Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ THỰC TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.65 KB, 32 trang )

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ THỰC
TRẠNG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
2.1. Qúa trình hình thành và phát triển của Thị trường chứng khoán Việt Nam
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều hiện kinh
tế-chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở
tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới, Việt Nam
đã quyết định thành lập TTCK với những đặc thù riêng biệt : về chủ trương, thành
lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà nội (hiện
mới chỉ có Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã hoạt
động còn ở Hà Nội sẽ thành lập và vận hành giao dịch bảng II trong tương lai), sau
đó khi thị trường đã phát triển thì chuyển thành Sở Giao dịch chứng khoán.
Sự ra đời và phát triển của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào
vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày
20/7/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000.
Mục tiêu cơ bản cho thời kỳ hoạt động ban đầu của TTCK Việt Nam theo chỉ
đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ là xây dựng một TTCK với quy mô nhỏ, phát
triển từ thấp đến cao và không gây mất ổn định kinh tế-xã hội. Sau 4 năm hoạt
động, TTCK Việt Nam đã dần hình thành và từng bước phát triển, song cũng gặp
không ít khó khăn trở ngại. Đánh giá đầy đủ hoạt động của TTCK thời gian qua là
1 sự tổng kết cần thiết nhằm nhìn nhận lại thị trường để có những bước tiếp trong
tương lai.
2.1.1. Kết quả đạt được
+ Về hoạt động của thị trường : với chỉ có 2 công ty niêm yết vào năm 2000,
hiện nay TTCK đã có 24 công ty niêm yết với tổng giá trị vốn điều lệ là 1.240 tỷ
đồng, 147 loại trái phiếu Chính phủ, 2 loại trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư phát
triển, 01 trái phiếu đô thị với tổng giá trị niêm yết trên 17.300 tỷ đồng. UNCKNN
đã cấp phép hoạt động cho 13 công ty chứng khoán, 01 công ty quản lý quỹ đầu tư
và 5 ngân hàng lưu ký. Năm 2004, quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã tiến hành
huy động vốn và bắt đầu hoạt động. Thị trường đã thu hút được các nhà đầu tư có
tổ chức và nhà đầu tư cá nhân trong và ngoài nước tham gia với 19.000 tài khoản
giao dịch, trong đó có 200 nhà đầu tư nước ngoài. Tinh đến hết tháng 8/2004, có


864 phiên giao dịch đã được thực hiện thành công tại TTGDCK với tổng giá trị
giao dịch trung bình mỗi phiên hơn 13 tỷ đồng. Tổng giá trị giao dịch trên TTCK
chiếm 3,7% GDP năm 2003, tăng hơn hai lần so với năm 2002.
+ Về khuôn khổ pháp lý : Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về
chứng khoán và TTCK (thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP trước đây) là văn bản
quy phạm pháp luật cao nhất điều chỉnh các hoạt động liên quan đến chứng khoán
và TTCK. Nghị định này bao gồm những quy định mới tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho việc niêm yết của các công ty, sự vận hành của thị trường và yêu cầu bảo vệ
nhà đầu tư. Với quan điểm khuyến khích đầu tư và huy động vốn, Nghị định 144
đã có những bước tiến đáng kể bằng cách áp dụng một hệ thống các tiêu chuẩn và
điều kiện niêm yết linh hoạt hơn, cho phép các doanh nghiệp có thể tiếp cận với
TTCK tập trung để huy động vốn. Phạm vi điều chỉnh của Nghị định cũng được
mở rộng đối với hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng. Bên cạnh đó,
Nghị định cũng đã cho phép đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán để
có thể khuyến khích mọi tầng lớp, từ nhà đầu tư nhỏ lẻ đến nhà đầu tư có tổ chức
tham gia TTCK.
+Về các chính sách phát triển thị trường : Bên cạnh khung pháp lý, Chính
phủ đã ban hành các chính sách khuyến khích các đối tượng tham gia TTCK như
chính sách thuế, chính sách tham gia của bên nước ngoài (QĐ 39/2000/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về tạm thời ưu đãi thuế trong lĩnh vực chứng khoán; QĐ
146/2003/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trên TTCK Việt Nam).
Ngoài ra, các chính sách về quản lý ngoại hối đã được sửa đổi để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chuyển thu nhập từ đầu tư chứng khoán ra nước ngoài.
+ Về định hướng phát triển : Ngày 5/8/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt Chiến lược Phát triển TTCK đến năm 2010. Việc xây dựng chiến lược phát
triển TTCK và chương trình hành động cụ thể cho từng năm được UBCKNN xác
định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong xây dựng và phát triển TTCK. Trên cơ
sở Chiến lược, Bộ Tài chính đã xác định mô hình TTCK là : TTGDCK thành phố
Hồ Chí Minh là thị trường tập trung, phát triển thành Sở GDCK có khả năng liên
kết với các thị trường trong khu vực; TTGDCK tại Hà Nội là thị trường giao dịch

cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển thành thị trường phi tập trung phù hợp với
quy mô của TTCK. Cùng với việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho các
TTGDCK, phát triển các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợ thị trường như
Trung tâm lưu ký chứng khoán, tổ chức định mức tín nhiệm cũng đang được chuẩn
bị khẩn trương.
+ Về tổ chức bộ máy quản lý : Trước tháng 4/2004, UBCKNN là cơ quan
thuộc Chính phủ, tuy nhiên khuôn khổ pháp luật hiện hành không cho phép cơ
quan thuộc Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật, điều này đã gây
nhiều trở ngại trong công tác ban hành các văn bản pháp luật để quản lý thị trường.
Thực hiện cải cách hành chính nhà nước theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh
vưc, Chính phủ đã ban hành Nghị định 66/2004/NĐ-CP ngày 19/2/2004 về việc
chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính và ngày 7/9/2004 Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định 161/2004/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của UBCKNN thuộc Bộ Tài chính. Việc chuyển UBCKNN vào
Bộ Tài chính tạo điều kiện thống nhất trong hoạch định và thực hiện chính sách
phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán, tạo điều kiện gắn kết giữa cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước với phát triển thị trường.
2.1.2. Những hạn chế
+ Hạn chế về cung chứng khoán : Số lượng hàng hóa còn ít ỏi và chất lượng
hàng hóa chưa cao. Phần lớn các công ty niêm yết là những doanh nghiệp Nhà
nước cổ phần hóa có quy mô nhỏ, không phải là doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực
kinh doanh hấp dẫn đầu tư. Một số công ty sau khi niêm yết đã bộc lộ những yếu
kém trong quản trị kinh doanh, đầu tư không có hiệu quả gây mất lòng tin của giới
đầu tư. Có thể nhận diện một số nguyên nhân chủ yếu sau :
- Sự bất cập của tiến trình cổ phần hóa : các doanh nghiệp CPH chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khó khăn gặp phải là vấn đề trong định giá tài sản, xử lý
nợ quá hạn, hạn chế về năng lực và những tồn tại về mặt tư tưởng, nhận thức của
những người quản lý doanh nghiệp. Xét về mặt số lượng các doanh nghiệp cần
CPH thì việc thực hiện CPH mới chỉ đạt 63% kế hoạch đặt ra. Việc CPH cũng diễn
ra thiếu triệt để và xuất hiện hiện tượng Nhà nước hóa các công ty cổ phần, làm

cản trở hoạt động đầu tư tư nhân và giảm hiệu quả cảu doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về lợi ích của việc ra niêm yết
tại TTCK, chưa quen với một văn hóa kinh doanh minh bạch, các doanh nghiệp coi
việc công bố thông tin và đáp ứng những chuẩn mực về kiểm toán, kế toán, quản
trị công ty là một gánh nặng và không muốn ra niêm yết trên TTCK.
- Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam là sở hữu nhà nước, DNNN dựa
chủ yếu vào hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh để vay vốn hoạt động.
Mặc dù đã thực hiện sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường và CPH trong một thời
gian đáng kể song cơ chế bao cấp tín dụng, tâm lý lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng
vẫn còn phổ biến khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự có nhu cầu và nhận
thức được lợi ích của việc huy động vốn qua TTCK.
+ Hạn chế về cầu chứng khoán : TTCK Việt Nam chưa có một hệ thống các
nhà đầu tư bao gồm các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân. Phần lớn các
nhà đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư nhỏ lẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm cũng
như kiến thức về đầu tư chứng khoán. Đây là một vấn đề có tính hai mặt, thị
trường chứng khoán chưa hoàn thiện, thiếu các tổ chức có vai trò trụ cột trong tạo
lập thị trường; hệ thống văn bản pháp quy chưa đầy đủ, hàng hóa ít ỏi là nguyên
nhân khiến cho TTCK chưa hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các
nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán còn hạn chế do chất lượng
các cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chưa thực sự hấp dẫn, quy mô thị
trường nhỏ, thị phần đầu tư thấp và chưa tiếp cận được với những thông tin doanh
nghiệp cần thiét để ra quyết định đầu tư. Trong khi đó, nhà đầu tư trong nước lại
gặp phải những trở ngại về mặt kiến thức và kinh nghiệm.
+ Hạn chế về mặt thể chế thị trường: Xét từ góc độ thu hút vốn đầu tư thì
những hạn chế về mặt thể chế thị trường là một trở ngại đáng kể, không chỉ trên
phương diện duy trì tính toàn vẹn của thị trường và niềm tin của công chúng đầu tư
trong và ngoài nước. Đối với một thị trường mới hình thành và phát triển thì việc
chưa có được một thể chế thị trường hoàn chỉnh là điều tất yếu. Sự vắng mặt của
các tổ chức tự quản, tổ chức định mức tín nhiệm, trung tâm lưu ký và thanh toán bù
trừ chứng khoán, phạm vi hoạt động còn hạn hẹp và tính chuyên môn hóa chưa cao

