Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.04 KB, 22 trang )

CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc trưng của Ngân hàng Thương mại
1.1. Khái niệm NHTM
NHTM là một định chế tài chính quan trọng bậc nhất của mỗi một quốc
gia.
Quan trọng là vậy song không có một định nghĩa nào chung cho khái
niệm NHTM trên thế giới. Tuỳ theo mỗi quốc gia mà NHTM hoạt động trong
thể chế pháp luật khác nhau. Có thể hiểu NHTM với những nét chung: NHTM là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán. Mức độ phát triển của các dịch vụ Ngân
Hàng là khác nhau phụ thuộc vào nền tảng công nghệ khoa học kỹ thuật của
mỗi nước.
Tại Việt Nam, trong luật các TCTD được Quốc hội thông qua 12/12/1997
quy định:
Theo khoản 1 điều 20: "TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của luật này và các quy định khác của pháp luật để huy động kinh doanh
tiền tệ, làm dịch vụ Ngân Hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi
để cấp tín dụng,cung ứng các dịch vụ thanh toán".
1.2. Đặc trưng của NHTM
Mặc dù có những cách hiểu khác nhau song nhìn chung thì Ngân Hàng có
những đặc trưng sau:
-NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác liên
quan đến tiền tệ.
NHTM là các doanh nghiệp vay mượn ,huy động tiền tệ từ các chủ thể
đang nắm giữ tiền tạm thời chưa dùng tới để rồi dùng tiền đó cho vay, đầu tư
vào những lĩnh vực nhà nước cho phép.


Đây là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
với các lĩnh vực kinh doanh khác. Tuy nhiên các Ngân Hàng ngày càng phải
hoạt động trong sự cạnh tranh gay gắt nên sản phẩm và phương thức kinh
doanh của Ngân Hàng cũng có sự thay đổi, theo đó, sản phẩm của Ngân hàng
còn bao gồm các dịch vụ khác như : dịch vụ về tài chính, về thông tin, kế toán
….
Hoạt động kinh doanh Ngân Hàng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Thường thì Ngân Hàng đi vay, huy động vốn ngắn hạn với lãi suất thấp để cho
vay với thời hạn dài hơn với lãi suất cao hơn. Từ đó Ngân Hàng sẽ thu được lợi
nhuận. Tuy nhiên chỉ bằng những kinh nghiệm giản đơn cũng có thể thấy được
tính chất tập trung rủi ro của lĩnh vực Ngân hàng. Nếu đến hạn vì một nguyên
nhân nào đó người vay tiền không trả được nợ hoặc trả không dủ sẽ làm cho
Ngân Hàng lâm vào tình trạng rủi ro. Trường hợp khác nữa là Ngân hàng sẽ có
thể gặp rủi ro thanh khoản nếu khách hàng đến rút tiền trước hạn, ngân hàng
phải trả tiền cho khách hàng khi đáo hạn nhưng ngân hàng lại không có đủ tiền
để thanh toán do các khoản cho vay hoặc đầu tư chưa thu hồi được và ngân
hàng cũng không thể vay tiền ở các thị trường tài chính khác…
Chính vì đặc điểm này mà Ngân Hàng phải tạo ra những biện pháp, kỹ
thuật để phòng ngừa rủi ro cho người gửi tiền, người vay tiền và cho chính bản
thân mình.
Ngân hàng thương mại kinh doanh mang tính hệ thống cao và chịu sự
quản lí nghiêm ngặt của Nhà nước. Có thể nói, tình hình lưu thông và giá trị của
tiền tệ có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế; hơn nữa, rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng luôn mang tính lan truyền, tính hệ thống cao hơn hẳn
nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Do đó đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước
phải có các biện pháp quản lý nghiêm ngặt sao cho Chính sách tiền tệ quốc gia
được đảm bảo thực hiện,hệ thống tài chính ngân hàng được đảm bảo an toàn,
quyền lợi của người gửi tiền và người đầu tư được bảo vệ. Hơn nữa, để tạo ra
các dịch vụ toàn diện cho khách hàng, đồng thời các ngân hàng có thể hỗ trợ
nhau khi đứng trước nguy cơ rủi ro, các ngân hàng luôn phải duy trì ràng buộc

