ro xác định (phí quyền chọn). Đây là chiến lược tốt nhất đư
ợc sử
dụng trong thị trường giá lên vì mức tăng giá của cổ phiếu cơ sở sẽ nằm trên mức hoà
vốn ( như phần minh hoạ ở Hình 1.1).
1.5.1.2 Mua quyền chọn mua là một phần của kế hoạch đầu tư an toàn
Một cách sử dụng quyền chọn phổ biến được biết đến là “ chiến lược 90/10” bao
gồm đầu tư 10% vào việc mua quyền c
họn mua và 90% vào đầu tư vào công cụ tiền tệ
của thị trường (vi dụ như Tín phiếu kho bạc/ Trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ T-
Bills) và nắm giữ cho đến khi đáo hạn quyền chọn.
Giả định rằng, cổ phiếu XYZ đang giao dịch tại mức giá $60, để mua 100 cổ phiếu
thì tổng giá trị cần đầu tư là $6.000, khi giá cổ phiếu giảm toàn bộ số tiền đầu tư này sẽ
bị rủi ro. Nếu áp dụng chiến lược đầu tư 90/10, nhà đầu tư sẽ dành ra 10% tổng giá trị
vốn hiện có đầu tư mu
a một quyền chọn mua sáu tháng cổ phiếu XYZ tại mức giá $60
(six-month XYZ 60 Call), với phí quyền chọn giả định là $6; 90% tổng giá trị vốn còn
lại là $5.400 sẽ đầu tư vào T-bills trong sáu tháng với lãi suất 10% và T-bills sẽ được
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
19
nắm giữ cho đến khi đáo hạn, thu lãi $270 trong sáu tháng và được bù đắp vào chí phí
mua quyền chọn đã bỏ ra. Giá vốn quyền chọn lúc này chỉ còn $330 ($600-$270).
Nếu giá cổ phiếu XYZ tăng hơn $3.3 mỗi cổ phiếu thì quyền chọn mua cao giá
ITM, ví dụ giá cổ phiếu tăng lên $65 và phí quyền chọn tăng lên $8, người nắm giữ
quyền chọn sẽ quyết định: thực hiện quyền mua 100 cổ phiếu với mức giá $60 và bán
lại trên thị trường với mức giá $65, tổng lợi nhuận thu về là $170 ; Hoặc bán lại quyền
chọn trên thị trường để hưởng chênh lệch $470.
Nếu giá cổ phiếu X
YZ giảm hơn $3.3, phần thiệt hại sẽ giới hạn bằng với phí
quyền chọn đã trả ($600) và còn được bù đắp một phần bằng lãi suất do đầu tư T-Bills
mang lại cộng thêm với phần phí thu hồi nếu bạn quyết định bá
n lại quyền chọn vào
thời điểm đó.
Chiến lược này vừa cung cấp đòn bẩy tài chính (từ quyền chọn) vừa giới hạn được rủi
ro (từ T-Bills), cho phép nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận từ sự tăng giá của cổ phiếu vừa
hạn chế được rủi ro và bù đắp được một phần phí quyền chọn do lợi suất đầu tư trái
phiếu m
ang lại.
1.5.1.3 Mua Quyền chọn mua để chốt giá mua chứng khoán cơ sở
Một nhà đầu tư nhận thấy giá cổ phiếu đang rẻ nhưng hiện tại không đủ tiền mặt để
mua thì có thể sử dụng Quyền chọn mua để mua được cổ phiếu đó trong thời gian có
thể kéo dài đến 8 tháng.
Giả định rằng XYZ đang được giao dịch với giá $55 và nhà đầu tư muốn sở hữu
100 cổ phiếu X
YZ tại mức giá đó, theo tính toán thì nhà đầu tư sẽ có được số tiền cần
để mua cổ phiếu trong 6 tháng tới và họ đoán rằng giá cổ phiếu sẽ tăng. Một giải pháp
dành cho nhà đầu tư này là mua quyền chọn mua 6 tháng cổ phiếu XYZ tại mức giá 55,
và đó là mức giá tối đa nhà đầu tư phải trả để mua cổ phiếu
XYZ với mức phí 4.25.
