Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

CƠ SỎ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TSCĐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG TSCĐ TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.22 KB, 30 trang )

CƠ SỎ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TSCĐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ
DỤNG TSCĐ TRONG DOANH NGHIỆP
-------------------------------
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TSCĐ TRONG
DOANH NGHIỆP.
1. Khái quát chung về TSCĐ.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có ba
yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động. TSCĐ là tư liệu lao động, là một
trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Song không phải tất cả các tư liệu lao động
trong doanh nghiệp đều là TSCĐ mà nó còn phải thoả mãn một số điều kiện theo qui định.
1.1. Khái niệm về TSCĐ.
Theo quyết định số 166/ 1999/ QĐ - BTC ngày 30/ 12/ 1999 và quyết định số 149/
2001/ QĐ - BTC ngày 31/ 12/ 2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
 Tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình:
TSCĐ hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm giữ để sử
dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình.
Các tài sản được ghi nhận là TSCĐ hữu hình phải thoả mãn đồng thời tất cả bốn tiêu chuẩn
ghi nhận sau:
+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
+ Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
+ Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;
+ Có đủ tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn ghi nhận hiện hành.
Khi xác định các bộ phận cấu thành TSCĐ hữu hình, doanh nghiệp phải áp dụng các
tiêu chuẩn TSCĐ hữu hình cho từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp có thể hợp nhất các
bộ phận riêng biệt không chủ yếu như khuôn đúc, công cụ, khuôn dập và áp dụng các tiêu
chuẩn TSCĐ hữu hình vào tổng giá trị đó. Các phụ tùng và thiết bị phụ trợ thường được
coi là tài sản lưu động và được hạch toán vào chi phí khi sử dụng. Các phụ tùng chủ yếu và
các thiết bị bảo trì được xác định là TSCĐ hữu hình khi doanh nghiệp ước tính thời gian sử
dụng chúng nhiều hơn một năm. Nếu phụ tùng và thiết bị bảo trì chỉ được dùng gắn liền
với TSCĐ hữu hình và việc sử dụng chúng là không thường xuyên thì chúng được hạch
toán là TSCĐ hữu hình riêng biệt và được khấu hao trong thời gian ít hơn thời gian sử


dụng hữu ích của TSCĐ hữu hình liên quan.
 Tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình:
TSCĐ vô hình là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do
doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho đối
tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình. Một tài sản vô hình được
ghi nhận là TSCĐ vô hình phải thoả mãn đồng thời: Định nghĩa về TSCĐ vô hình và thoả
mãn cả bốn điều kiện trên mà không hình thành TSCĐ hữu hình.
Qua những phân tích trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp:
“TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Khi tham gia vào
quá trình sản xuất – kinh doanh, TSCĐ bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch
dần từng phần vào chi phí kinh doanh”.
Nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải tăng cường công tác quản lý TSCĐ
nhằm đạt hiệu qủa cao. Đồng thời nhờ việc quản lý tốt TSCĐ, doanh nghiệp sẽ phát triển
sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm , tăng vòng quay của vốn và đổi
mới trang thiết bị, đáp ứng yêu cầu ngày cao của thị trường. Muốn làm tốt thì quản lý
TSCĐ phải xuất phát từ đặc điểm của TSCĐ.
1.2. Đặc điểm của TSCĐ.
Một đặc điểm riêng có của TSCĐ là trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ vẫn
giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng giá trị của nó giảm dần sau mỗi chu kỳ sản
xuất kinh doanh. Vì vậy, trong công tác quản lý TSCĐ các doanh nghiệp cần theo dõi cả về
mặt hịên vật và mặt giá trị của TSCĐ.
Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia hoàn toàn và nhiều lần trong sản xuất, nhưng giá trị
sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn ra khỏi sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
 Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật TSCĐ.
 Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà TSCĐ sản xuất ra và bộ phận này
sẽ chuyển hoá thành tiền khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng
giá trị ban đầu của TSCĐ thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy, khi tham gia vào quá
trình sản xuất nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó

