Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ VIỆC HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ THỜI NIÊN THIẾU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.1 KB, 8 trang )

TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ VIỆC HỌC TẬP CỦA BÁC HỒ THỜI NIÊN THIẾU
TS Bùi Thị Thu Hà
Học viện Chính trị Khu vực I
- Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh được UNESCO tôn vinh năm 1990: “Vị anh hùng giải
phóng dân tộc của Việt Nam và là nột nhà văn hoá lớn”. Trong sự trưởng thành
của Hồ Chí Minh - từ một nhà yêu nước truyền thống trở thành người cộng sản,
chiến sĩ quốc tế, người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam có ảnh hưởng của
quê hương hiếu học Nghệ An, sự giáo dục của gia đình, đặc biệt của cụ thân
sinh Nguyễn Sinh Sắc và các thầy đồ ở làng Kim Liên.
Kim Liên là địa phương có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt
trong các kì thi thời phong kiến: trong 96 khoa thi Hương từ 1635 đến 1890 có
193 người đỗ tú tài và cử nhân
(1)
. Ở Kim Liên, trong phong trào đấu tranh chống
Pháp xâm lược có nhiều nhà nho yêu nước, như Vương Thúc Mậu - người tổ
chức Chung Nghĩa binh và hy sinh năm 1886. Trong bài thơ “Điếu Vương Thúc
Mậu” có những câu ca tụng ông:
“Lăng lăng kỳ tử Kỳ Sơn
Bất tử ninh dung nghịch lỗ hoàn”
(Dịch nghĩa: “Tài khí lạ của ông vòi vọi như núi Kỳ Sơn
Không chết thì không để cho quân giặc trở về”)
Con ông là Vương Thúc Quý cũng tham gia “Thí sinh quân” do Phan Bội
Châu lập, sau về làng mở trường dạy học. Vương Thúc Quý là “thày khai tâm”
của Nguyễn Sinh Cung.
Từ lúc lọt lòng mẹ, Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong tiếng
hát của mẹ, những câu chuyện do bà ngoại và mẹ kể và những trò chơi dân gian
của trẻ con trong làng. Những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, lịch sử, quan hệ xã
hội… là những bài học đầu tiên mà Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận từ gia đình,
quê hương. Những điều tiếp nhận này sống mãi trong tâm trí Hồ Chí Minh và
tạo nên ở Người những đặc tính nổi bật của con người xứ Nghệ, mà dù có xa


quê hương 50 năm, trong đó sống xa Tổ quốc 30 năm, cũng không hề bị phai
mờ ở Người. Đây là bài học mà ngày nay trong giáo dục thế hệ trẻ chúng ta cần
(
1)
Có t i lià ệu ghi trong thời gian 1635 - 1890 có 82 người ở Kim Liên đỗ Tú t i v Cà à ử nhân
1
lưu ý, làm sao cho các em giữ mãi ấn tượng đầu tiên được quan sát, hiểu biết ở
quê hương.
Những điều được giáo dục ở quê hương là cơ sở để Nguyễn Sinh Cung
tiếp cận với những nơi xa, vượt khỏi làng quê. Khi lần đầu tiên vào Huế (1895),
cậu đã nhìn thấy và nảy sinh thắc mắc về những cảnh “lạ”, “Vì sao có nhà cao to
đẹp, lại có nhà thấp bé ?”, “Vì sao có ông Tây, ông quan to béo ngồi chễm chệ
cho người phu xe gầy yếu kéo ?”… Biết bao nhiều điều mới lạ ở chốn kinh
thành đập vào mắt cậu bé ở làng quê xứ Nghệ. Song cậu không chỉ ngạc nhiên
mà còn tò mò, thắc mắc về những hiện tượng này. Cũng như lúc bé ở quê nhà
khi nghe tiếng sấm, cậu Cung đã hỏi “Sấm ở đâu mà sinh ra”, bây giờ cậu lại hỏi
mẹ với sự đăm chiêu, suy nghĩ: “Vì sao có những cảnh như vậy ?”. Làm sao mẹ
có thể giải thích cho cậu con mới 5 tuổi hiểu được nguồn gốc sự bất công của xã
hội có áp bức, bóc lột. Vì thế mẹ Hoàng Thị Loan chỉ nói: “Về điều này, lớn lên
rồi con sẽ biết !”. Câu trả lời của mẹ không làm cho cậu Cung nản lòng vì “vấn
đề khó, không thể biết được” và được khuyến khích: cố gắng học tập để lớn lên
sẽ tự giải đáp.
Vấn đề đặt ra và câu trả lời của mẹ đã được Hồ Chí Minh ghi nhớ và tìm
hiểu suốt đời. Qua quan sát, học tập, suy nghĩ, Hồ Chí Minh đã dần dần hiểu
được vì sao nhân dân ta khổ cực, mà cả nhân dân bị áp bức trên thế giới cũng bị
nghèo khổ và phải làm gì để xoá bỏ sự bất công này, để nhân dân lao động được
hạnh phúc, ấm no.
Qua câu chuyện trên chúng ta cũng rút bài học về mẹ dạy học: biểu dương
những suy nghĩ, thắc mắc của con trẻ, song không nên giải thích quá sức hiểu
biết của con mà động viên, khuyến khích sự suy nghĩ tiếp theo.

