Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI M2 BAN CƠ YẾU CHÍNH PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.75 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC
KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI M2 BAN CƠ YẾU CHÍNH PHỦ
I/ Khái niệm, bản chất, vai trò, nhiệm vụ của kế toán tiền lương.
1.1. Khái niệm, bản chất của tiền lương.
Quá trình sản xuất diễn ra đòi hỏi phải tiêu dùng liên tục các yếu tố tư liệu
sản xuất, lao động, đối tượng lao động một cách thường xuyên. Các yếu tố này
không phải là vô cùng, vô tận nên phải tái tạo lại. Đối với tư liệu lao động và
đối tượng lao động thì tái tạo lại có nghĩa là mua sắm cái mới nhưng với sức lao
động thì khác. Sức lao động gắn liềm với hoạt động sống của con người đó là
thể lực, trí lực của con người. Bởi vậy muốn tái tạo sức lao động cần phải thông
qua hoạt động sống của con người, con người tiêu dùng một lượng vật chất nhất
định, phần vật chất này do người sử dụng lao động trả cho người lao động dưới
hình thức hiện vật hay giá trị và được gọi là tiền lương.
Trong thời kỳ kinh tế tập trung, tiền lương được hưởng một cách thống nhất như
sau: “Về thực chất tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một phần thu nhập quốc
dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối có kế hoạch, cho
công nhân viên sao cho phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi
người đã công hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức
dựa theo nguyên tắc phân phối theo lao động.” Quan niệm này đã bác bỏ tiền
lươnglà giá trị sức lao động. Tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra một
sự công bằng trong phân phối quốc dân.
Khi hệ thống XHCN sụp đổ, để tồn tại nước ta đã phải tiến hành một cuộc
cải cách toàn diện đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng. Cơ chế thị trường buộc
chúng ta phải có thay đổi về cơ bản. Để có được một nhận thức đúng về tiền
lương, phù hợp với cơ chế quản lý mới, khía niệm về tiền lương mới phải đáp
ứng một số yêu cầu sau:
- Coi sức lao động là hàng hoá của thị trường yếu tố sản xuất.
- Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động, nghĩa là giá cả của hàng hoá sức
lao động theo quản lý cung cầu, giá cả trên thị trường lao động.
- Tiền lương là bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động, đồng thời là
một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của doanh


nhghiệp.
Với ý nghĩa đó, “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là
giá trị của yếu tố sức lao động mà người sử dụng (nhà nước, doanh nghiệp) Phải
trả cho người cung ứng sức lao động theo các nguyên tắc cung cầu, giá trị của
thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước”.
Như vậy, bản chất của tiền lương là giá cả sức lao động vì sức lao động
thực chất là một loại hàng háo đặc biệt. Chính vì sức lao động là hàng hoá mà
mà giá cả của nó chịu sự chi phối của các quy luậ kinh tế như quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Vậy: “Tiền lương là số tiền thù lao phải trả cho người lao động theo số
lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp để tái sản xuất kinh doanh.”
Bên cạnh khái niệm về tiền lương thì có một loạt các khái niêm cùng với nó như
tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế, tiền lương tối thiểu…
Tiền lương danh nghĩa: được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động.Số tìên này nhiều hay ít phụ thuộc trực tiếp vào năng suất lao
động, hiêụ quả làm việc của người lao động, trình độ và kinh nghiệm công tác
ngay trong quá trình làm việc.
Tiền lương thực tế: là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ
cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của
họ.
1.2.Vai trò của hạch toán tiền lương
Nguồn lao động là một trong những nguồn lực của sản xuất, một chính
sách tiền lương đúng đắn hợp lý sẽ là động lực to lớn nhằm phát huy sức mạnh
của nhân tố con người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Vì vậy,
công tác tiền lương phải gắn liền với kết quả lao động để nhằm thúc đẩy và
khuyến khích người lao động có tay nghề hoàn thành tốt mọi công việc được
giao. Tiền lương thích hợp sẽ làm hco người lao động gắn bó với doanh nghiệp
hơn, phát huy khả năng sáng tạo của họ trong việc cải tiến mẫu mã nâng cao chấ
lượng sản phẩm và hiệu quả công việc.
Tiền lương có tác dụng là đòn bẩy kinh tế htu hút mạnh mẽ nguồn nhân