của các công ty chứng khoán là những điểm yếu khiến cho các nhà đầu tư trong
nước cũng như nước ngoài coi việc đầu tư vào TTCK phần nào mang tính chất
mạo hiểm.
+ Hạn chế về mặt khuôn khổ pháp luật và năng lực hoạch định chính sách:
Trở ngại lớn nhất hiện nay là TTCK chưa có được một Luật chứng khoán toàn
diện và đầy đủ. Lĩnh vực chứng khoán và TTCK còn chịu sự điều chỉnh của các
văn bản pháp luật khác như Luật doanh nghiệp, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật
kinh doanh bảo hiểm, Luật phá sản. Do vị thế pháp lý của Nghị định 144/CP thấp
hơn các Luật liên quan và môi trường pháp lý hiện hành còn chưa đầy đủ thì những
bất cập, xung đột giữa các văn bản pháp luật liên quan đến TTCK là điều khó tránh
khỏi. Khuôn khổ pháp lý thiếu đồng bộ, hay thay đổi khiến cho các nhà đầu tư
thiếu sự an tâm khi tham gia đầu tư trên TTCK. Điều này cho thấy sự cần thiết và
tầm quan trọng của việc xây dựng một Luật chứng khoán. Bên cạnh đó, năng lực
hoạch định chính sách và thực thi luật pháp cũng là một vấn đề cần tính đến. Đánh
giá một cách khách quan, UBCKNN và những cơ quan quản lý liên quan khác trên
thị trường vốn chưa có đủ năng lực cần thiết để thực hiện chức năng giám sát, quản
lý và cưỡng chế thực thi các chính sách trên TTCK một cách hiệu quả. Điều này
xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý thị trường thiếu kinh nghiệm, khả
năng xây dựng và thực thi các chính sách thích hợp nhằm khuyến khích sự phát
triển của thị trường, thu hút và bảo vệ nhà đầu tư.
2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế :
Thứ nhất, Đảng và Chính phủ chủ trương phát triển hệ thống thị trường tài
chính, trong đó có thị trường vốn, TTCK. Tuy nhiên trong điều hành thực tiễn thì
hệ thống thị trường bị chia cắt, chưa có một chiến lược phát triển thị trường tài
chính nói chung. Vì vậy, định hướng và giải pháp thực hiện thiếu đồng bộ, chưa coi
việc phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán là khâu đột phá trong chiến
lược phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn, thu nhập của dân chúng thấp
(bình quân đầu người năm 2003 chỉ có 470 USD) chưa có chính sách phù hợp để
khai thác nguồn lực tài chính trong dân, nguồn vốn bị phân tán để đầu tư vào các

tài sản thay thế như tiền gửi ngân hàng, đầu tư bất động sản, ngoại tệ..vv. Tỷ trọng
đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé, tổng giá trị thị trường mới chiếm khoảng
3,7% GDP.
Thứ ba, tiến trình cải cách khu vực DNNN diễn ra chậm, chưa gắn được CPH
DNNN với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK. Việc
phát hành cổ phiếu chủ yếu là bán trong nội bộ doanh nghiệp, công tác định giá tài
sản còn mang nặng tính hành chính, chưa thực hiện công khai hóa ra công chúng.
Mặc dù đã có các chủ trương, chính sách về cải cách doanh nghiệp tạo điều kiện
cho việc tăng cung hàng hóa chứng khoán, nhưng trên thực tế việc triển khai CPH
và gắn với niêm yết cổ phiếu cảu các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công
ty, NHTMNN diễn ra chậm chạp.
Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam còn mang năng tư tưởng của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, không muốn huy động
vốn trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp e ngại kiểm toán và công bố thông tin khi
niêm yết trên TTCK. Ngoài ra, ở một số công ty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu
nhà nước còn khá cao do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất
thấp.
2.2. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam:
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát
triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong
kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng
được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương-vừa
đóng vai trò là ngân hàng trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Bước sang năm 1950, công cuộc kháng
chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội
trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Trên cơ sở chủ trương
chính sách mới về tài chính – kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ 11 (tháng 2/1951)
đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL

thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam – Ngân hàng của nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất, nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở Miền Nam được hợp nhầt
vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả
nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm : Ngân hàng Trung ương
đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố
và các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Thời kỳ 1975-1985 : Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh
giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới
của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất
trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam)
đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền
mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam-Bắc
vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản
vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của
hệ thống ngân hàng – chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được
bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
Thời kỳ 1986 đến nay : Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan
trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước
ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã
được hình thành và hoàn thiện dần. Tháng 5/1990, hai pháp lệnh ngân hàng ra đời
(Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống
Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ

và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi. Trong thời
gian này 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm : Ngân
hàng Nông nghiệp Việt Nam; Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; Ngân hàng
Công thương Việt Nam; và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Năm 1993 : Bình thường hóa các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995 : Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt
động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997 : Quốc hội X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông
Cửu Long.
Năm 1999 : Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Năm 2000 : Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại
tài chính và hoạt động của các NHTMCP.
Năm 2002 : Tự do hóa lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng-bước
cuối cùng tự do hóa hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra.
Năm 2003 : Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn
quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NH Chính sách xã hội trên
cở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng chính sách với
tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN.
Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Hệ thống ngân hàng nước ta
đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt nam. Cho
đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực trong
công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam
Sự ra đời và hoạt động của các NHTMCP Việt Nam gắn liền với quá trình đổi
mới hoạt động hệ thống ngân hàng thông qua việc chuyển đổi từ hệ thống ngân

hàng 1 cấp thành hệ thống ngân hàng 2 cấp (Ngân hàng Nhà nước và các ngân
hàng thưong mại), trong bối cảnh kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Không phải đến hôm nay ngành ngân hàng mới đề cập đến 2 chữ “cổ phần”
mà nó đã có từ lâu, chính xác hơn là cách đây 14 năm kể từ khi Pháp lệnh Ngân
hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính ra đời năm 1990 (nay là Luật các tổ
chức tín dụng). Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã tiến hành cấp phép cho loại hình
NHTMCP hoạt động từ thời điểm đó, với mô hình : “NHTMCP là NHTM được
thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức
không được sở hữu số cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN quy định”.
Tháng 12 năm 1997 Luật các Tổ chức tín dụng ra đời, NHTMCP được quy
định là Ngân hàng cổ phần của Nhà nước và nhân dân. Có 2 loại hình NHTMCP
được thành lập theo các Pháp lệnh về Ngân hàng (bằng cách điều chỉnh từ tổ chức
tín dụng cũ hoặc thành lập mới) là NHTMCP đô thị (có trụ sở chính tại các đô thị
lớn) và NHTMCP nông thôn (có trụ sở đặt tại các thị trấn, thị tứ).
Ngay từ thời gian đầu năm 1990, ở nước ta đã có 15 NHTMCP. Trong vòng 5
năm sau, số NHTMCP ở nước ta đã lên tới 54 ngân hàng, trong đó có 33 NHTMCP
đô thị và 21 NHTMCP nông thôn.... Đó là một tốc độ mà không có bất kỳ một
nước nào trên thế giới có thể đạt được và một hệ thống NHTMCP được coi là trẻ
nhất trên thế giới, trong khi đó, số lượng NHTM quốc doanh lúc đó chỉ có 4 và vẫn
được giữ nguyên.
Theo quy định, bên cạnh chủ sở hữu là tổ chức Nhà nước (sở hữu phần vốn
của Nhà nước góp vào NHCP) thì NHTMCP còn có thể có nhiều chủ sở hữu khác
như các cá nhân người Việt Nam, người nước ngoài, các tổ chức ngoài quốc doanh,
các tổ chức nước ngoài. Nghĩa là, NHTMCP Việt Nam thuộc sở hữu cổ đông, trong
đó phải có cổ đông là tổ chức Nhà nước.
Trong thời gian đầu, cổ đông trong các NTHMCP chủ yếu là doanh nghiệp
nhà nước. Thời gian sau này các công ty tư nhân, công ty TNHH, hộ kinh doanh và
cá nhân chiếm tỷ trọng lớn hơn. Đây là lĩnh vực thể hiện rõ nhất chủ trương phát

triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Chính phủ Việt nam được thực hiện
trong lĩnh vực ngân hàng, một ngành được coi là quan trọng hàng đầu của đất
nước. Hay nói cách khác, ngân hàng là ngành có tổ chức cổ phần chiếm tỷ trọng
lớn so với các ngành kinh tế khác.
Tuy nhiên, do còn rất non trẻ, hoạt động trong môi trường chưa ổn định, các
NHTMCP đều còn non nớt, tình trạng mất khả năng chi trả của nhiều NHTMCP đã
làm mất lòng tin của dân chúng. Kể từ năm 1998, Chính phủ đã thực hiện một số
biện pháp nhằm chấn chỉnh củng cố lại hệ thống ngân hàng, chủ yếu là cải thiện
khung pháp lý và cơ cấu lại hệ thống NHTMCP. Bên cạnh một số ít NHTMCP hoạt
động lành mạnh, có hiệu quả, đóng góp vào việc đa dạng hóa các trung gian tài
chính và việc phát triển hệ thống ngân hàng ở nước ta thì một số NHTMCP khác
do quản lý yếu kém đã làm giảm niềm tin của công chúng vào hệ thống NHTMCP
và gây nhiều trở ngại cho tiến trình cải cách ngân hàng của Chính phủ.
Theo Nghị định 82/1998/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 3 tháng 10 năm
1998 các NHTMCP đô thị phải có mức vốn pháp định tối thiểu là 50 tỷ đồng (nếu
ngân hàng tại Hà nội và TP. HCM thì vốn pháp định tối thiểu là 70 tỷ đồng,
NHTMCP nông thôn tối thiểu là 5 tỷ đồng), đã có một số ngân hàng phát hành
thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ đáp ứng yêu cầu về mức vốn pháp định. Nhưng
việc tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu là một giải pháp khó thực hiện, nhất là
trong tình hình hệ thống NHTMCP có những biến động tác động tiêu cực đến niềm
tin của các cổ đông tương lai.
Để góp phần giải quyết tình trạng yếu kém trong hệ thống các NHTMCP,
phương thức sáp nhập hay mua lại ngân hàng đã được sử dụng, đặc biệt qúa trình
này diễn ra mạnh mẽ nhất vào năm 2000. Như vậy, cùng một lúc giải quyết được
hai vấn đề là các ngân hàng có thể tích tụ, tập trung củng cố để đáp ứng quy định
của Chính phủ đồng thời quy mô ngân hàng cũng trở nên lớn hơn. Tuy nhiên, việc
sáp nhập hay mua lại chưa đảm bảo giải quyết được vấn đề cơ bản là nâng cao
trình độ quản lý. Như vậy, bản thân các ngân hàng sau khi sáp nhập vẫn chứa đựng
những nguy cơ tiềm tàng.
Sau một thời gian dài chấn chỉnh và cơ cấu lại, đến nay hình ảnh và vị thế của

các NHTMCP Việt nam đã được cải thiện trong mắt công chúng và cả trong hệ
thống ngân hàng. Đến cuối năm 2003, số lượng các NHTMCP sau cải tổ, cơ cấu lại
là 34 ngân hàng, trong đó có 22 NHTMCP đô thị và 12 NHTMCP nông thôn. Kết
quả hoạt động kinh doanh của các NHTMCP ngày càng có chiều hướng tích cực,
đặc biệt là tốc độ tăng vốn và lãi suất của cổ đông. Trong 2 năm trở lại đây, các
ngân hàng đều trong quá trình “thắt lưng buộc bụng” để tăng vốn điều lệ. Một số
đơn vị đã thành công với chiến lược tăng vốn của mình và trở thành những
NHTMCP hàng đầu như : Sacombank hiện có 505 tỷ đồng; ACB với 481 tỷ đồng.
Kế đến là NHCP xuất nhập khẩu Eximbank với 300 tỷ đồng, NHTMCP Quân dội
280 tỷ đồng, VIB 180 tỷ đồng.
Tính đến hết năm 2003 đã thực hiện được mục tiêu chính là xây dựng hệ
thống NHTMCP lành mạnh, có quy mô phù hợp hơn và có nhiều khả năng cạnh
tranh. Có thể nói, đến thời điểm này, các ngân hàng đã chuẩn bị sẵn sàng cho thời
kỳ hội nhập với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh tranh gay
gắt.
Sự ra đời của các NHTMCP mới là bước tiến lớn của hệ thống NHTM Việt
Nam. Lần đầu tiên các ngân hàng đã có sự cạnh tranh và nỗ lực để đạt hiệu quả
kinh tế tốt hơn. Sau gần 14 năm hoạt động, hệ thống NHTMCP đã trải qua những
thăng trầm để tồn tại, ngày càng được hoàn thiện và không ngừng phát triển, đồng
thời khẳng định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng, góp phần tích
cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.

×