cũng giảm đi. Phần giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra
được gọi là khấu hao.
Bên cạnh đặc điểm nêu trên, một tư liệu lao động chỉ được coi là TSCĐ khi nó là sản
phẩm của lao động. Do đó, TSCĐ không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị. Nói cách
khác, TSCĐ phải là một hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác. Thông qua mua
bán trao đổi nó có thể được chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang
chủ thể khác trên thị trường tư liệu sản xuất.
2. Phân loại và đánh giá TSCĐ.
2.1. Phân loại TSCĐ.
TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều loại, tính năng công dụng khác nhau, sử dụng vào
nhiều lĩnh vực đầu tư, kinh doanh khác nhau. Để thuận tiện cho công tác quản lý và hạch
toán TSCĐ, cần phân loại TSCĐ theo những tiêu thức phù hợp
2.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái vật chất – gồm 2 loại:
 TSCĐ hữu hình: là TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể, thuộc loại này gồm:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: Bao gồm nhà làm việc, nhà kho, nhà ở, xưởng sản xuất, cửa
hàng, ga để xe, bể chứa, cầu cống, đường xá.........
- Máy móc thiết bị: gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh doanh.....
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: ôtô, máy kéo, hệ thống đường ống dẫn
nước, dẫn hơi, hệ thống dây dẫn điện ...thuộc tài sản của doanh nghiệp.
- Thiết bị dụng cụ quản lí: bao gồm thiết bị dụng cụ sử dụng trong quản lý kinh
doanh, quản lý hành chính, dụng cụ đo lường, thí nghiệm...
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm.
- TSCĐ hữu hình khác như: gồm các loại chưa được xếp vào các loại TSCĐ kể trên
(sách chuyên môn kỹ thuật, tác phẩm nghệ thuật....).
 TSCĐ vô hình: là các TSCĐ không có hình thái vật chất nhưng có giá trị kinh tế
lớn, thuộc về TSCĐ vô hình gồm có:
- Quyền sử dụng đất có thời hạn;
- Nhãn hiệu hàng hoá;
- Quyền phát hành;
- Phần mềm máy vi tính;

- Giấy phép và giấy phép nhượng quyền;
- Bản quyền, bằng sáng chế;
- Công thức và cách thức pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu;
- TSCĐ vô hình đang triển khai.
Phương pháp phân loại TSCĐ theo hình thái vật chất sẽ giúp cho người quản lí có
một nhãn quan tổng quát về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Đây là căn cứ quan trọng để
xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với
thực tế. Mặt khác, nhà quản lý có thể dùng phương pháp phân loại này để đề ra biện pháp
quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao chính xác hợp lý.
2.1.2. Theo quyền sở hữu, TSCĐ được chia thành 2 loại:
- TSCĐ tự có là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ nguồn vốn
ngân sách Nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ
của doanh nghiệp và các TSCĐ đươc tặng biếu...
- TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp
đồng đã ký kết. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng thuê mà TSCĐ đi thuê chia thành:
+ TSCĐ thuê tài chính: là các TSCĐ đi thuê nhưng doanh nghiệp có quyền sử dụng
và kiểm soát theo đúng các điều khoản của hợp đồng thuê, TSCĐ thuê tài chính coi
như TSCĐ của doanh nghiệp và phản ánh trên bảng cân đối kế toán của đơn vị.
+ TSCĐ thuê hoạt động: là các TSCĐ thuê không thoả mãn bất cứ điều khoản nào
của hợp đồng thuê TSCĐ tài chính. Bên đi thuê chỉ được quản lý, sử dụng trong thời
hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng.
Phân loại TSCĐ thuê quyền sở hữu giúp cho việc quản lý và tổ chức hạch toán TSCĐ
được chặt chẽ, chính xác, và sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao nhất.
2.1.3. Theo nguồn hình thành, TSCĐ được phân thành:
+ TSCĐ được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước cấp.
+ TSCĐ được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn vay.
+ TSCĐ được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn tự bổ sung.
+ TSCĐ nhận liên doanh, liên kết với đơn vị khác.
Cách phân loại này giúp cho người sử dụng phân biệt được quyền - nghĩa vụ của đơn
vị trong quản lý TSCĐ, giúp ra quyết định sử dụng nguồn vốn khấu hao một cách hợp lý.