lực, nâng cao trình độ nghiệp vụ, tăng năng suất lao động, gắn trách nhiệm cá
nhân với tập thể thông qua đó kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể
và lợi ích xã hội. Về phía người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản
thân mà lao động một cách tích cực với chất lương ngày càng cao.
Trong các doanh nghiệp sản xuất ngày nay, tổ chức công tác kế toán tiền
lương giúp cho công tác quản lý lao động của doanh nghiệp đi vào nề nếp, tạo
điều kiện trả công đúng đắn. Khi đó sẽ tiết kiệm chi phí về lao động sống, góp
phần hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và nâng cao đời
sống của người lao động trong doanh nghiệp.
1.3. Nhiệm vụ kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Ghi chép, phản ánh, tổng hợp chính xác, đầy đủ kịp thời về số lượng, chất
lượng, thời gian và kết quả lao động.
Tính toán các khoản tiền lương, các khoản trợ cấp phải trả cho người lao động.
Kiểm tra việc sử dụng lao động, việc chấp hành chính sách chế độ lao động tiền
lương, trợ cấp BHXH, BHYT và việc sử dụng quỹ tiền lương, quỹ BHXH, quỹ
BHYT.
Tính toán và phân bổ các khoản chi phí tiền lương, BHXH vào chi phí
sản xuất kinh doanh theo từng đối tượng. Hướng dẫn kiểm tra các bộ phận trong
doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động, tiền lương,
BHXH, BHYT, KPCĐ theo chế độ.
Lập bản báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương,
phân tích tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ BHXH, BHYT, đề
xuất biện pháp để khai thác hiệu quả tiềm năng lao động, tăng năng suất lao
động ngăn ngừa những vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ về
lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương.
2. Các hình thức trả lương, quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương.
2.1. Hình thức trả lương theo thời gian
Hình thức trả lương theo thời gian: là hình thức mà tiền lương được xác
định trên cơ sở thời gian làm việc và trình độ kỹ thuật của người lao động. Hình
thức này áp dụng cho từng công việc ở các bộ phận mà quá trình sản xuất chủ

yếu bằng máy móc, những công việc đòi hỏi sự chính xác cao, hoặc nhưng công
việc chưa xây dựng được định mức lao động hoặc không thể xác định được…
Hình thức trả lương theo thời gian được chia làm hai hình thức nhỏ là trả
lương theo thời gian giản đơn và trả lương theo thời gian có thưởng.
- Trả lương theo thời gian giản đơn: đây là số tiền trả cho người lao động căn cứ
vào bậc lương và thời gian làm việc thực tế. Hình thức trả lương này không xét
đến thái độ và kết quả lao động, chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho công việc
không thể định mức và tính toán chặt chẽ công việc.
Công thức tính: L
tt
= L
cb
ì T
Trong đó: L
tt
là tiền lương thực tế mà người lao động nhận được .
L
cb
là tiền lương cấp bậc tính theo thời gian thực tế.
T là thời gian làm việc thực tế.
*Có 4 loại hình thức trả lương theo thời gian giản đơn sau:
+ Lương tháng: là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng và
được áp dụng cho cán bộ công nhân viên làm việc ở bộ phận gián tiếp.
+ Lương tuần: là tiền lương trả cho 1 tuần làm việc được xác định trên cơ sở
tiền lương tháng nhân (x) với 12 tháng và chia (:) cho 52 tuần.
+ Lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc và được xác định bằng
cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Lương giờ: là lương tính theo từng giờ làm việc và bằng lương của một ngày
chia cho số giờ tiêu chuẩn của Luật Lao Động (không quá 8 giờ/ngày)
- Trả lương theo thời gian có thưởng: hình thức này dựa trên sự kết hợp giữa

tiền lương trả theo thời gian giản đơn kết hợp với các chế độ tiền lương. Hình
thức trả lương này khắc phục được những nhược điểm của hình thức trả lương
theo thời gian giản đơn, xét đến thời gian lao động, trình độ tay nghề. Bên cạnh
đó còn xét tới ý thức trách nhiệm, tinh thần sáng tạo trong lao động.
Hình thức lương này được tính như sau:
L
t
= L
tt
+ T
t
Trong đó:
L
t
là tiền lương theo thời gian có thưởng.
L
tt
là tiền lương thực tế mà người lao động nhận được.
T
t
là tiền thưởng.
2.2. Tiền lương theo sản phẩm:
Hình thức trả lương theo sản phảm là hình thức trả lương theo số lượng và
chất lượng công việc đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương phù hợp với
nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng lao động và chất lượng
lao động; khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động góp phần
tăng thêm sản phẩm cho xã hội một cách hợp lý. Trong việc trả lương theo sản
phẩm, vấn đề quan trọng là phải xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật, để
làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm,
từng công việc một cách hợp lý.