theo hệ thống trong quá trình hoạt động của mình cả về mặt tổ chức và về mặt
kỹ thuật.
2. Chức năng và vai trò của Ngân hàng Thương mại
2.1.Chức năng trung gian tín dụng
Do đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong qúa trình tái sản xuất xã hội nên
đã xuất hiện mâu thuẫn giữa những người thừa vốn và những người thiếu vốn.
Quan hệ Tín Dụng trực tiếp gặp nhiều hạn chế vì nhu cầu giữa các chủ thể khó
có thể trùng nhau về mặt khối lượng, thời gian tín dụng và giữa các chủ thể
không có đủ sự tin tưởng để thực hiện việc chuyển quyền sử dụng vốn cho
nhau.
Với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
NHTMtrên cơ sở tập hợp các nguồn vốn huy động được thành một quỹ để cho
vay, đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể khác nhau. Từ
đó, đảm bảo quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá được diễn ra liên tục.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện chức năng trung gian tín dụng và góp
phần vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển
2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, NHTM thực hiện các khoản
thanh toán chi trả cho khách hàng.
Hàng ngày nền kinh tế xuất hiện hàng loạt các giao dịch với khối lượng
các khoản thanh toán vô cùng lớn. Trong quá trình làm trung gian tín dụng,
ngân hàng đã thu hút các nhà kinh doanh buôn bán với nhau mở tài khoản tiền
gửi thanh toán tại ngân hàng và ngân hàng thực hiện chức năng trung giân thanh
toán theo lệnh của chủ tài khoản. Đây chính là phương thức thanh toán qua đó
giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông, đẩy nhanh hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt với chi phí thấp hơn rất nhiều. Hoạt động thanh toán khẳng định vai trò
trung giân không thể thiếu của NHTM đồng thời tạo ra nguồn thu cho ngân
hàng từ phí thanh toán.
Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đang ngày một phát triển với tốc độ
nhanh chóng, thời gian cho thanh toán rút ngắn đến tối đa do công nghệ ngân

hàng đang ngày càng hoàn thiện. Điều này hoàn toàn phù hợp với sự phát triển
của các quan hệ kinh tế ngày càng sôi động và đa dạng đang diễn ra.
2.3. Chức năng tạo tiền của NHTM
Sự tạo tiền bắt đầu từ khi "đồng tiền ghi sổ" ra đời .Từ một khoản tiền gửi
ban đầu vào một ngân hàng thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ
thống ngân hàng thương mại, số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội. Tuy nhiên
chỉ có một hệ thống ngân hàng mới thương mại mới có thể mở rộng tiền gửi lên
nhiều lần, còn nếu chỉ có một ngân hàng thì không thể có chức năng tạo tiền
.Khoản tiền gửi ban đầu có khả năng tăng lên bao nhiêu lần là do hệ số mở rộng
tiền gửi quyết định.Hệ số mở rộng tiền gửi của một ngân hàng thương mại chịu
sự tác động của các yếu tố:tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,tỷ lệ rút tiền mặt của khách
hàng, tỷ lệ dự trữ dư thừa .
Giả sử trong điều kiện không xuất hiện khoản thanh toán nào bằng tiền
mặt và các ngân hàng đều cho vay hết quỹ cho vay thì hệ số mở rộng tiền gửi
được tính theo công thức:
H = { eq\ f(1; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc)}
(H: Hệ số mở rộng tiền gửi)
Khi đó nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì hệ số mở rộng tiền gửi là
10.Nghĩa là hệ thống ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần số tiền
gửi ban đầu.
Trên thực tế nếu một khách hàng nào đó rút một phần tiền mặt để thanh
toán hoặc ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay thì khả năng mở rộng tiền
gửi cũng gỉam đi. Vì thế hệ số mở rộng tiền gửi trong thực tế được tính theo
công thức:
H = {eq\f(1;{eq\a(Tỷ lệ dự trữ;bắt buộc)} + {eq\a(tỷ lệ thanh toán
bằng;tiền mặt của khách hàng)} + { eq\a(tỷ lệ dự trữ; dư thừa)})}
Như vậy ngân hàng cần phải đẩy mạnh nghiệp vụ thanh toán không dùng
tiền mặt và nghiệp vụ cho vay sao cho các khoản thanh toán bằng tiền mặt của
khách hàng và dự trữ dư thừa là thấp nhất.
Tuy nhiên, khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có thể mang lại