2.1.4. Theo công dụng và tình hình sử dụng, TSCĐ được phân thành:
TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh: Đây là TSCĐ đang thực tế sử dụng trong các
hoạt động sản xuất - kinh doanh của đơn vị. Những TSCĐ này bắt buộc phải trích khấu
hao tính vào chi phí sản xuất - kinh doanh.
TSCĐ hành chính sự nghiệp: là TSCĐ của các đơn vị hành chính sự nghiệp (đoàn thể
quần chúng, tổ chức y tế, văn hoá....).
TSCĐ phúc lợi: là những TSCĐ của đơn vị dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng
như: nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ, xe ca phúc lợi...
TSCĐ chờ sử lí: gồm những TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng vì thừa so với
nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới quy trình công nghệ, bị hư hỏng
chờ thanh lý, TSCĐ tranh chấp chờ giải quyết. Những TSCĐ này cần xử lý nhanh chóng
để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới TSCĐ.
Dựa vào cách phân loại này, có thể tiến hành phân tích hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp thông qua việc phân tích kết cấu TSCĐ ở doanh nghiệp. Kết quả phân tích thể hiện:
kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp có hợp lý không? Phương hướng đầu tư và trọng điểm
quản lý TSCĐ của doanh nghiệp?
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh
nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một
loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loại TSCĐ của doanh nghiệp trong một thời
kỳ nhất định. Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp biến động khác nhau giữa các kỳ khác nhau
do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu hút vốn đầu tư,
khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản
xuất. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu
TSCĐ là một việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
Phân loại TSCĐ góp phần quan trọng trong quản lý tài sản cũng như việc tổ chức
hạch toán TSCĐ được nhanh chóng, chính xác, từ đó cung cấp thông tin kịp thời cho nhà
quản lý nhằm cải tiến, thay đổi TSCĐ theo kịp sự phát triển của công nghệ. Tuỳ quy mô,
cách thức tổ chức quản lý mỗi doanh nghiệp có thể phân loại chi tiết hơn để tiện quản lý.
2.2. Đánh giá TSCĐ.
Đánh giá TSCĐ là biểu hiện giá trị TSCĐ bằng tiền theo những nguyên tắc nhất định.

Đánh giá TSCĐ là điều kiện cần thiết để hạch toán TSCĐ, trích khấu hao va phân tích hiệu
quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ
trong qua trình sử dụng TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại
2.2.1. Xác định nguyên giá:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, nguyên giá TSCĐ được xác định như sau:
 Xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình.
 TSCĐ hữu hình mua sắm:
Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua sắm bao gồm giá mua (trừ (-) các khoản được chiết
khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được
hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng, như: Chi phí chuẩn bị mặt bằng; Chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu; Chi phí lắp
đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về phế phẩm, phế liệu do chạy thử; Chi phí chuyên
gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác.
Đối với TSCĐ hữu hình hình thành do đầu tư xây dựng theo phương thức giao thầu:
nguyên giá là giá quyết toán công trình đầu tư xây dựng, các chi phí liên quan trực tiếp
khác và lệ phí trước bạ (nếu có ).
Trường hợp mua TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng
đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải xác định riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ vô hình.
Trường hợp TSCĐ hữu hình mua sắm được thanh toán theo phương thức trả chậm:
nguyên giá TSCĐ đó được phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua. Khoản
chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả ngay được hạch toán vào chi
phí theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu
hình (vốn hoá ) theo quy định của chuẩn mực kế toán “Chi phí đi vay”.
 TSCĐ hữu hình tự xây hoặc tự chế.
Nguyên giá TSCĐ hữu hình tự xây hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây
hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt chạy thử. Trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do
mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó
cộng (+) các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá
của các tài sản đó. Các chi phí không hợp lí, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động