Hình thức trả lương theo sản phẩm còn tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể ở
từng doanh nghiệp mà vận dụng theo từng hình thức cụ thể dươí đây:
- Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Với hình thức này, tiền
lương phải trả cho người lao động được tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm
hoàn thành đúng qui cách , phẩm chất và đơn giá tiền lương sản phẩm đã qui
định không chịu một sự hạn chế nào. Đây là hình thức được các doanh nghiệp
sử dụng phổ biến để tính lương phải trả cho lao động trực tiếp.
- Trả lương theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng để trả lương cho lao động
gián tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm vụ vận chuyển vật
liệu, thành phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị...tuy lao động của họ không trực
tiếp tạo ra sản phẩm, nhưng lại gián tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động của
lao động trực tiếp, nên có thể căn cứ vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao
động gián tiếp phục vụ để tính lương sản phẩm cho lao động gián tiếp.
- Trả lương thêo sản phẩm có thưởng, có phạt.Theo hình thức này, ngoài
lương tính theo sản phẩm trực tiếp người lao động còn được thưởng trong sản
xuất như thưởng về chất lượng sản phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất lao động,
tiết kiệm vật tư. Trong trường hợp người lao động làm ra sản phẩm hỏng, lãng
phí vật tư không đảm bảo đủ ngày công qui định ... thì có thể phải chịu tiền phạt
và thu nhập của họ bằng tiền lương theo sản phẩm trực tiếp trừ đi các khoản tiền
phạt.
- Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Theo hình thức này ngoài tiền lương theo sản phẩm trực tiếp còn căn cứ
vào mức độ hoàn thành vượt định mức lao động để tính thêm một số tiền lương
theo tỷ lệ luỹ tiến. Tỷ lệ hoàn thành vượt định mức càng cao thì suất luỹ tiến
càng nhiều. Lương trả theo sản phẩm luỹ tiến có tác dụng kích thích mạnh mẽ
việc tăng nhanh năng suất lao động nên được áp dụng ở những khâu quan trọng
cần thiết để đẩy nhanh tốc độ sản xuất đảm bảo cho sản xuất cân đối, đồng bộ
hoặc áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp phả thực hiện gấp một đơn đặt
hàng nào đó. Sử dụng hình thức trả lương này sẽ làm tăng khoản mục chi phí
nhân công trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp., vì vậy trường hợp

không cần thiết thì không nên dùng hình thức trả lương này.
- Trả lương khoán khối lượng hoặc khoán từng việc. Hình thức này áp
dụng cho những công việc giản đơn, có tính chất đột xuất như bốc dỡ nguyên
vật liệu, thành phẩm, sửa chữa nhà cửa ...Trong trường hợp này, doanh nghiệp
xác định mức tiền lương trả theo từng công việc mà người lao động phải hoàn
thành.
- Hình thức khoán quỹ lương: Là một dạng đặc biệt của tiền lương trả theo
sản phẩm được sử dụng để trả lương cho những người làm việc tại các phòng
ban của doanh nghiệp. Theo hình thức này, căn cứ vào khối lượng công việc của
từng phòng ban doanh nghiệp tiến hành khoán quỹ lương. Quỹ lương thực tế
phụ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc được giao cho từng phòng ban.
Tiền lương thực tế của từng nhân viên ngoài việc phụ thuộc vào quỹ lương thực
tế của phòng ban mình còn phụ thuộc vào số lượng nhân viên của phòng ban đó.
Doanh nghiệp trả lương theo sản phẩm thì tổng quỹ lương được xác định theo
công thức :
= x