Nếu trong 6 tháng, giá cổ phiếu tăng lên $70 và nguồn tiền dự kiến đã có đủ, nhà
đầu tư thực hiện quyền và sở hữu được 100 cổ phiếu XYZ với giá $55 với tổng chi phí
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
20
$5.925 (bao gồm cả phí quyền chọn) thay vì mất $7.000 để mua cổ phiếu trên thị
trường. Ngược lại, nếu giá cổ phiếu giảm còn $50, nhà đầu tư sẽ không thực hiện
quyền và để quyền chọn mua tự động đáo hạn không giá trị hoặc bán lại quyền chọn để
bù đắp một phần phí đã bỏ ra. Thiệt hại tối đa trong chiến lược này chỉ bằng đúng phí
quyền chọn đã bỏ ra.
1.5.1.4 Mua quyền chọn mua để bảo hộ việc bán khống cổ phiếu
Việc bán khống chứng khoán luôn yêu cần một tài khoản margin (tài khoản vay
tiền để mua chứng khoán) và ký quỹ đảm bảo vị thế của quyền chọn mua (margin
Calls) để nhà đầu tư đảm bảo việc thực hiện mua lại cổ phiếu một cách nhanh chóng.
Nhà đầu tư thực hiện bán khống cổ phiếu t
hực hiện mua quyền chọn mua để giới hạn
mức rủi ro của mình.
Giả định rằng nhà đầu tư bán khống 100 cổ phiếu XYZ giá $40 cho mỗi cổ phiếu và
đồng thời mua một quyền chọn mua cổ phiếu XYZ giá 40 và phí quyền chọn là 3.5.
Nếu giá trên thị trường tăng lên bán khống sẽ bị lỗ và nhờ vào việc thực hiện quyền
mua mà nhà đầu tư có thể bảo hộ đư
ợc vị thế bán khống cổ phiếu của mình. Ví dụ, giá
cổ phiếu tăng lên $50, lúc này nhà đầu tư có thể thực hiện quyền chọn và mua cổ phiếu
tại mức giá $40 để đảm bảo cho vị thế bán khống của mình với chi phí là $350 thay vì
phải mất đi $1.000 để mua lại cổ phiếu nhằm bảo hộ cho vị thế bán khống.
Phần thiệt hại tối đa trong chiến lược nà
y được giới hạn bằng chi phí mua quyền
chọn mua với cộng thêm phần chênh lệch (nếu có) giữa mức giá thực hiện của quyền
chọn và giá bán khống. Mặc dù quyền chọn mua được sử dụng để khử đi rủi ro giá tăng
cho Bán khống, nhưng nó không giúp cho người nắm giữ quyền chọn khỏi việc ký quỹ
thực hiện bán khống hoặc việc bổ sung phí và duy trì mức ký quỹ t
heo qui định.
1.5.2 Mua Quyền chọn Bán ( Buying Puts/ Long Put)
1.5.2.1 Mua quyền chọn bán khi thị trường có khuynh hướng giảm giá
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
21
Mua Quyền chọn Bán là một phương pháp hiệu quả hơn cả phương pháp bán khống
đối với việc tìm kiếm lợi nhuận khi giá chứng khoán đi xuống, thông qua việc mua
quyền chọn bán nhà đầu tư sẽ xác định được các mức rủi ro. Thông thường mức rủi ro
tối đa chính là phí mua quyền chọn, trong khi nếu thực hiện bán khống thì mức rủi ro là
không giới hạn. Mặt khác để thực hiện mua quyền chọn bá
n nhà đầu tư chỉ cần thanh
toán phí mua quyền chọn bán một lần, trong khi với hoạt động bán khống chứng khoán
nhà đầu tư phải luôn đảm bảo vị thế của mình bằng cách bổ sung và duy trì mức ký quỹ
theo qui định sau mỗi ngày giao dịch.
Quyền bán cổ phiếu tại một mức giá xác định sẽ có giá trị cao hơn khi giá của
chứng khoán đó giảm xuống như phần minh hoạ trong Hình 1.2 ở trên
Ví dụ, mua quyền c
họn bán cổ phiếu XYZ July 50, là quyền bán 100 cổ phiếu XYZ
với giá $50 cho mỗi cổ phiếu tại bất cứ thời điểm nào trước khi quyền chọn đáo hạn
vào tháng bảy. Giả định rằng phí quyền chọn là 4 (hay là $400 cho hợp đồng này).
