NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA SẢN XUẤT XÂY LẮP ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất mang tính chất công
nghiệp. So với các ngành khác, xây dựng cơ bản có những đặc điểm kỹ thuật
đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm xây lắp và quá trình sáng tạo ra sản
phẩm của ngành.
Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản đảm bảo việc mở rộng và tái sản
xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức như :
Xây dựng mới, xây dựng lại khôi phục và sửa chữa các công trình dân dụng
như đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay, nhà ga, trường học, bệnh viện...
Đặc điểm của ngành xây lắp là sản phẩm có qui mô lớn, kết cấu phức
tạp, thời gian sử dụng lâu dài, giá trị lớn... Sản phẩm xây lắp rất đa dạng
nhưng lại mang tính đơn chiếc, mỗi công trình được xây lắp theo một thiết kế
kỹ thuật riêng, có giá trị dự toán riêng và tại một địa điểm cố định .
Quá trình từ khởi công xây lắp cho đến khi công trình hoàn thành bàn
giao đưa vào sử dụng thường là rất dài; nó phụ thuộc vào qui mô và tính chất
phức tạp của công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn:
chuẩn bị điều kiện thi công, thi công xây dựng, lắp đặt kết cấu và các thiết bị
kỹ thuật phục vụ cho đối tượng đầu tư, hoàn thiện công trình ...
Mỗi gian đoạn thi công lại bao gồm nhiều công việc khác nhau, khối
lượng công việc thi công chủ yếu được tiến hành ở ngoài trời nên chịu ảnh
hưởng lớn của các điều kiện thiên nhiên như: mưa, gió, bão, lụt. Quá trình và
điều kiện sản xuất trong thi công không ổn định, có tính lưu động cao, luôn
biến động theo địa điểm xây lắp và theo từng gian đoạn thi công của từng
công trình.
Những đặc điểm trên làm cho việc tổ chức, quản lý và hạch toán trong
xây dựng cơ bản khác với quá trình này ở các ngành kinh tế khác. Cụ thể là
mỗi công trình đều được tiến hành thi công theo đơn đặt hàng riêng, phụ
1
thuộc vào yêu cầu của khách hàng và thiết kế kỹ thuật của công trình đó. Sản
phẩm xây lắp phải lập dự toán, quá trình sản xuất phải so sánh với dự toán,
lấy dự toán làm thước đo. Khi thực hiện các đơn đặt hàng của khách hàng đơn
vị xây lắp phải đảm bảo bàn giao đúng tiến độ, đúng thiết kế kỹ thuật, đảm
bảo chất lượng công trình.
II. CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ PHÂN LOẠI CHI PHÍ SẢN XUẤT
1. Chi phí sản xuất
Quá trình sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng là quá trình biến
đổi một cách có ý thức, có mục đích của các yếu tố đầu vào, sản xuất tạo
thành các công trình, hạng mục công trình nhất định.
Các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thể là
các hao phí về lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao
động (biểu hiện là hao phí về lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ trở
thành các sản phẩm. Để đo lường các hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong
từng thời kỳ hoạt động là bao nhiêu nhằm tổng hợp, xác định kết quả đầu ra,
phục vụ yêu cầu quản lý thì mọi hao phí cuối cùng đều được biểu hiện bằng
thước đo tiền tệ và được gọi là CPSX kinh doanh.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất đồng thời là quá
trình doanh nghiệp phải chi những chi phí sản xuất tương ứng; tương ứng với
việc sử dụng TSCĐ là chi phí khấu hao TSCĐ; tương ứng với việc sử dụng
nguyên, nhiên vật liệu là những chi phí về nguyên, nhiên, vật liệu; tương ứng
với việc sử dụng lao động là tiền lương, các khoản trích theo lương (BHXH,
BHYT, KPCĐ).
Như vậy, CPSX trong công ty xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác mà công ty
đã bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi công trong một thời kỳ nhất định.
Về mặt lượng chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố :
- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã bỏ ra trong từng thời kỳ
nhất định.
2
- Tiền lương của một đơn vị lao động đã hao phí và giá cả tư liệu sản
xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường với điều kiện giá cả thường xuyên biến
động, muốn lập dự toán chi phí sản xuất không bị lạc hậu thì việc đánh giá
chính xác chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, hơn nữa việc xác định chi
phí sản xuất phù hợp với giá thành thực tế sẽ giúp cho công ty bảo toàn vốn
theo yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế hiện nay.
