Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG KẾ TOÁN MÁY TRONG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CPSX VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM HIỆN NAY Ở CÁC DNSXDP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.03 KB, 29 trang )

THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG KẾ TOÁN MÁY TRONG TỔ
CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN CPSX VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
HIỆN NAY Ở CÁC DNSXDP.
2.1 Đặc điểm hoạt động và tổ chức quản lý sản xuất của các DNSXDP ảnh
hưởng đến công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm.
2.1.1 Đặc điểm về sản phẩm và các yếu tố liên quan đến việc sản xuất sản
phẩm.
2.1.1.1 Đặc điểm về tính chất sản phẩm.
Sản phẩm cuối cùng của các DNSXDP là thuốc và các thiết bị vật tư y tế.
Thuốc chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, Nhà nước đã có nhiều biện
pháp khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sản
phẩm cũng như phân phối thuốc của các DN trong nước làm lành mạnh môi
trường cạnh tranh giữa các DN, đồng thời Nhà nước cũng quy định: Dược phẩm,
vật tư thiết bị y tế là loại hàng hóa nằm trong nhóm “hàng hóa đặc biệt”. Do đó,
ngoài những thuộc tính chung của hàng hóa là giá trị và giá trị sử dụng, sản
phẩm của các DNSXDP còn có những thuộc tính riêng có và những thuộc tính
này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác kế toán nói chung và công tác kế toán
CPSX, giá thành sản phẩm của DN nói riêng.
- Chất lượng của thuốc được thể hiện bằng các chỉ tiêu cụ thể và nghiêm ngặt.
Sản phẩm thuốc chữa bệnh chỉ có một loại phẩm cấp là loại 1, Nhà nước không
cho phép lưu hành thuốc thứ phẩm, vì vậy hiệu quả sản xuất của DN phụ thuốc
rất lớn vào vấn đề chất lượng sản phẩm. Chất lượng của thuốc ảnh hưởng trực
tiếp đến tính mạng và sức khỏe của con người, do đó yêu cầu về chất lượng sản
xuất dược phẩm là rất cao, đòi hỏi sự đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, công
nghệ và trình độ lao động để có thể phát triển sản phẩm mới, có chất lượng cao -
phù hợp với sản phẩm của các nước trên thế giới, tuy nhiên không thể sản xuất
và tiêu thụ một cách tràn lan.
- Thuốc chữa bệnh có thời gian sử dụng nhất định và thường không dài, đòi hỏi
công tác bốc dỡ, vận chuyển, bảo quản phải cẩn thận, chu đáo, khoa học. Mặt
khác, do có nhiều loại thuốc, mỗi loại lại có chế độ bảo quản riêng nên việc bảo


quản thuốc khá phức tạp.
- Giá trị sử dụng của thuốc lớn và tăng trưởng nhanh - đây là một tác động tích
cực thúc đẩy DN đa dạng hóa mặt hàng. Mặt khác, mỗi loại thuốc có một tác
dụng khác nhau theo từng loại bệnh nên chủng loại thuốc trên thị trường rất
phong phú và hình dạng thuốc cũng có nhiều loại (viên, ống , tuýp…) giúp DN
dễ xác định mặt hàng sản xuất tối ưu.
Ở nước ta hiện nay, dược phẩm là ngành công nghiệp chưa phát triển nên
được Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích, nhưng đồng thời Nhà nước cũng có sự
quản lý chặt chẽ về chủng loại, chất lượng thuốc nên hoạt động sản xuất của các
DN phải xây dựng dựa trên năng lực bản thân và chính sách của Nhà nước để
giảm thiểu rủi ro.
2.1.1.2. Đặc điểm về máy móc thiết bị và quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm.
Các DNSXDP sản xuất các sản phẩm rất đa dạng và không ngừng sản xuất
sản phẩm mới nên phần lớn các DN phải sử dụng nhiều loại máy móc, thiết bị,
thông thường từ 30 đến 40 loại). Máy móc, thiết bị của các DN có 70% là hàng
ngoại nhập, còn lại 30% là hàng đặt trong nước. Mỗi năm, tuy các DN phải sử
dụng một lượng vốn khá lớn để đầu tư máy móc, thiết bị cho phù hợp với yêu
cầu sản xuất nhưng các DN cũng mạnh dạn tạo nguồn để có công nghệ tiên tiến
nhất, phục vụ nhu cầu thuốc của nhân dân cũng như tạo ra thế mạnh cạnh tranh
trên thị trường. (Ví dụ: Tại công ty TRAPHACO khi muốn đa dạng hóa các mặt
hàng trà thuốc cạnh tranh với trà nhúng ngoại nhập, công ty này phải đầu tư tới
xấp xỉ 4,5 tỷ đồng cho một dây chuyền công nghệ đóng trà nhúng tự động).
Dây chuyền công nghệ sản xuất một loại thuốc rất phức tạp và có giá trị cao -
đây chính là một yếu tố tác động lên CPSX và giá thành sản phẩm của các DN.
DN phải xác định phương pháp khấu hao nào để có thể vừa thu hồi vốn đầu tư
nhanh, vừa không làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, làm tăng giá bán sản
phẩm. Theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC thì có 3 phương pháp khấu hao là:
1. Phương pháp khấu hao đường thẳng.
2. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh.

3. Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm.
Trong 3 phương pháp đó thì việc tính toán phương pháp khấu hao theo số
lượng, khối lượng sản phẩm phức tạp, còn phương pháp khấu hao đường thẳng
thì việc tính toán đơn giản nhưng khả năng thu hồi vốn chậm (phương pháp khấu
hao nhanh (đường thẳng) vừa tính toán đơn giản, vừa thu hồi vốn nhanh nhưng
điều kiện là DN phải hoạt động có hiệu quả cao. Trên thực tế, các DN nói chung
và các DNSXDP nói riêng thường tính khấu hao theo phương pháp đường thẳng.
Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm chủ yếu của các DNSXDP là quy
trình sản xuất khép kín, liên tục, với chu kỳ ngắn.Thông thường cơ cấu sản xuất
được chia theo các phân xưởng, mỗi phân xưởng sản xuất một số sản phẩm có
công nghệ tương tự nhau như: phân xưởng thuốc nén, phân xưởng thuốc ống,
thuốc đông dược…Quy trình sản xuất được chia theo từng lô, từng mẻ theo công
thức phối liệu riêng và được theo dõi trên hồ sơ lô, mẻ đưa vào sản xuất thông
qua các công đoạn sản xuất trong phân xưởng. Có thể khái quát quy trình công
nghệ sản xuất sản phẩm chủ yếu của các DNSXDP ở Sơ đồ 2.1.
2.1.1.3 Sự đa dạng của nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là một trong các yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng của các
DN sản xuất. Các DNSXDP với chức năng chủ yếu là sản xuất và trực tiếp tiêu
thụ sản phẩm do DN sản xuất ra, vì vậy, vấn đề đảm bảo NVL về số lượng, chất
lượng, tính đồng bộ là yếu tố quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh. Để
sản xuất một loại sản phẩm cần tới hàng chục, thậm chí hàng trăm loại NVL mà
ở các DNSXDP sản xuất rất nhiều loại sản phẩm (sản phẩm thuộc về đông dược,
tân dược, mỹ phẩm…), do đó chủng loại NVL rất phong phú.
Một điều đặc biệt là 100% nguyên liệu đầu vào của các hàng tân dược đều
phải nhập khẩu nên phải phụ thuộc rất lớn vào các đối tác nhập hàng, do đó các
DN dễ bị ép tăng giá, làm cho giá thành sản phẩm tăng theo. Mặt khác, do nhập
khẩu hàng nên DN phải sử dụng ngoại tệ, vì vậy chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ
giá hối đoái, có năm do tỷ giá ngoại tệ tăng, làm cho giá thành sản phẩm tăng
cao, các DN phải giảm giá trị hàng sản xuất.
NVL sản xuất hàng đông dược của các DN đa phần không đạt tiêu chuẩn chất