hoặc các khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây
dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
 TSCĐ hữu hình thuê tài chính.
Trường hợp đi thuê TSCĐ hữu hình theo hình thức thuê tài chính, nguyên giá TSCĐ
được xác định theo qui định của chuẩn mực kế toán “thuê tài sản”.
 TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi.
Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình
không tương tự hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lí của TSCĐ hữu hình
nhận về, hoặc giá trị hợp lí của tài sản đem đi trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền
hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu về.
Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình
tương tự hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự.
Nguyên giá TSCĐ nhận về được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ đem trao đổi và không
có bất kỳ khoản lãi - lỗ nào được ghi nhận trong quá trình trao đổi.
 TSCĐ hữu hình tăng từ các nguồn khác.
Nguyên giá TSCĐ hữu hình đươc tài trợ, được tặng biếu, được ghi nhận ban đầu theo
giá trị hợp lí ban đầu. Trường hợp không ghi nhận theo giá trị hợp lí ban đầu thì doanh
nghiệp ghi nhận theo giá trị danh nghĩa cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc
đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
 Xác định nguyên giá TSCĐ vô hình.
 Mua TSCĐ vô hình riêng biệt
Nguyên giá TSCĐ vô hình mua riêng biệt, gồm giá mua (trừ (-)các khoản được chiết
khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không gồm các khoản thuế được hoàn
lại) và các khoản chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
Trường hợp TSCĐ vô hình mua sắm được thanh toán theo phương thức trả chậm,
nguyên giá của TSCĐ vô hình được phản ảnh theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua.
Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả ngay được hạch toán
vào chi phí sản xuất, kinh doanh theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính
vào TSCĐ vô hình (vốn hoá) theo qui định của chuẩn mực kế toán” chi phí đi vay”.
Nếu TSCĐ vô hình hình thành từ việc trao đổi thanh toán bằng chứng từ liên quan

đến quyền sở hữu vốn của đơn vị, nguyên giá TSCĐ vô hình là giá trị hợp lí của các chứng
từ được phát hành liên quan đến quyền sở hữu vốn.
 Mua TSCĐ vô hình từ việc sáp nhập doanh nghiệp.
Nguyên giá TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp có tính
chất mua lại là giá trị hợp lí của TSCĐ đó vào ngày mua ( ngày sáp nhập doanh nghiệp ).
Giá trị hợp lí có thể là:
- Giá niêm yết tại thị trường hoạt động;
- Giá của nghiệp vụ mua bán TSCĐ vô hình tương tự.
Nếu không có thị trường hoạt động cho tài sản thì nguyên giá của TSCĐ vô hình
được xác định bằng khoản tiền mà doanh nghiệp lẽ ra phải trả vào ngày mua tài sản trong
điều kiện nghiệp vụ đó được thực hiện trên cơ sở khách quan dựa trên các thông tin tin cậy
hiện có. Trường hợp này doanh nghiệp cần cân nhắc kết quả của các nghiệp vụ đó trong
mối quan hệ tương quan với các tài sản tương tự.
Khi không có thị trường hoạt động cho TSCĐ vô hình được mua thông qua việc sáp
nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại, thì nguyên giá TSCĐ vô hình là giá trị mà tại đó
không tạo ra lợi thế thương mại có giá trị âm phát sinh vào ngày sáp nhập doanh nghiệp.
 TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn.
Nguyên giá TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn khi được giao đất hoặc
số tiền khi được chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác, hoặc giá trị
quyền sử dụng đất nhận góp vốn liên doanh.
 TSCĐ vô hình được nhà nước cấp hoặc được tặng, biếu.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được nhà nước cấp, tặng, biếu, được xác định theo giá trị
hợp lí ban đầu cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng
theo dự tính.
 TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi.
Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình không
tương tự hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lí của TSCĐ vô hình nhận về
hoặc bằng giá trị hợp lí của tài sản đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc
tương đương tiền trả thêm hoặc thu về.
Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình tương