Đơn giá tiền
lương / 1000 DT
Doanh thu bán
h ng thuà ần
Tổng quỹ
lương
Hoặc
Đơn giá tiền
lương / 1000 DT
Tổng thu
nhập
Tổng quỹ

lương (theo
thu nhập)
x=


Trong đó chỉ tiêu kinh doanh không có quỹ lương cơ bản. Từ chỉ tiêu lấy thu
nhập doanh nghiệp chi trả tiền lương theo đơn giá đã được xác dịnh.
Việc xây dựng đơn giá tiền lương được căn cứ vào tiền lương cơ bản và kế
hoạch sản xuất kinh doanh nói chung và số lượng sản phẩm của từng doanh
nghiệp để xác định.Hiện nay trong các doanh nghiệp sản xuất thường trả lương
khoán theo sản phẩm hoàn thành hoặc đã tiêu thụ, còn các doanh nghiệp thương
mại và kinh doanh dịch vụ thường áp dụng trả lương theo doanh thu hoạc thu
nhập.
2.3. Quỹ tiền lương và các khoản trích theo lương.
a. Quỹ tiền lương.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương doanh nghiệp trả
cho tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng, bao gồm
các khoản:
- Tiền lương tính theo thời gian, tiền lương tính theo sản phẩm, tiền lương
khoán.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do nguyên
nhân khách quan, trong thời gian đựơc điều động đi công tác, làm nghĩa vụ theo
chế độ quy định, thời gian nghỉ phép, thời gian đi học.
- Các khoản phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ.
- Các khoản tiền lương có tính chất thường xuyên.
Ngoài ra trong quỹ lương kế hoạch còn được tính cả các khoản tiền chi trợ cấp
BHXH cho công nhân trong thời gian ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
Trong doanh nghiệp, để phục vụ cho công tác hạch toán, tiền lương có thể
đựơc chia thành hai loại: tiền lương lao động trực tiếp và tiền lương lao động
gián tiếp, trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.

+ Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian người
lao động thực hiện nhiệm vụ chính của họ, gồm tiền lương trả theo cấp bậc và
trả theo các khoản phụ cấp kèm theo như phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực.
+ Tiền lương phụ: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ thực
hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ và thời gian người lao động
nghỉ được hưởng lương theo quy định của chế độ như nghỉ phép, nghỉ tết, nghỉ
vì ngừng sản xuất.
Tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất gắn liền với quá trình sản
xuất ra sản phẩm, tiền lương phụ của công nhân trực tiếp sản xuất không gắn
Trong đó:
Giá trị vốn h ngà
Tổng doanh thu
thuần bán ra
-CPKD
Tổng thu
nhập
-=
với tong loại sản phẩm. Vì vậy, việc phân chia tiền lương chính và tiền lương
phụ có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phân tích kinh tế.
Để đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của
doanh nghiệp thì việc quản lý và chi tiêu quỹ tiền lương phải đặt trong mối quan
hệ phục vụ tốt cho việc thực hiệ kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và chi tiêu tiết kiệm, hợp lý quỹ tiền lương.
b. Các khoản trích theo lương
Ngoài tiền lương trả cho người lao động theo quy định hiện hành, doanh
nghiệp phải tính vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các
khoản trích theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH): được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy
định trên tổng số quỹ tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp (phụ cấp trách
nhiệm, phụ cấp khu vực) cuả công nhân viên thực tế phát sinh trong tháng. Theo

chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHXH là 22%. Trong đó 16% do đơn vị hoặc chủ
sở dụng lao động nộp, được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 6% còn lại do
người lao động nộp, được tính trừ vào thu nhập người lao động. Trong trường
hợp ốm đau, thai sản, mất sức, nghỉ hưu, tuỳ theo cơ chế tài chính quy định cụ
thể mà việc quản lý sử dụng quỹ BHXH có thể ở tại doanh nghiệp hay cơ quan
chuyên trách. Việc sử dụng chi tiêu quỹ BHXH dù ở cấp nào quản lý cũng phải
thực hiện theo đúng chế độ quy định.
- Quỹ bảo hiểm y tế (BHYT): tài trợ cho việc phòng, chữa và chăm sóc sức
khoẻ cho người lao động. Theo quy định của chế độ tài chính hiện hành thì quỹ
BHYT được hình thành từ hai nguồn: một phần do doanh nghiệp phải gánh
chịu, được tính trích vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỷ lệ quy
định 4,5% trong đó 3% tính vào chi phí kinh doanh và 1,5% trừ vào thu nhập
người lao động. BHYT được nộp lên cơ quan chuyên môn, chuyên trách
(thường chủ yếu dưới hình thức mua BHYT) để phục vụ, bảo vệ và chăm sóc
sức khoẻ cho công nhân viên như khám bệnh, chữa bệnh.
- Kinh phí công đoàn (KPCĐ): đựơc thành lập do việc trích lập theo một tỷ lệ
quy định trên tổng số tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của công nhân
viên thực tế phát sinh trong tháng tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ
trích KPCĐ theo chế độ hiện hành là 2%. Số KPCĐ doanh nghiệp trích được
phân cấp quản lý và chi tiêu theo chế độ quy định. Một phần nộp cơ quan quản
lý công đoàn cấp trên và một phần để tại doanh nghiệp chi tiêu cho hoạt động
công đoàn tại doanh nghiệp.
- Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): nhằm giúp người thất nghiệp nhanh
chóng trở lại thị trường lao động, hỗ trợ người thất nghiệp để thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị mất thu nhập do thất nghiệp.
Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHTN là 2%. Trong đó 1% do đơn vị hoặc
chủ sở dụng lao động nộp, được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh, 1% còn
lại do người lao động nộp, được tính trừ vào thu nhập người lao động.
Các khoản trích trên cùng với tiền lương phải trả cho người lao động hợp
thành loại chi phí về nhân công trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh quản lý,