2. Phân loại chi phí sản xuất
Đối với một công ty xây lắp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại và có
nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình
sản xuất thi công cũng khác nhau, yêu cầu quản lý đối với từng loại chi phí
cũng khác nhau. Việc quản lý sản xuất, tài chính, quản lý chi phí sản xuất
không chỉ dựa vào số liệu phản ánh tổng hợp chi phí sản xuất mà còn phải căn
cứ vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt, để phục vụ cho yêu cầu
kiểm tra và phân tích toàn bộ chi phí sản xuất hoặc từng yếu tố chi phí ban
đầu của chúng theo từng công trình, hạng mục công trình, theo từng nơi phát
sinh chi phí và từng nơi chịu chi phí.
Phân loại chi phí một cách hợp lý, khoa học không những có ý nghĩa
quan trọng đối với công tác kế toán chi phí sản xuất, mà còn là cơ sở của kế
hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn công ty, thúc đẩy
việc tiết kiệm hợp lý chi phí sản xuất, phát huy hơn nữa vai trò của kế toán
đối với sự phát triển của công ty.
Tùy theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin mà chi phí sản
xuất được phân loại theo các cách sau :
2.1 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi
phí
Theo cách phân loại này, người ta dựa vào nội dung kinh tế và hình
thái nguyên thuỷ để sắp xếp chúng vào mục đích và đặc điểm chịu phí. Các
3
yếu tố chi phí sản xuất được qui định thống nhất riêng cho mỗi ngành kinh tế,
và được chia thành các yếu tố chi phí cơ bản sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu bao gồm toàn bộ chi phí về các loại
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế...
mà công ty đã dùng để sản xuất trong kỳ (loại trừ giá trị dùng không
hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).
- Chi phí nhân công bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, các khoản
trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) của cán bộ công nhân viên
tham gia hoạt động sản xuất trong công ty.
- Chi phí khấu hao TSCĐ phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích
trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm toàn bộ số tiền công ty phải bỏ
ra để chi trả cho khối lượng lao vụ, dịch vụ mua và thuê ngoài như
tiền điện, tiền nước.
- Chi phí khác bằng tiền là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài 4 yếu tố chi phí đã nêu trên.
Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
có tác dụng rất lớn trong quản lý chi phí sản xuất, nó cho biết kết cấu, tỷ trọng
của từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự
toán chi phí sản xuất, lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí ở bảng
thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu tham khảo để lập dự toán chi
phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu
cầu vốn lưu động cho kỳ sau.
2.2 Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Do vậy căn cứ vào mục
4
đích, công dụng của từng chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, toàn bộ
chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành :
- Chi phí chế tạo sẩn phẩm là toàn bộ chi phí liên quan đến việc quản
lý phục vụ sản xuất trong phạm vi các phân xưởng, tổ đội sản xuất
bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi
phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng là toàn bộ chi phí liên quan đến việc tiêu thụ, bán
sản phẩm hàng hoá. Các chi phí này phát sinh ngoài quá trình sản
xuất nên còn được gọi là chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp là toàn bộ chi phí phục vụ và quản lý
chung các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi
phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và những chi phí quản
lý khác.
- Chi phí hoạt động khác là toàn bộ chi phí phát sinh trong quá trình
tiến hành các hoạt động khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh
cơ bản của doanh nghiệp bao gồm chi phí hoạt động tài chính và chi
phí hoạt động bất thường.
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tập
trung vào 4 nội dung cụ thể của chi phí sản xuất. Trong công
ty xây lắp, nội dung cụ thể của từng chi phí đó như sau:
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: Là toàn bộ những chi phí đã
tính đến hiện trường xây lắp của các nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, vật
kết cấu, vật liệu luân chuyển (ván, khuôn, đà giáo...), bán thành phẩm cần
thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp. Chi phí vật liệu trực tiếp không bao gồm
chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất chung.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương cơ bản, các khoản
phụ cấp lương, lương phụ có tính chất ổn định của công nhân sản xuất trực
tiếp cần thiết cho việc hoàn thành sản phẩm xây lắp.
5
+ Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phục vụ cho quản lý sản
xuất kinh doanh phát sinh trong quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc
thực hiện các loại lao vụ, dịch vụ ở các tổ đội sản xuất. Các khoản trích
BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tổng số tiền lương phải trả cho toàn bộ công
nhân viên chức từng bộ phận, từng đội và toàn bộ tiền ăn ca của đội, bộ phận.