lượng đầu vào như nhân sâm nhập từ Triều Tiên, tam thất nhập từ Trung Quốc.
Hiện nay, nguồn cung cấp các loại dược liệu của các DN rất đa dạng, tuy
nhiên do lượng hàng nhập khẩu tương đối lớn như vậy nên để giảm sự thụ động
khi mua các yếu tố đầu vào thì DN phải lựa chọn các nhà cung cấp cho phù hợp.
Bên cạnh đó, NVL sản xuất thuốc rất phức tạp về tính chất lý – hóa học. Giữa
các loại dược liệu có thể có những phản ứng hóa học với nhau, do vậy, nếu khâu
bảo quản không đảm bảo sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm. Do đó,
cũng như việc bảo quản sản phẩm, việc bảo quản NVL là một công việc hết sức
phức tạp.
2.1.2 Đặc điểm về đội ngũ lao động.
Lao động là một trong các yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng của quá trình
sản xuất. Trình độ, tay nghề của người lao động góp phần quyết định chất lượng
sản phẩm. Do đó, cùng với sự phát triển của các DN nói chung, các DNSXDP
rất chú ý đến đội ngũ lao động của mình. Trong nền kinh tế thị trường, các DN
đã xác định chất lượng sản phẩm sẽ mở đường cho sản xuất gắn bó mật thiết với
thị trường rộng lớn hay chất lượng sản phẩm sẽ quyết định tới khả năng phát
triển SXKD. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu mở rộng, phát triển sản xuất kinh
doanh đòi hỏi lao động của các DN phải được tăng dần cả về số lượng và chất
lượng. Việc tăng về số lượng lao động sẽ giải quyết được nhu cầu về công ăn
việc làm cho người lao động. Còn việc tăng về chất lượng lao động sẽ góp phần
tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả SXKD. Do đó, các DN đã mở nhiều
lớp nâng cao tay nghề cho công nhân và dược tá sản xuất, mở nhiều lớp nâng
cao trình độ kỹ năng quản lý cho cán bộ quản lý, nhất là những người có nhiệm
vụ xây dựng chiến lược sản phẩm của DN. Phần lớn các DN đều ký hợp đồng
với các chuyên gia đầu ngành từ các trường đại học, các viện nghiên cứu trong
lĩnh vực nghiên cứu, tư vấn sản xuất sản phẩm…Do đó, chất lượng công tác
nghiên cứu sản xuất sản phẩm ngày càng được nâng cao.
2.1.3 Đặc điểm về tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất kinh doanh.
Hầu hết các DNSXDP được tổ chức sản xuất và quản lý theo mô hình độc
lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng, chịu trách nhiệm trước Nhà nước

về viêc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Đa số các công ty này có các
xí nghiệp, phân xưởng sản xuất trực thuộc và có mạng lưới phân phối rộng khắp
(các chi nhánh, cửa hàng, hiệu thuốc…) thực hiện chức năng tiêu thụ sản phẩm.
Đứng đầu công ty là Hội đồng quản trị và giám đốc công ty, ở xí nghiệp, phân
xưởng là giám đốc xí nghiệp, quản đốc phân xưởng, còn ở các tổ, đội là các tổ
trưởng hoặc đội trưởng.
Trong công ty hoặc xí nghiệp có các phòng ban chức năng giúp việc cho ban
giám đốc trong việc quản lý và điều hành SXKD.
Tổ chức theo kiểu công ty độc lập hiện nay là phổ biến ở nhiều DNSXDP kể
cả DN Trung ương cũng như DN địa phương. Ví dụ: Xí nghiệp Dược Phẩm TW
I, II thuộc Bộ Y Tế; Công ty Cổ phần dược Hà Nội thuộc Sở Y Tế Hà Nội, Công
ty Cổ phần dược TRAPHACO thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải….
Mô hình tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất kinh doanh của các DN dược
phẩm kiểu công ty độc lập có thể khái quát ở Sơ đồ 2.2.
2.1.4 Đặc điểm về nguồn vốn.
Trước khi Cổ phần hóa, hầu hết các DNSXDP là các Doanh Nghiệp Nhà nước
nhưng sau khi Cổ phần hóa, các DN này đa số đã trở thành các Công ty Cổ
Phần. Nguồn vốn SXKD của các công ty sản xuất dược phẩm được hình thành
từ 4 nguồn: vốn tự có của DN, vốn vay, vốn huy động từ các cổ đông và vốn
thuê tài chính. Việc huy động nguồn vốn nào là tùy thuộc vào DN nhưng các
DN cần lựa chọn nguồn vốn sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Do
đặc thù của ngành dược nên để thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt là đa
dạng hóa sản phẩm trên cơ sở đầu tư mới, các DN cần phải huy động một lượng
vốn rất lớn. Đây là một thử thách không nhỏ đối với các DN khi tiến hành sản
xuất sản phẩm mới với dây chuyền công nghệ giá trị cao và phải nhập ngoại.
2.2 Thực trạng tổ chức công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm
trong điều kiện áp dụng kế toán máy ở các DNSXDP hiện nay.
2.2.1 Khái quát tình hình thực tế về tổ chức công tác kế toán CPSX và tính
giá thành sản phẩm ở các DNSXDP hiện nay.
Trước năm 1995, các DN nói chung, các DNSXDP nói riêng chưa quan tâm