Nếu giá của XYZ giảm còn $45 trước tháng bảy và phí quyền chọn bán tăng lên $6,
nhà đầu tư có 2 lựa chọn: hoặc là mua 100 cổ phiếu XYZ với giá $45 và đồng thời thực
hiện quyền bán cổ phiếu XY
Z với giá $50, lợi nhuận ròng đạt được là $100 ( $500 lợi
nhuận từ bán cổ phiếu trừ đi phí mua quyền chọn $400); Hoặc có thể bán quyền chọn
để lấy chênh lệch giá mua bán quyền chọn là $200.
Nếu giá cổ phiếu XYZ tăng lên $55 trước khi đáo hạn và phí quyền chọn giảm còn
$1.5, nhà đầu tư có thể bán lại quyền chọn với giá $150, thu hồi lại một phần c
hi phí đã
bỏ ra.
1.5.2.2 Mua quyền chọn bán để bảo vệ việc nắm giữ cổ phiếu (long stock
position)
Nhà đầu tư có thể giới hạn rủi ro cho cổ phiếu đang sở hữu bằng cách đồng thời
mua vào một quyền chọn bán của chứng khoán đó, một chiến lược bảo hộ thường được
biết đến dưới cách gọi quyền chọn bán bảo vệ - “married put”. Chiến lược này thiết
lập một mức giá tối thiểu cho việc bán cổ phiếu trong suốt thời gi
an còn hiệu lực của
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
22
quyền chọn bán và giới hạn mức lỗ tối đa chỉ bằng chi phí mua quyền chọn bán cộng
thêm các chi phí khác (nếu có) giữa giá giao dịch cổ phiếu và giá thực hiện của quyền
chọn.
Trong trường hợp cổ phiếu giảm giá, nhà đầu tư có thể thực hiện quyền bán cổ
phiếu với giá đã xác định giảm thiểu mức rủi ro phải gánh chịu bằng quyền chọn hoặc
bán lại quyền chọn (lúc này quyền chọn bá
n cao giá) lấy lợi nhuận từ việc bán quyền
chọn bù đắp cho phần lỗ do vị thế nắm giữ cổ phiếu tạo ra. Ngược lại khi giá cổ phiếu
tăng, việc nắm giữ cổ phiếu đã đạt được vị thế mong đợi, quyền chọn bán bị kiệt giá,
lúc này nhà đầu tư có thể để quyền chọn tự động đáo hạn hoặc bán lại quyền chọn bù
đắp một phần chi phí đã bỏ ra m
ua quyền, mức rủi ro tối đa chỉ bằng phí mua quyền
chọn và mức rủi ro này có thể chấp nhận được đối với mức sinh lời mong đợi của cổ
phiếu đem lại.
Chiến lược này chủ yếu nhằm để bảo hộ vị thế nắm giữ cổ phiếu (long stock
position) với mức rủi ro tối đa chấp nhận là phí quyền chọn hơn l
à quan tâm đến mức
lợi nhuận trần của quyền chọn khi giá giảm.
1.5.2.3 Mua quyền chọn bán để bảo vệ lợi nhuận tối thiểu cho cổ phiếu đầu tư
Nếu nhà đầu tư đã thiết lập một mức lợi nhuận cho cổ phiếu nắm giữ, họ có
thể mua
quyền chọn bán để bảo vệ vị thế này chống lại các sự giảm giá ngắn hạn của cổ phiếu.
Nếu giá cổ phiếu giảm nhiều hơn chi phí quyền chọn bán, quyền chọn bán có thể được
bán hoặc thực hiện quyền chọn để bù đắp thiệt hại do sự giảm giá này.
Ví dụ nhà đầu tư đã mua cổ phiếu XYZ với giá $60 và giá hiện nay tăng lên $75.
Nhà đầu tư vẫn tiếp tục muốn nắm g
iữ cổ phiếu và muốn có được mức lợi nhuận đảm
bảo trên giá bán tối thiểu là $70 cho mỗi cổ phiếu, họ sẽ thực hiện mua quyền chọn
bán với giá thực hiện là $70 với phí quyền chọn là 1.5, đảm bảo việc bán cổ phiếu với
giá $70 trong thời gian hiệu lực của quyền chọn. Dĩ nhiên, lợi nhuận sẽ bị giảm đi $150
cho phí quyền chọn và cũng là thiệt hại tối đa trong chiến lược này.