tự, hoặc có thể hình thành do nhượng bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự
(tài sản tương tự là tài sản có công dụng tương tự, trong cùng lĩnh vức kinh doanh và có giá
trị tương đương). Trong cả hai trường hợp không có bất kỳ khoản lãi hay lỗ nào được ghi
nhận trong quá trình trao đổi. Nguyên giá TSCĐ vô hình nhận về được tính bằng giá trị
còn lại của TSCĐ vô hình đem trao đổi.
 TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp gồm tất cả các chi phí
liên quan trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lí và nhất quán từ các khâu thiết
kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp bao gồm :
+ Chi phí nguyên - vật liệu hoặc dịch vụ đã sử dụng trong việc tạo ra TSCĐ vô hình;
+ Tiền lương, tiền công và các chi phí khác liên quan đến việc thuê nhân viên trực
tiếp tham gia vào việc tạo ra tài sản đó.
+ Các chi phí khác liên quan trực tiếp đến việc tạo ra tài sản, như chi phí đăng ký
quyền pháp lý, khấu hao bằng sáng chế phát minh và giấy phép được sử dụng để tạo
ra tài sản đó;
+ Chi phí sản xuất chung phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán vào tài sản (ví
dụ: phân bổ khấu hao nhà xưởng, thiết bị, phí bảo hiểm..).
2.2.2. Xác định giá trị hao mòn của TSCĐ.
Khấu hao: là sự phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của tài sản đó
vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ, trong suốt thời gian sử dụng hữu ích cả tài sản.
Số khấu hao luỹ kế của TSCĐ: là tổng số khấu hao đã trích vào chi phí kinh doanh
qua các thời kỳ kinh doanh của TSCĐ tính đến thời điểm xác định.
Giá trị hao mòn TSCĐ là khoản chi phí được trích định kỳ ( hàng tháng, hàng quý)
vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ để hình thành một nguồn vốn nhằm tái đầu tư lại
TSCĐ do quá trình sử dụng nó bị hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình.
Khi xác định được nguyên giá và giá trị hao mòn của TSCĐ, kế toán sẽ xác định
được giá trị còn lại của TSCĐ.
2.2.3. Giá trị còn lại của TSCĐ.
Giá trị còn lại của TSCĐ là số vốn đầu tư hiện còn trong tài sản ở một thời điểm nhất

định, nó là căn cứ để lập kế hoạch tăng cường đổi mới tài sản. Được xác định:
Giá trị còn lại trên sổ
kế toán của TSCĐ
=
Nguyên giá
TSCĐ
-
Số khấu hao luỹ
kế của TSCĐ
Cần phân biệt giữa giá trị còn lại của TSCĐ trên sổ sách và giá trị còn lại thực của
TSCĐ. Giá trị còn lại thực của TSCĐ là giá trị thị trường của tài sản vào thời điểm đánh
giá. Và được ghi nhận theo công thức:
NG
1
=
NG
0
* H
1
* H
0
Với: NG
1
– Nguyên giá đánh giá lại
NG
0
– Nguyên giá ban đầu
H
1
– Hệ số trượt giá

H
0
– Hệ số hao mòn vô hình
Hệ số trượt giá bình quân sẽ do cơ quan tài chính của Bộ chủ quản xác định cuối mỗi
năm, từ đó có thể xác định được giá trị còn lại của TSCĐ.
G
CL
= NG
1
* ( 1 - M
KH
/ NG
0
)
Với: G
CL
– Giá trị còn lại của TSCĐ tương ứng với nguyên giá đánh giá lại.
M
KH
– Tổng khấu hao TSCĐ cho tới thời điểm đánh giá lại.
Như vậy bên cạnh việc theo dõi giá trị còn lại trên sổ sách, quản lý còn cần phải theo
dõi giá trị còn lại thực của TSCĐ để có thể đưa ra các quyết định thanh lý nâng cấp hoặc
đầu tư mới TSCĐ. Tuy nhiên, giá trị còn lại cũng có nhược điểm ở chỗ không phản ánh
được phần vốn mà ta thu hồi được.
Qua phân tích trên, ta thấy mỗi loại”giá trị” có tác dụng phản ánh nhất định nhưng kèm
theo còn có những mặt hạn chế. Vì vậy, kế toán TSCĐ phải theo dõi cả ba loại: giá trị ban
đầu, giá trị hao mòn, giá trị còn lại và định kỳ đánh giá lại TSCĐ không chỉ là cần thiết mà
còn là bắt buộc phục vụ cho yêu cầu quản lý TSCĐ: Để tính trích khấu hao chính xác, bảo
đảm hoàn lại đầy đủ vốn đầu tư và phân tích được hiệu quả sử dụng vốn cố định trong
doanh nghiệp. Có thể nói việc đánh giá lại TSCĐ là bước khởi đầu quan trọng trong công