Do đặc thù là ngành xây dựng cơ bản nên ngoài các khoản mục chi phí
trên ở các công ty xây lắp còn có thêm khoản mục chi phí máy thi công.
(Theo quyết định số 1864-1998/BTC ngày 16/12/1998).
+ Chi phí máy thi công: Là các khoản chi phí cho việc sử dụng xe, máy
thi công để hoàn thành sản phẩm xây lắp, gồm chi phí khấu hao máy thi công,
chi phí thường xuyên máy thi công, động lực, tiền lương của công nhân điều
khiển máy và chi phí khác của máy thi công.
Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục
vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho
công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá
thành, làm tài liệu tham khảo để thành lập định mức chi phí sản xuất và lập kế
hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
Ngoài 2 cách phân loại chủ yếu trên, chi phí sản xuất còn được phân
loại theo những tiêu thức khác như :
+ Phân loại chi phí theo mối quan hệ với qui mô sản xuất, khối lượng
sản phẩm của công việc trong kỳ. Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất
được chia làm 2 loại: chi phí khả biến và chi phí bất biến .
- Chi phí khả biến là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với
khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn như chi phí nguyên vật
liệu, chi phí nhân công trực tiếp. Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi
nếu tính trên một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.
- Chi phí bất biến là những chi phí không đổi về tổng số so với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao
TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh. Các chi phí
này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng
sản phẩm thay đổi.
6
Cách phân loại này có tác dụng lớn đối với các nhà quản trị, phân tích
điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá
thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
+ Nếu phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản
xuất và mối quan hệ với đối tượng chứa chi phí thì chi phí sản xuất bao gồm
chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Cách phân loại này có ý nghĩa đối với
vệc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối
tượng một cách đúng đắn, hợp lý.
+ Khi phân loại chi phí theo nội dung cấu thành, chi phí sản xuất được
chia làm 2 loại: chi phí đơn nhất và chi phí tổng hợp. ý nghĩa của cách phân
loại này là giúp cho việc nhận thức vị trí của từng loại chi phí trong việc hình
thành sản phẩm để tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất thích hợp
với từng loại.
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng phục vụ cho từng
yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng chúng
luôn bổ xung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả nhất về toàn bộ chi phí sản
xuất trong phạm vi doanh nghiệp ở từng thời kỳ nhất định .
III. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ PHÂN LOẠI GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM
1 Giá thành sản phẩm xây lắp
Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững
trong cạnh tranh và muốn có điều kiện để phát triển sản xuất đều phải quan
tâm tới giá thành và chất lượng sản phẩm dể làm sao cho chất lượng sản phẩm
tốt, giá thành sản phẩm hạ. Trong các công ty xây lắp, giá thành dự toán chính
là giá tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, bằng mọi cách công ty phải cố gắng hạ giá
thành thực tế để tăng lợi nhuận.
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí và
lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng
xây lắp đã hoàn thành. Sản phẩm xây lắp có thể là kết cấu công việc hoặc giai
7
đoạn công việc có thiết kế và tính dự toán riêng, có thể là công trình, hạng
mục công trình hoàn thành toàn bộ. Giá thành công trình, hạng mục công
trình hoàn thành toàn bộ là giá thành sản phẩm cuối cùng của sản xuất xây
lắp.
Giá thành của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất
lượng hoạt động sản xuất, kết quả sử dụng vật tư, tài sản, tiền vốn trong quá
trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã
thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất khối lượng sản phẩm nhiều nhất
với chi phí sản xuất tiết kiệm và giá thành hạ.
2. Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Cũng như chi phí sản xuất, để nâng cao chất lượng quản lý giá thành và
tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, nhanh chóng,
kịp thời, trong lý luận cũng như trong thực tiễn, người ta phân loại giá thành
theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tùy thuộc vào yêu cầu quản lý và tiêu thức sử
dụng, ta có các loại giá thành tương ứng. Nếu dựa vào thời điểm và nguồn số
liệu tính giá thành, chỉ tiêu giá thành trong xây lắp được phân ra thành 3 loại.
2.1. Giá thành dự toán (giá thành định mức)
Giá thành dự toán là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành khối
lượng xây lắp công trình. Nó được xác định trên cơ sở định mức qui định của
nhà nước với khung giá được qui định áp dụng cho từng vùng lãnh thổ. Giá
thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lãi định mức.