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
23
Ví dụ, nếu giá cổ phiếu bị giảm xuống còn $65 và phí quyền chọn tăng lên $6, nhà
đầu tư có thể thực hiện quyền chọn và bán cổ phiếu XYZ với giá $70, phần lợi nhuận
$1.000 do vị thế cổ phiếu đã bị bù đắp một phần cho chi phí quyền chọn và kết quả đạt
dược là $850 ($1.000 -$150). Nếu nhà đầu tư mong muốn duy trì vị thế cổ phiếu, bạn
có thể bán quyền chọn bán đang
có lời (ITM) với giá $600 và hưởng chênh lệch quyền
chọn bán là $450, có thể bù đắp một phần hoặc tất cả các thiệt hại trong giá trị cổ
phiếu.
Nếu giá cổ phiếu tăng lên, sẽ không có sự giới hạn trong lợi nhuận tiềm năng từ
việc tăng giá cổ phiếu. Lợi nhuận thu được từ cổ phiếu sẽ trừ đi phần phí quyền chọn
đã mua, hay mức chi phí cơ hội cao nhất chính là phí quyền chọn đã mua. ($150)
1.5.
3 Bán Quyền Chọn Mua
1.5.3.1 Bán quyền chọn mua được phòng ngừa (Covered calls writing)
Trong giao dịch bán quyền chọn mua được phòng ngừa, nghĩa là mua chứng khoán
cơ sở và bán quyền chọn mua dựa trên chứng khoán đó. Đây là một chiến lược bổ sung
tốt nhất trong thị trường giá lên và ổn định với việc tăng giá chậm của chứng khoán cơ
sở đã được dự đoá
n trước. Thành công của một quyền chọn mua được phòng ngừa dựa
trên việc tìm ra sự ổn định của thị trường và một quyền chọn mua kiệt giá nhẹ (OTM)
với thời gian đáo hạn còn lại ít hơn 45 ngày, phí quyền chọn đủ để tạo ra giao dịch có
giá trị khi giá cổ phiếu cơ sở tăng thấp hơn giá thực hiện quyền chọn. Rủi ro cho gia
o
dịch này cao nhưng được đền bù lại một lợi nhuận trần do giá thực hiện của việc bán
quyền mua ngắn hạn.
Ví dụ mua 100 cổ phiếu Wall-Mart Stores, Inc ( WMT) với giá 43.88 và bán một
quyền chọn mua WMT với giá 45, thời gian đáo hạn còn lại là 2 tháng, phí quyền chọn
là 0.95. Lợi nhuận tối đa cho giao dịch này là phí quyền chọn nhận được từ việc bán
quyền chọn mua cộng với lợi nhuận từ cổ phiếu nắm g
iữ nếu giá cổ phiếu vào ngày đáo
hạn bằng với giá thực hiện trong hợp đồng quyền chọn. Phần thu về tối đa từ quyền
chọn là $95 và từ cổ phiếu là $112 [45-43.88) x 100]. Tổng lợi nhuận thu về từ chiến
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam
24
lược bán quyền chọn mua được phòng ngừa này là $207 ( 95+112). Mức rủi ro tối đa
thì được giới hạn khi giá cổ phiếu WMT rớt qua khỏi mức hoà vốn là $42.93 (được xác
định bằng giá chứng khoán mua lúc đầu trừ đi phí quyền chọn, 43.88 – 0.95) đến 0.
Quyền chọn này không cần tài khoản ký quỹ đặt lệnh vì việc bán quyền chọn mua được
bảo hộ bởi chính cổ phiếu cơ sở nắm giữ.
Quyền c
họn mua được phòng ngừa là chiến lược phổ biến nhất được sử dụng hiện
nay. Nếu người kinh doanh muốn tìm kiếm thêm lợi nhuận từ cổ phiếu đang nắm giữ,
họ có thể bán một quyền chọn mua kiệt giá nhẹ mỗi tháng. Rủi ro trên chiến lược này
là khả năng hạn chế trong việc bảo vệ chứng khoán cơ sở khỏi xu hướng giảm giá chủ
đạo và phần thiệt hại có thể của lợi nhuận trong tương lai khi giá chứng khoá
n lên cao
hơn mức giá thực hiện. Để tăng cường bảo vệ, quyền chọn mua được phòng ngừa có
thể kết hợp với việc mua dài hạn một quyền chọn bán ( trên 6 tháng). Quyền chọn mua
có thể bán mỗi tháng với sự bảo vệ hỗ trợ của việc thực hiện quyền chọn bán.