Trong thời gian ở Huế, Nguyễn Sinh Cung tuy còn nhỏ tuổi song cũng bắt
đầu theo học lớp chữ Hán, do thân sinh mở vào năm 1898 ở nhà ông Nguyễn Sĩ
Khuyến làng Dương Nổ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Cậu
bé 8 tuổi này theo các bậc đàn anh đến lớp chỉ để bước đầu biết mặt chữ, biết tô
chữ, tập viết, chứ chưa hiểu gì nhiều về nội dung học tập. Tuy nhiên làm quen
với không khí lớp học cũng là điều cần thiết của một cậu bé đã đến tuổi đi học.
Lúc bấy giờ việc học tập của học sinh chưa phân lớp, song thầy đồ vẫn phân biệt
trình độ khác nhau mà hướng dẫn các em tự học.
Ngày 10 - 2 - 1901, bà Hoàng Thị Loan qua đời. Đây là một tổn thất lớn
cho cậu Cung; tuy nhiên trong đau thương này, khi mà cụ Nguyễn Sinh Sắc
vắng nhà, mới thấy được sự chịu đựng quá sức của cậu bé lên 11 tuổi. Cảnh mẹ
2
mất, cha vắng nhà, em khát sữa đã suốt đời khắc sâu vào tâm trí của Hồ Chí
Minh.
Năm 1901, Nguyễn Sinh Cung về quê ngoại và cùng anh Nguyễn Sinh
Khiêm được cha làm lễ vào làng, mang tên mới Nguyễn Tất Thành (tháng 9 -
1901). Trong những năm trở lại quê, Nguyễn Tất Thành được tiếp tục đi học chữ
Nho với thày Hoàng Phan Quỳnh. Khi cụ Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng, gia
đình về quê nội, Nguyễn Tất Thành lần lượt học chữ Nho với các thầy Vương
Thúc Quý và Trần Thân.
Vào thời gian này, Nguyễn Tất Thành đã tỏ rõ một học sinh nhanh nhẹn,
thông minh, có trí nhớ tốt và bước đầu tỏ ra có những suy nghĩ sâu sắc. Điều này
cũng do ảnh hưởng cách dạy của thầy Vương Thúc Quý - thày thường dạy cho
học sinh sách suy nghĩ để hiểu, chứ không theo cách “tầm chương trích cú”. Một
lần thắp đèn, dầu vương ra sách, để thử sức học của học trò, thầy Quý ra câu đối.
Thắp đèn lên dầu vương ra đế
Một học trò lớn tuổi liền đối một câu rất chỉnh:
Đốt nhang rồi gió quạt bay tàn
Nguyễn Tất Thành cũng xin đối:
“Cưỡi ngựa dong thẳng Tấn lên Đường”