việc tính toán, trích lập và chi tiêu sử dụng các quỹ tiền lương, BHXH, BHYT,
KPCĐ có ý nghĩa không những đối với việc sản xuất kinh doanh mà còn cả việc
đảm bảo quyền lợi cho người lao động tại doanh nghiệp.
3. Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
3.1 Hạch toán chi tiết tiền lương
- Hạch toán số lượng lao động:
Số lượng lao động của doanh nghiệp đựơc phản ánh trên sổ sách thường do
phòng tổ chức lao động quản lý dựa vào số lao động hiện có của doanh nghiệp
bao gồm cả số lao động dài hạn và số lao động tạm thời, cả số lao động trực tiếp
và số lao động gián tiếp, lao động thuộc các lĩnh vực khác ngoài sản xuất. Sổ
sách lao động không chỉ tập trung cho toàn doanh nghiệp mà còn lập riêng cho
từng bộ phận sản xuất trong doanh
nghiệp nhằm thường xuyên nắm bắt chắc số lượng lao động hiện có của từng
đơn vị.
Hạch toán số lượng lao động là việc theo dõi kịp thời, chính xác tình hình tăng,
giảm số lượng lao động theo từng loại lao động trên cơ sở đó làm căn cứ cho
việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động do phòng tổ
choc lập.
- Hạch toán thời gian lao động: là việc ghi chép kịp thời, chính xác thời gian
lao động của từng người lao động trên cơ sở đó tính tiền lương phải trả cho
chính xác. Hạch toán thời gian lao động phản ánh số ngày làm việc thực tế hoặc
ngừng sản xuất, nghỉ việc của từng người lao động, từng bộ phận sản xuất, từng
phòng ban trong doanh nghiệp. Bảng chấm công dùng để theo dõi thời gian làm
việc của từng người trong tháng do các tổ đội, phòng ban là người trực tiếp ghi
bảng chấm công căn cứ vào số lượng lao động có mặt, vắng mặt ở bộ phận
mình phụ trách, cuối tháng dựa vào số lượng bảng chấm công để tính ra tổng số
giờ làm việc, nghỉ việc để căn cứ tính lương, thưởng và tổng hợp thời gian lao
động sử dụng trong doanh nghiệp ở mỗi bộ phận.
- Hạch toán kết quả lao động:
Hạch toán kết quả lao động là việc ghi chép kịp thời, chính xác số lượng lao

động, chất lương sản phẩm hoàn thành của từng công nhân để từ đó tính lương,
tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả hoạt
động thực tế, tính toán, xác địng mức lao động của từng người, từng bộ phận và
của toàn doanh nghiệp. Để hạch toán kết quả lao động người ta sử dụng
cácchứng từ ban đầu khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Mỗi bộ phân sản xuất phải mở sổ tổng hợp
theo dõi kết quả lao động dựa vào các chứng từ hạch toán kết quả lao động hàng
ngày, phòng kế toán có trách nhiệm tập hợp kết quả lao động của toàn doanh
nghiệp.
- Các chứng từ ban đầu sử dụng trong việc hạch toán số lượng và chất lượng
lao động:
+ Hợp đồng giao khoán (Mẫu số 08 - LĐTL) Phiếu này là bản ký kết giữa người
giao khoán và người nhận khoán về khối lượng công việc, thời gian làm việc,

×