ruỉ ro khi khách hàng có nhu cầu rút tiên mặt một cách ồ ạt mà ngân hàng lại
đang thiếu phương tiện thanh toán bằng tiền mặt .Để giảm thiểu rủi ro các ngân
hàng thương mại phải gửi tiền vào tài khoản tại ngân hàng nhà nước và tham gia
thang toán ra ngoài hệ thống ngân hàng mình.
Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có ý nghĩa to lớn trong
việc quyết định quy mô nguồn vốn của ngân hàng ,đồng thời tạo điều kiện thanh
toán không dùng tiền mặt . Với chức năng tạo tiền, ngân hàng trung ương coi
ngân hàng thương mại như một kênh quan trọn ,qua đó ngân hàng trung ương
có thể cung ứng tiền vào lưu thông hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu
thông nhằm đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu tiền tệ , thực hiện chính sách
giá cả, tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
3. Một số nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nghiệp vụ của ngân hàng thương
mại càng trở nên đa dạng hơn. Bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để
cho vay .Hoạt động "đi vay” tạo nên nguồn vốn của ngân hàng và hoạt động
"cho vay" hình thành nên nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng . Hơn nữa các
ngân hàng hiện đại ngày nay không chỉ thực hiện đi vay dể cho vay mà còn đa
dạng hóa thên nhiều dịch vụ để vừa phòng tránh rủi ro vừa tối đa hoá lợi nhuận
cho ngân hàng . Do vậy toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại được khái
quát thành hai nghiệp vụ chính sau:
-Nghiệp vụ tài sản nợ
-Nghiệp vụ tài sản có
3.1. Nghiệp vụ tài sản Nợ
Như trên đã trình bày thì nghiệp vụ tài sản nợ chính là nghiệp vụ tạo vốn
của ngân hàng thương mại .Cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải cần có một số lượng vốn nhất định
Đặc biệt các ngân hàng thương mại có đối tượng kinh doanh là vốn tiền tệ ,bởi
vậy , trong quá trình hoạt động các ngân hàmg thương mại luôn chú trọng công
tác bảo toàn và phát triển vốn. Các nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại

bao gồm có:
3.1.1. Vốn tự có
Vốn tự có là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu
của ngân hàng .Vốn tự có trước hết dùng để đầu tư vào trụ sở máy móc , văn
phòng làm việc… sau đó mới sử dụng để kinh doanh và chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng lại đóng vai trò vô cùng quan trọng
bởi nó là căn cứ pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng đông thời là cơ sở để
xác định quy mô hoạt động của ngân hàng .Vốn tự có khẳng định thế mạnh
cũng như khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại đối với người gửi tiền
trong trường hợp nếu xảy ra rủi ro. Vốn tự có của ngân hàng thương mại còn
mang tính ổn dịnh rất cao và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác.
Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ nhiêù nguồn khác nhau. Nếu
là ngân hàng thương mại quốc doanh thì vốn tự có do ngân sách nhà nước
cấp ;ngân hàng thương mại cổ phần thì vốn tự có do các cổ đông đóng góp
;ngân hàng liên doanh có vốn tự có do các đối tác góp và ngân hàng nước ngoài
có vốn tự có do ngân hàng mẹ ở chính quốc quyết định.
Vốn tự có bao gồm:
-Vốn pháp dịnh và vốn điều lệ:trong đó ,vốn pháp định là số vốn tối thiểu
mà ngân hàng phải có khi thành lập do pháp luật quy định . Vốn điều lệ là vốn
do các cổ đông đóng góp và ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng.Vốn điều
lệ mức tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
-Vốn tự có bổ sung:bao gồm quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ
đặc biệt để bì dắp rủi ro. Việc hình thành các quỹ này phụ thuộc vào kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Ngoài ra , vốn tự có của ngân hàng thương mại còn bao gồm lợi nhuận
chưa chia và các quỹ như: quỹ khen thưởng phúc lợi , quỹ trợ cấp mất việc
làm…
3.1.2. Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thuực hiện nghiệp

vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn
kinh doanh.Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn
hoạt dộng và không thuộc sở hữu của ngân hàng.Vốn huy động không mang
tính ổn định ,luôn biến động.
Nguồn vốn huy động bao gồm :
-Tiền gửi không kỳ hạn , tiền gửi thanh toán.
-Tiền gửi có kỳ hạn.
-Tiền gửi tiết kiệm.
* Tiền gửi không kỳ hạn là những khoản tiền được khách hàng gửi vào
ngân hàng với mục đích thanh toán hay phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh một cách thường xuyên, an toàn , thuận lợi chứ không phải vì mục đích
hưởng lãi suất .Chính vì vậy só dư của tài khoản này luôn biến động và ngân
hàng sẽ trả lãi rất ít cho các khách hàng. Khách hàng thường quan tâm đến việc
chi trả dễ dàng từ việc trích tài khoản chứ ít khi quan tâm đến các khoản lãi ít ỏi
nhận được từ phía ngân hàng.Mặt khác khách hàng có thể đựoc hưởng các
dịch vụ tiện ích như:các dịch vụ thanh toấn , chuyển tiền ,rút tiền khi cần
thiết.Về phía ngân hàng ,đây là nguồn vốn rẻ nhất trong số các loại hình huy
động khác,ngân hàng chỉ phải chi ra một chi phí nhỏ trong việc trả lãi,đồng thời
ngân hàng có điều kiện mở rộng thêm các dịch vụ thanh toán mới nhằm xây
dựng hình ảnh của ngân hàng trong công chúng.
*Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng và ngân hàng thoả
thuận với nhau về thời hạn rút tiền. Như vậy về nguyên tắc là khi khách hàng
xác định một kỳ hạn cụ thể thì họ chỉ được rút tiền khi thời hạn kết thúc. Tuy
nhiên trong thực tế, họ có thể yêu cầu được rút trước thời hạn mà đã thoả thuận
với ngân hàngvà chấp nhận hưởng một khoản lãi nhỏ hoặc không được hưởng
lãi theo quy định của ngân hàng.Khách hàng có thể gửi tiền vào ngân hàng với
kỳ hạn dài hoặc ngắn. Các mức kỳ hạn ngắn là :3 tháng , 6 tháng,9 tháng,12
tháng.Các mức kỳ hạn dài là:24 tháng,36 tháng… .Mức lãi mà ngân hàng trả
cho khách hàng là tuỳ thuộc vào kỳ hạn khách hàng gửi tiền vào ngân hàng và
các yếu tố khác trên thị trường.

*Tiền gửi tiết kiệm:là một bộ phận thu nhập của nguươì lao động chưa
sử dụng đến và gưỉ vào ngân hàng với mục đích an toàn tài sản và hưởng lãi từ
số tiền đó .Gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn.Tiền gửi tiết kiệm đã trở thành công cụ huy động vốn truyền thống của các
ngân hàng thương mại .Vốn huy động từ tài khoản tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ
trọng khá cao trong tiền gưỉ ngân hàng và có tính chất ổn định nên ngân hàng có
thể lên kế hoạch sao cho sử dụng có hiệu quả.
*Ngoài các hình thức tạo vốn thông qua việc huy động tiền gửi thì khi
cần thiết các ngân hàng thương mại có thể phát hành các loại giấy tờ có giá như:
+Kỳ phiếu:thường có thời hạn từ 3 tháng đến 12 tháng
+Trái phiếu: thường có thời hạn trên 12 tháng
+Chứng chỉ tiền gửi :có thời hạn dưới 12 tháng
Ngân hàng thương mại sẽ phát hành giấy tờ có giá theo từng đợt với quy
mô, thời hạn cũng như cách trả lãi và mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào nhu
cầu vốn của ngân hàng lúc bấy giờ. Lãi suất trả cho nghiệp vụ này thường cao
hơn so với lãi suất tiền gửi dựa trên cơ sở quan hệ cung- cầu về vốn trên thị
trường cũng như lãi suất chung của nền kinh tế. Ngược lại ngân hàng có thể chủ
động trong việc huy động vốn của mình.

×