tác hạch toán TSCĐ ở doanh nghiệp.
3. Yêu cầu, nhiệm vụ hạch toán kế toán TSCĐ.
3.1. Yêu cầu quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp.
Quản lý là một qua trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ
sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Yêu cầu quản lý TSCĐ đó là:
 Phải quản lý TSCĐ như là một yếu tố cơ bản của sản xuất – kinh doanh, góp phần
tạo ra năng lự sản xuất đơn vị. Do đó kế toán phải cung cấp thông tin về số lượng TSCĐ
hiện có tại đơn vị, tình hình biến động tăng, giảm của TSCĐ trong đơn vị.
 Phải quản lý TSCĐ như là một bộ phận vốn cơ bản, đầu tư dài hạn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, có tốc độ chu chuyển chậm tính bằng nhiều năm tài chính, có độ rủi
ro lớn. Vì vậy, kế toán phải cung cấp những thông tin về các loại vốn đã đầu tư cho tài sản
và chi tiết vốn đầu tư cho chủ sở hữu phải biết được nhu cầu vốn cần thiết để đầu tư mới
cũng như để sửa chữa TSCĐ.
 Phải quản lý phần giá trị TSCĐ đã sử dụng như là một bộ phận chi phí của sản
xuất kinh doanh. Do đó, yêu cầu kế toán phải tính đúng, tính đủ mức khấu hao trích tuỳ
từng kỳ kinh doanh theo hai mục đích: Thu hồi được vốn đầu tư hợp lý và đảm bảo khả
năng bù đắp được chi phí.
 Quản lý TSCĐ còn là để bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp không những đảm bảo
cho TSCĐ “sống ” mà là “sống có ích” cho doanh nghiệp, đảm bảo khả năng tái sản xuất
và có kế hoạch đầu tư mới khi cần thiết.
3.2. Nhiệm vụ tổ chức hạch toán kế toán TSCĐ.
TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất, là đều kiện quan trọng để tăng năng
suất lao động và phát triển nền kinh tế quốc dân nên cần sự tăng thêm và đổi mới không
ngừng. Điều đó có tác dụng quyết định đến yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lí và sử
dụng TSCĐ. Mỗi ngành, mỗi địa phương cũng như từng doanh nghiệp phải đề cao trách
nhiệm làm chủ các nguồn vốn, bảo tồn và bảo vệ an toàn triệt để, hiệu quả cao mọi TSCĐ
hiện có nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và giữ vững được thị trường, đủ
sức để cạnh tranh với doanh nghiệp khác. Hơn nữa, kế toán TSCĐ rất phức tạp vì các
nghiệp vụ về TSCĐ rất nhiều và thường có qui mô lớn, thời gian phát sinh dài như: mua