Lợi nhuận t
iềm năng và thiệt hại của một người bán quyền chọn mua bị ảnh hưởng
bởi giá thực hiện của quyền chọn mua. Trong các trường hợp, lợi nhuận ròng đạt được
tối đa của người bán quyền chọn mua sẽ được xác định nếu giá cổ phiếu cao hơn hoặc
ngang bằng với giá thực hiện của quyền chọn lúc đáo hạn hoặc lúc thoả thuận. Giả định
rằng giá m
ua cổ phiếu thì bằng với giá hiện hành của cổ phiếu, nếu người bán quyền
chọn bán một quyền chọn mua ngang giá ATM thì lợi nhuận ròng chính là phí quyền
chọn mà anh ta bán; nếu là một quyền chọn mua cao giá ITM thì lợi nhuận ròng sẽ
bằng phí quyền chọn trừ đi các chi phí chênh lệnh giữa giá mua cổ phiếu và giá thực
hiện; nếu là một quyền chọn mua kiệt giá OTM, thì lợi nhuận ròng tối đa sẽ là phí
quyền chọn cộng với chi phí chênh lệch giữa giá thực hiện và giá mua cổ phiếu.
1.5.3.2 Bán quyền chọn mua không được phòng ngừa (Uncovered call writing)
Người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa là người không nắm giữ
chứng khoán cơ sở để thực hiện hợp đồng quyền chọn, hợp đồng này còn gọi là hợp
đồng khống (naked). Người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa bắt buộc
HDKH: TS. Nguyễn Thị Xuân Liễu Thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Duyên
25
phải ký quỹ và duy trì tỉ lệ đủ để mua chứng khoán trong thị trường tự do nếu như
người mua quyền chọn thực hiện hợp đồng. Rủi ro của hợp đồng khống là không có
giới hạn. Tuy nhiên người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa có thể đạt
được lợi nhuận trong suốt chu kỳ giảm giá hoặc đứng yên của giá chứng khoán. Hai rủi
ro chính mà nhà đầu tư cần quan tâm trong chiến lược này là: Nếu giá cổ phiếu tăng
nha
nh, quyền mua sẽ được thực hiện. Người bán phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao
chứng khoán, và bắt buộc phải mua chứng khoán từ thị trường bên ngoài với giá cao
hơn hợp đồng. Hoặc Rủi ro của việc bán quyền chọn mua không được phòng ngừa thì
giống như bán khống chứng khoán, mặc dù người bán quyền chọn nhận được phí
quyền chọn bù đắp một phần rủi ro đó.
Giả định rằng bá
n một quyền mua cổ phiếu XYZ giá 65 đáo hạn tháng 7, phí quyền
chọn là 6. Nếu giá chứng khoán thấp hơn hoặc bằng 65 thì quyền chọn đó không có chỉ
định thực hiện và do không có cổ phiếu nên việc giảm giá cổ phiếu không ảnh hưởng
đến phần lợi nhuận do việc bán quyền chọn đem lại ($600). Mặt khác, nếu giá cổ phiếu
tăng lên $75, quyền c
họn sẽ được chỉ định thực hiện và mức lỗ ròng lúc này là $400
($1000 - $600), phần thiệt hại của người đầu tư sẽ tiếp tục gia tăng khi giá cổ phiếu
tăng lên.
Để huỷ bỏ nghĩa vụ thực hiện giao dịch quyền chon này trước khi được chỉ định
thực hiện, người bán quyền chọn mua không được phòng ngừa phải thực hiện mua
chấm dứt giao dịch (closing purchase).
1.5.
4 Bán Quyền Chọn Bán
1.5.4.1 Quyền chọn bán được phòng ngừa (Covered put writing)
Một người bán quyền chọn bán được xem là có phòng ngừa khi anh ta có cổ phiếu
tương ứng đảm bảo cho việc thực hiện quyền và bán quyền chọn trên chứng khoán đó
hoặc chứng khoán cơ sở còn được hiểu là tiền mặt của người phát hành quyền chọn ký
gởi trong tài khoản cho người môi giới đảm bảo đủ để thực hiện quyền chọn.
Áp dụng Quyền chọn Cổ phiếu vào TTCK Việt Nam