đến việc ứng dụng tin học vào công tác kế toán. Từ năm 1995 trở lại đây, việc tổ
chức ứng dụng tin học vào công tác kế toán đã được nhiều DN sản xuất quan
tâm. Qua khảo sát thực tế cho thấy, hiện nay trong cả nước đã có khoảng 40%
DN đang sử dụng phần mềm kế toán để trợ giúp công tác kế toán. Khi đã áp
dụng kế toán máy hỗ trợ công tác kế toán thay thế kế toán thủ công thì vấn đề tổ
chức công tác kế toán ở các DN có sự điều chỉnh và cải tiến cho phù hợp với
điều kiện mới này.
Thời gian đầu khi áp dụng kế toán máy, các DN đã gặp không ít khó khăn và
vướng mắc trong trong việc tổ chức công tác kế toán. Thực tế có rất nhiều phần
mềm kế toán đã được thiết kế và xây dựng bởi nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau.
Mỗi phần mềm có cách tiếp cận và hệ thống xử lý thông tin khác nhau, trong khi
đó, các cơ quan quản lý, tổ chức nghề nghiệp liên quan chưa có kịp văn bản, tài
liệu chỉ đạo, hướng dẫn các DN cách tổ chức công tác kế toán khi áp dụng kế
toán máy như thế nào cho đúng và hiệu quả. Vì vậy, mỗi DN tổ chức công tác kế
toán một cách tự phát, thường tự mày mò tìm hiểu và tự điều chỉnh theo những
cách khác nhau. Do đó, nhiều DN chưa khai thác hết các tính năng và hiệu quả
của các phần mềm và cũng không ít DN tổ chức không hiệu quả.
Qua khảo sát thực tế về công tác kế toán CPSX, giá thành sản phẩm và công
tác kế toán quản trị nói chung ở một số DNSXDP ta thấy: Nhìn chung, các
DNSXDP đều áp dụng phương pháp kế toán kê khai thường xuyên, công tác kế
toán tài chính và kế toán quản trị đã đáp ứng yêu cầu quản lý DN ở tầm vĩ mô và
vi mô, có thể đánh giá ở mức khái quát như sau:
Thứ nhất: Các DN đã đánh giá đúng vai trò của kế toán CPSX, giá thành sản
phẩm trong công tác quản trị DN. Nhìn chung, các DN đều xác định việc quản lý
CPSX có ý nghĩa quyết định tới kết quả và lợi nhuận mà DN đạt được. Khi tổ
chức tốt công tác kế toán quản trị CPSX, giá thành sản phẩm sẽ giúp các nhà
quản trị đánh giá chính xác tình hình hoạt động của DN, nắm rõ các khoản
CPSX của DN cho từng đối tượng chi phí, đối tượng giá thành của DN. Từ đó,
giúp các nhà quản trị có thể quản lý chặt chẽ chi phí, quyết định đầu tư sản xuất
loại sản phẩm nào, tăng giảm chi phí ở những khâu nào để đem lại lợi nhuận cao