(1)
Trong vế ra của thầy Quý có các từ “vương” và “đế”, vừa có nghĩa là “để
dầu vương vãi ra đế đèn”, vừa ngụ ý chỉ các “bậc vua chúa, hoàng đế”; câu đối
của Nguyễn Tất Thành có từ “Tấn” và “Đường”, vừa có nghĩa là “tiến lên
đường” vừa hàm ý chỉ hai triều đại phong kiến trong lịch sử Trung Quốc - nhà
Tấn xưng vương và nhà Đường xưng đế.
Rõ ràng câu đối của Nguyễn Tất Thành rất chỉnh mà lại tỏ ra có khí phách
của một con người luôn muốn vươn lên, không chịu khuất phục, nên được thầy
khen.
Nguyễn Tất Thành chỉ học với thày Quý một thời gian ngắn, nhưng đã
tiếp nhận ở thầy tấm lòng yêu nước, ý chí cầu tiến mạnh mẽ, có lối học thông
minh, thanh thoát, không nệ cổ… Vì vậy, dù trước đó Thành đã đi học với các
thầy giáo khác rồi, song cụ Sắc vẫn xem cụ Quý là “thày giáo khai tâm” của con
mình. Cụ muốn lấy thày Quý, người đạo đức, học rộng, chữ viết đẹp, làm gương
cho con mình noi theo.
(
1)
Dẫn theo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Nghệ An: Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr.33.
3
Những năm tháng học chữ Hán với các thầy đồ ở quê không chỉ đem lại
cho Nguyễn Tất Thành “dăm ba chữ thánh hiền” mà còn đặt cơ sở cho việc thấu
hiểu đạo lý của Nho giáo để ứng xử trong cuộc sống. Những tri thức đầu tiên tuy
đơn giản song sâu sắc nên đã khắc sâu vào tâm trí Hồ Chí Minh. Ngoài việc học
các thày đồ, Nguyễn Tất Thành còn học nhiều điều hay, mới lạ ở bà con, hàng
xóm, và cũng để lại ở Người nhiều kỉ niệm sâu sắc, một số kiến thức thiết thực
rất bổ ích. Nguyễn Tất Thành còn theo cha đi dạy học nhiều nơi, được thăm
nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di tích lịch sử, như làng Đông Thái, quê
hương Phan Đình Phùng, thành Lục Niên được xây dựng trong kháng chiến
chống Minh của Lê Lợi - Nguyễn Trãi, miếu thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn

Thiếp… Anh còn được nghe nhiều câu chuyện lịch sử về những cuộc đấu tranh
của nhân dân Nghệ - Tĩnh, trong đó có đồng bào quê hương Nam Đàn, Chung
Cự của mình đã anh dũng chống ngoại xâm. Những hiểu biết, cũng như những
cảm xúc mà Thành thu nhận được trong đời sống đã góp phần không nhỏ vào sự
hình thành nhân cách, tình cảm của anh đối với đồng bào, quê hương đất nước.
Những hiểu biết và ấn tượng thời niên thiếu sống mãi ở Hồ Chí Minh.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho thức thời, cụ sớm nhận thấy không
thể cho các con mình cứ tiếp tục theo học chữ Hán ở trường làng khi thời thế đã
đổi thay, tân học đã dần dần thay thế cho nho học. Bởi vì, cùng với việc xác lập
nền đô hộ ở Việt Nam, thực dân Pháp cũng dần xây dựng nền giáo dục mới -
giáo dục tư sản thực dân, để mong đào tạo một lớp người phục vụ cho chúng.
Giáo dục thực dân tư sản là cơ sở thống trị của chế độ thuộc địa, nửa phong
kiến. Tuy vậy, cụ Sắc cũng nhận thức rằng phải cho các con mình tiếp xúc với
Tây học để hiểu rõ hơn nước Pháp và các nước khác ở châu Âu. Khoảng tháng 9
- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được theo học lớp Dự bị (Cours
Préperatoire) ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ của thành phố Vinh, cách làng
Kim Liên chừng 14 kilômét. Hai anh em trọ nhà một gia đình nghèo tại vùng
Cầu Rầm. Ở trường tiểu học này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành được làm quen
với các từ “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái” mà cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789
đã nêu lên
(1)
.
Cuối tháng 5 - 1906, Nguyễn Tất Thành cùng anh theo cha vào Huế lần
thứ hai, khi cụ Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy) không thể từ chối mãi lệnh
của triều đình Huế phải vào kinh đô nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Cụ nhận thấy
(
1)
Theo, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin v tà ư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên
niên tiền sử, Nxb Thông tin lý luận, H Nà ội, Tập 1, 1992, tr. 33
4