sắm, xây dựng, khấu hao, sửa chữa, thanh lý...Thêm vào đó, yêu cầu về quản lý TSCĐ rất
cao. Để đảm bảo ghi chép kịp thời, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và cung cấp
những thông tin hữu hiệu nhất cho quản lý thì cần phải tổ chức hạch toán TSCĐ một cách
khoa học, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất của kế toán. Có
thể nói tổ chức hạch toán TSCĐ là rất cần thiết. Xuất phát từ đặc điểm , vị trí và vai trò của
TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán TSCĐ phải đảm bảo thực hiện :
 Ghi chép, phản ánh tổng hợp chính xác kịp thời số lượng, giá trị TSCĐ hiện có,
tình hình tăng giảm và hiện trạng TSCĐ trong phạm vi toàn đơn vị, cũng như tại từng bộ
phận sử dụng TSCĐ, tạo điều kiện cung cấp thông tin để kiểm tra, giám sát thường xuyên
việc giữ gìn bảo quản, bảo dưỡng TSCĐ và kế hoạch đầu tư đổi mới TSCĐ.
 Tính toán và phân bổ chính xác mức khấu hao TSCĐ và chi phí sản xuất kinh
doanh theo mức độ hao mòn của tài sản và chế độ quy định.
 Tham gia lập kế hoạch sửa chữa và dự toán chi phí sửa chữa TSCĐ, giám sát việc
sửa chữa TSCĐ về chi phí kết quả của công việc sửa chữa.
 Tính toán kịp thời, chính xác tình hình xây dựng trang bị thêm, đổi mới nâng cấp,
tháo dỡ bớt làm tăng giảm nguyên giá TSCĐ cũng như tình hình quản lý, nhượng bán.
 Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị, các bộ phận phụ thuộc trong doanh nghiệp thực
hiện đầy đủ chế độ ghi chép ban đầu về TSCĐ, mở các sổ, thẻ kế toán cần thiết và hạch
toán TSCĐ đúng như chế độ qui định.
Thủ trưởngKế toán trưởng Hội đồng(ban) Kế toán TSCĐ
Ra quyết định về TSCĐ
Giao nhận TSCĐ (chứng từ TSCĐ )
Lập thẻ, huỷ thẻ, bảng tính khấu hao, ghi sổ kế toán
Nghiệp vụ TSCĐ Lưu hồ sơ kế toán
 Tham gia kiểm tra đánh giá lại TSCĐ theo qui định của nhà nước và yêu cầu bảo
quản vốn, tiến hành phân tích tình hình trang thiết bị, huy động bảo quản, sử dụng TSCĐ
tại đơn vị.
II. TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TSCĐ TRONG DOANH NGHIỆP
1. Hạch toán chi tiết TSCĐ.
1.1. Tổ chức chứng từ kế toán TSCĐ.

Chứng từ kế toán là cơ sở để ghi sổ kế toán, lập báo cáo kế toán, đồng thời, chứng từ
giúp các nhà quản lý kiểm tra, kiểm soát các biến động tài sản. Theo hệ thống kế toán hiện
hành, các chứng từ ban đầu về kế toán TSCĐ bao gồm:
Chứng từ mệnh lệnh: là những chứng từ để chứng minh sự thay đổi TSCĐ trong đơn
vị. Bao gồm các quyết định đầu tư, các quyết định điều động tài sản, các quyết định về
thanh lý hoặc bán tài sản, quyết định về đánh giá hoặc kiểm kê tài sản.
Chứng từ thực hiện:
 Biên bản giao nhận TSCĐ ( mẫu 01 – TSCĐ/ BB).
 Biên bản thanh lý TSCĐ (mẫu số 03 – TSCĐ/ BB).
 Biên bản giao nhận sửa chữa lớn hoàn thành (mẫu 04 – TSCĐ/ HD).
 Biên bản đánh giá lại TSCĐ (mẫu 05 – TSCĐ/ HD).
 Thẻ TSCĐ ( mẫu 02 – TSCĐ ).
Ngoài các chứng từ chính trên còn thêm một số chứng từ khác tuỳ theo từng trường
hợp. Bên cạnh việc sử dụng chứng từ để chứng minh cho các nghiệp vụ phát sinh có liên
quan đến TSCĐ, quản lý TSCĐ còn phải dựa trên cơ sở các bộ hồ sơ gồm “hồ sơ kỹ thuật”
do bộ phận kỹ thuật lập, “Hồ sơ kế toán ” do bộ phận kế toán lập để quản lý nguyên giá, sử
dụng vào đâu và trích khấu hao như nào.
Qui trình tổ chức chứng từ kế toán TSCĐ.
(4)

(1) (2) (3)
(4)
1.2. Tổ chức hạch toán chi tiết TSCĐ.

×