Giá thành dự toán = Giá tri dự toán - Phần lãi định mức
Giá trị dự toán: là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các kết cấu
kiến trúc, lắp đặt máy móc thiết bị... bao gồm chi phí trực tiếp, chi phí chung
và lãi định mức. Lãi định mức là chỉ tiêu Nhà nước qui định để tích luỹ cho
xã hội do ngành xây dựng sáng tạo ra.
II.2. Giá thành kế hoạch
Giá thành kế hoạch là loại giá thành được xuất phát từ những điều kiện
cụ thể ở một công ty xây lắp nhất định trên cơ sở các biện pháp thi công, các
8
định mức và đơn giá áp dụng trong nội bộ doanh nghiệp. Giá thành kế hoạch
được lập trước khi tiến hành thi công.
Giá thành kế hoạch = Giá thành dự toán - Mức hạ giá thành dự toán
Giá thành kế hoạch cho phép ta thấy được chính xác những chi phí phát
sinh trong giai đoạn kế hoạch cũng như hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật
làm hạ giá thành dự toán. Giá thành kế hoạch được xem là mục tiêu phấn đấu
của toàn doanh nghiệp để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,
tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là gốc so sánh với thực tế
để tính mức độ hoành thành giá thành kế hoạch, tìm nguyên nhân chủ quan,
khách quan tác động đến việc thực hiện giá thành và kế hoạch hạ giá thành.
II.3. Giá thành thực tế
Giá thành thực tế phản ánh toàn bộ các chi phhí thực tế để hoàn thành
và bàn giao khối lượng xây lắp mà công ty đã nhận thầu. Giá thành này bao
gồm tất cả các chi phí theo định mức, vượt định mức như: các khoản thiệt hại
trong sản xuất, các khoản bội chi lãng phí về vật tư, nhân công, tiền vốn trong
quá trình sản xuất và quản lý của doanh nghiệp được phép tính vào giá thành.
Giá thành thực tế được xác định theo số liệu kế toán tập hợp được. Giá
thành thực tế phải nhỏ hơn giá thành kế hoạch để có mức tiết kiệm hạ giá
thành kế hoạch công trình, hạng mục công trình.
Do thi công xây lắp là quá trình sản xuất có chu kỳ dài, khối lượng sản
phẩm xây lắp lớn nên giá thành thực tế xây lắp công trình được nghiên cứu
theo hai chỉ tiêu :
+ Giá thành sản xuất là giá thành của sản phẩm xây lắp, nó chỉ bao gồm
những chi phí phát sinh liên quan đến việc xây dựng hay lắp đặt sản phẩm xây
lắp (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản
xuất chung, chi phí sử dụng máy thi công).
+ Giá thành toàn bộ là giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp bao gồm giá
thành sản xuất sản phẩm xây lắp cộng với các chi phí bán hàng, chi phí quản
lý doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm xây lắp.
9
IV. ĐỐI TƯỢNG TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ ĐỐI
TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Xác định tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của kế
toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình sản xuất, yêu cầu quản lý
của doanh nghiệp thì mới tổ chức đúng công tác tập hợp chi phí sản xuất từ
khâu hạch toán ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản, tiểu khoản, sổ
chi tiết theo đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các loại chi phí được tập hợp
trong một giới hạn nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi
phí và tính giá thành sản phẩm.
Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có thể tiến hành ở nhiều nơi,
nhiều phân xưởng, nhiều tổ đội và ở từng địa điểm khác nhau lại có thể sản
xuất và chế biến nhiều sản phẩm khác nhau, công việc lao vụ khác nhau. Do
đó, chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng phát sinh ở nhiều địa điểm, nhiều
bộ phận khác nhau. Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
là khâu đầu tiên cần thiết của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Thực
chất của việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định nơi phát sinh chi
phí và đối tượng chịu chi phí.
Do đặc diểm của ngành XDCB là sản phẩm đơn chiếc, thời gian xây
dựng lâu dài, mỗi công trình, hạng mục công trình đều có dự toán thiết kế
riêng, có đặc điểm riêng. Vì vậy, đối tượng tập hợp chi phí thường là các hạng
mục công trình xây lắp, các giai đoạn công việc của hạng mục công trình hoặc
nhóm hạng mục công trình cùng loại theo đơn đặt hàng. Trong công ty xây
lắp, căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí, vào điều kiện bảo quản vật tư lao
động, trình độ quản lý và hạch toán của đơn vị để áp dụng phương pháp hạch
toán chi phí thích hợp .
2.Đối tượng tính giá thành
10