làm quan là “một nỗi nhục” đối với những người có lòng thương dân, có ý thức
dân tộc.
Tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành sau khi học trường tiểu học Pháp -
Việt Đông Ba (Huế), được nhận vào học trường Quốc học, lớp Nhì (Cours
Moyen). Đây là bước ngoặt trong cuộc đời học vấn của Nguyễn Tất Thành, vì
anh có dịp tiếp xúc, hiểu rõ hơn nền văn minh Pháp, châu Âu, ý thức hơn về nỗi
khổ của nhân dân đang rơi vào cảnh đói khổ, thất học.
Vào đầu thế kỷ XX, nhân dân các tỉnh Nam Trung Kỳ bị thực dân Pháp
và phong kiến tay sai bóc lột, phải chịu nhiều loại sưu thuế nặng nề. Vì vậy, vào
năm 1908 phong trào đòi bỏ lệ đi xâu, giảm thuế diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh
Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi…
Ở Thừa Thiên, phong trào đấu tranh diễn ra từ tháng 4 - 1908. Nhân dân
kéo đến Huế, nhưng bị bọn cầm quyền đàn áp, bắn chết một người. Đoàn người
biểu tình xông lên, tước vũ khí của binh lính, trói tên Lãnh binh và bắt viên Phủ
Doãn phải dẫn đầu đoàn biểu tình. Khi vào thành phố, số người tham gia ngày
càng đông, nhất là học sinh các trường Quốc học, Quốc Tử giám…
Cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân làm thức tỉnh mạnh mẽ hơn
lòng yeu nước của học sinh Nguyễn Tất Thành. Anh tham gia cuộc biểu tình
chống thuế của nông dân Thừa Thiên, đang tập hợp trước toà Khâm sứ Trung
Kỳ (nay là trường Đại học sư phạm thuộc trường Đại học Huế). Đây là lần đầu
tiên Nguyễn Tất Thành thể hiện lòng yêu nước thương dân, ý chí cứu nước, cứu
dân bằng một hành động yêu nước công khai và cụ thể mà không kể gì đến
những điều nguy hiểm đang chờ đợi anh và cha mình.
Đúng như vậy, vì tham gia phong trào đấu tranh của nông dân nên
Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp theo dõi và khiển trách cụ Nguyễn Sinh Sắc
“không biết dạy con”, để cho Nguyễn Tất Thành có những hoạt động chống nhà
cầm quyền thuộc địa. Trong “Hồ sơ Nguyễn Sinh Huy”, số A3780I, ngày 21 - 1
- 1920 của Sở Mật thám Trung Kỳ, ghi rõ lý do ông Nguyễn Sinh Huy bị thực
dân Pháp khiển trách. Đó là vì: “hạnh kiểm của hai người con ở trường Quốc
học, đã nói trước mặt thày giáo những lời bài Pháp trong dịp dân chúng biểu

tình”. Cụ Sắc bị điều đi nhậm chức Tri huyện ở Bình Khê - một huyện miền núi
của tỉnh Bình Định (nay là huyện Tây Sơn, Bình Định).
Tháng 6 - 1909, Nguyễn Tất Thành bỏ học trường Quốc học Huế vào
thăm cha ở Bình Khê. Để tiếp tục việc học tập, Nguyễn Tất Thành được cụ Sắc
5

×