trong SXKD.
Thứ hai: Việc xác định đối tượng kế toán CPSX và đối tượng tính giá thành
sản phẩm ở các DN là tương đối phù hợp với điều kiện thực tế về tổ chức sản
xuất và yêu cầu quản trị của DN. Trên cơ sở đó, các DN đã tổ chức hệ thống sổ
kế toán để tập hợp CPSX, tính giá thành sản phẩm phù hợp với từng đối tượng
đã xác định, phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm của DN. Hầu hết các DN
đã tổ chức xây dựng hệ thống tài khoản kế toán một cách hợp lý để phục vụ cho
công tác kế toán CPSX và tính giá thành sản phẩm của DN.
Thứ ba: Trong hầu hết các DN, việc tổ chức hạch toán ban đầu và xử lý các
nghiệp vụ kinh tế nội sinh đã đáp ứng được yêu cầu quản trị DN.
Thứ tư: Về cơ bản, các phương pháp kế toán để tập hợp CPSX kinh doanh và
tính giá thành sản phẩm trong các DN đã được vận dụng là phù hợp với đặc
điểm cụ thể của DN.
Các ưu điểm đạt được trên đây thể hiện sự cố gắng, tích cực của các DN trong
việc từng bước hoàn thiện tổ chức công tác kế toán nói chung và công tác kế
toán CPSX, giá thành sản phẩm nói riêng. Tuy nhiên, trong số những DN áp
dụng phần mềm kế toán thì công tác kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản
phẩm còn nhiều bất cập. Điều này gây khó khăn nhiều đến việc cung cấp, xử lý
thông tin trong nội bộ kế toán đơn vị, cũng như khó khăn không ít trong việc tổ
chức phân công công việc trong phòng kế toán, hiệu quả công việc không cao.
Cụ thể, còn bộc lộ một số vấn đề sau:
Một là: Xác định ranh giới giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị ở các DN
là chưa rõ ràng. Điều này thể hiện qua việc tổ chức công tác kế toán ở các DN
chủ yếu là bị động, thường là dựa vào các nội dung của kế toán tài chính được
quy định trong các văn bản pháp quy của Nhà nước và cơ quan chủ quản cấp
trên. Điều đó làm cho các DN thiếu chủ động trong việc tổ chức công tác kế toán
quản trị để phục vụ cho yêu cầu quản trị DN.
Hai là: Việc phân loại CPSX ở các DN hiện nay thường là phân loại theo
khoản mục để phục vụ cho công tác tính giá thành và việc phân loại chi phí theo
các yếu tố sản xuất để phục vụ cho việc lập báo cáo CPSX theo yếu tố. Các DN

chưa chú trọng sử dụng cách phân loại trực tiếp cho các hoạt động quản trị của
DN. Điều đó làm hạn chế khả năng phân tích chi phí để phục vụ cho quản lý
CPSX của DN.
Ba là: Việc tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng, nhất là CPSX
chung chưa có sự kết hợp nhiều tiêu thức phân bổ, thường dùng một tiêu thức
duy nhất để phân bổ các yếu tố của CPSX chung cho từng loại sản phẩm, điều
đó làm giảm tính chính xác trong việc phân bổ CPSX chung, dẫn đến tính giá
thành sản phẩm không chính xác và làm giảm tính khách quan, trung thực của
các thông tin kế toán cung cấp.
Bốn là: Việc tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và hệ thống tài khoản kế toán
quản trị chưa đủ chi tiết để phục vụ yêu cầu quản trị trong điều kiện đòi hỏi rất
cao của nền kinh tế thị trường.
Năm là: Công tác kế toán CPSX, giá thành sản phẩm hiện nay trong các DN
chủ yếu với mục đích cung cấp các thông tin về tình hình chi phí theo đối tượng
đã xác định, chưa có tính phân tích và tổng hợp cao để phục vụ cho việc lập các
dự toán về CPSX của DN.
Theo khảo sát thực tế đối với một số DNSXDP tính đến tháng 1/2005 ( Sơ đồ
2.3).
Qua số liệu thực tế trên chúng ta có thể nhận thấy công tác kế toán CPSX và
tính giá thành sản phẩm ở các DNSXDP trong điều kiện ứng dụng phần mềm
chưa được các DN quan tâm thích đáng. Chủ yếu các DN chỉ tổ chức công tác kế
toán CPSX và tính giá thành bán tự động. Sở dĩ như vậy bởi vì các DN cho rằng
chương trình tính giá thành không có “ tính động”, không đáp ứng được yêu cầu
của DN trong việc phân bổ các khoản chi phí chung.
2.2.2 Thực trạng về công tác kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm
ở các DNSXDP trong điều kiện áp dụng phần mềm kế toán.
2.2.2.1 Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán và hạch toán ban đầu.
- Hiện nay, các DNSXDP có sử dụng kế toán máy vẫn sử dụng hệ thống các
chứng từ do Bộ Tài Chính phát hành. Tuy nhiên, việc xây dựng các chứng từ
hướng dẫn tùy thuộc điều kiện cụ thể của DN nên thiếu tính thống nhất chung

trong hệ thống các DNSXDP.
- Việc tổ chức luân chuyển chứng từ qua nhiều khâu vừa mất thời gian, vừa dễ
ách tắc và gây ra hiện tượng ghi sổ kế toán trùng lắp thông tin. Khi áp dụng kế
toán máy, phải tổ chức lại quá trình luân chuyển chứng từ nhằm mục đích khử
thông tin trùng lắp về một nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc khử trùng hiện nay
ở các DN còn rất khác nhau và nói chung còn lúng túng, có DN thì khử trùng
bằng phương pháp thủ công, nghĩa là dùng con người để loại bỏ các chứng từ
trùng nhau, chỉ giữ lấy một loại chứng từ để vào máy hoặc quy định với một loại
chứng từ nào đó thì chỉ do một bộ phận kế toán duy nhất nhập vào máy, còn các
bộ phận khác thì không nhập. Bên cạnh đó, có những DN đã có kỹ thuật khử
trùng tự động bằng chương trình viết vào máy, tuy nhiên còn rất hạn chế, mà chủ
yếu là ở khâu tổ chức mã hóa thông tin trước khi nhập chứng từ.
- Việc xác lập các nội dung trên chứng từ chưa phản ánh hết các yếu tố liên quan
đến các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Mặt khác, việc lập chứng từ còn có hiện
tượng ghi sót thông tin hoặc mã hóa thông tin trên chứng từ tùy tiện. Điều này là
tối kỵ với việc xử lý chứng từ bằng kế toán máy bởi vì bản thân máy tính chỉ
nhận dạng đối tượng qua các từ mã.
2.2.2.2 Tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán
Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất do Bộ Tài Chính ban hành mới chỉ đáp
ứng yêu cầu quản lý tài chính vĩ mô để kiểm tra việc ghi chép trên các tài khoản
tổng hợp. Để đáp ứng yêu cầu quản trị DN, các DN phải tự xây dựng hệ thống
tài khoản kế toán quản trị trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán tài chính để quản
lý từng loại vật tư, tài sản, từng loại chi phí, từng đối tượng tập hợp chi phí…
Qua khảo sát thực tế về việc vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất
để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán quản trị của một số DNSXDP ta có một
số nhận xét sau:
- Đã có nhiều DN áp dụng kế toán máy nhưng mức độ áp dụng chưa đồng đều.
Chủ yếu các DN áp dụng cho công tác kế toán tài chính, còn kế toán quản trị
mới dừng ở mức độ sơ sài, điều này được thể hiện rất rõ trong việc xây dựng hệ
thống tài khoản kế toán áp dụng trong DN: Hệ thống tài khoản kế toán tài chính

rất ổn định, mặc dù nó là tiền đề tốt để mã hóa chi tiết cho các đối tượng (xây
dựng tài khoản chi tiết), song việc mở các tài khoản kế toán chi tiết còn tùy
hứng, chưa có sự thống nhất ở mức độ nhất định giữa các DN.(Ví dụ: Xem phụ
lục 3- Danh mục một số tài khoản kế toán ở Công ty TRAPHACO và Xí nghiệp
Dược Phẩm TW I.)

×