PHẦN CHUNG :
-Tên sáng kiến kinh nghiệm : Một số PP sử dụng phương tiện dạy học địa lí lớp 8.
-Họ và tên người viết : Đỗ Cao Thoan.
-Chức vụ : Giáo Viên.
-Đơn vị : Trường THCS Trương Công Định, Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
I.ĐẶT VẤN ĐỀ :
1. Yêu cầu của ngành :
Trong bối cảnh hiện nay toàn ngành giáo dục đang nổ lực thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh. NQ TW 2 khoá 8 tiếp tục khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo
dục và đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp hiện đại vào quá trình dạy
học...”.
Định hướng đó đã được pháp chế trong luật giáo dục “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp dạy học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui
hứng thú học tập cho học sinh” Cần chuyển từ “Dạy học lấy giáo viên làm trung
tâm” sang “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, phải tích cực hoá các hoạt động
của học sinh, khơi dậy cho các em tính khao khát, tìm tòi, nghiên cứu, cố gắng phát
huy trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. Để thực hiện điều
này đòi hỏi mỗi nhà trường, mỗi giáo viên phải có những bước chuyển biến rõ nét
trong việc cải tiến phương pháp dạy và học.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá cần giáo dục thế
hệ trẻ trở thành những con người “Năng động sáng tạo – Có năng lực giải quyết
vấn đề” Những con người tự tin có trách nhiệm, có những hành động phù hợp với
giá trị nhân văn và công bằng xã hội. Cần thực hiện giảng dạy trên lớp với nhiều
phương pháp phù hợp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Năm học 2008 – 2009 là năm học đầu tiên Bộ Giáo dục - đào tạo triển khai thực
hiện mô hình xây dựng “Nhà trường thân thiện học, học sinh tích cực”.Đây là mô
hình cải thiện linh hoạt các hoạt động thường ngày của nhà trường nhằm làm cho
các hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng trong giáo dục, phù hợp với nhu cầu và cuộc sống tại địa phương, tạo
tâm lý cho người học được thoải mái, gắn liền với việc bảo vệ gìn giữ các giá trị
văn hoá truyền thống, bảo đảm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, các nguồn lực cần
thiết, phù hợp với học sinh.
2. Thực trạng :
Trong năm học vấn đề sử dụng phương tiện dạy học, đặc biệt là bản đồ giáo khoa,
tranh ảnh, các mẫu vật của bộ môn địa lí được thực hiện ở chương trình địa lí lớp 8
. Đây là một chương trình giúp các em hiểu sâu về địa lí tự nhiên – kinh tế xã hội
Việt Nam, và liên hệ các châu lục, các quốc gia trên thế giới. Khi đã hiểu rõ, nắm
chắc các kiến thức đó các em sẽ có cơ sở áp dụng các biện pháp để khai thác kiến
thức từ bản đồ giáo khoa, giúp các em hiểu rõ hơn về tự nhiên con người các quốc
gia trên thế giới, càng có ý nghĩa hơn khi các em được học về tự nhiên kinh tế xã
hội của Việt Nam, tạo điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả và
chất lượng, đáp ứng yêu cầu khi đất nước mở cửa hội nhập.
Trước đây khi chưa thực hiện đồng bộ kết hợp nhiều phương pháp dạy trên lớp.
Kết quả học tập chưa đạt hiệu quả tối ưu. Phần lớn giáo viên chưa chú trọng khâu
chuẩn bị : Soạn bài, bản đồ, tranh ảnh, các mẫu vật, mô hình, sơ đồ nhất là các hình
động trên máy tính. … nên kết quả của một giờ lên lớp chưa cao. Qua những năm
tháng giảng dạy tôi thấy : Nếu chỉ sử dụng các phương pháp giảng dạy đơn thuần
giáo viên hướng dẫn các em quan sát mà không đi sâu vào phương pháp hướng dẫn
các em cách quan sát sử dụng bản đồ, mẫu vật thật, mô hình, thì các em chỉ như cái
máy nhớ rồi lại quên không khắc sâu được kiến thức cho các em .
3. Giải pháp đã sử dụng :
Trong một giờ học áp dụng nhiều phương pháp để đạt hiệu quả cao nhất, cần phối
hợp đồng bộ giữa các phương pháp với nhau để học sinh nắm chắc kiến thức ngay
tại lớp, bằng các kiến thức mình tự tìm tòi và cùng nhóm xây dựng lên, chứ không
phải là kiến thức mà thầy cô truyền thụ cho mình. Trong đề tài này phương pháp
chủ yếu tôi muốn cùng đồng nghiệp chúng ta quan tâm đến đó là : Phương pháp
phát huy tính tích cực, chủ động tìm tòi kiến thức của học sinh, qua các dạng bản
đồ, hình ảnh, mô hình, tranh ảnh, mẫu vật cụ thể để các em tự xác định được.
Làm thế nào để các em tiếp thu bài ngay trên lớp, hiểu sâu về kiến thức đòi hỏi
người GV phải có nhiều phương pháp giảng dạy để giúp các em học tập năng động
thoải mái sáng tạo, phát huy trí thông minh của các em. Đó là lý do tôi muốn trao
đổi với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm.
“ phương pháp dạy tốt môn địa lí lớp 8”
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
1. Cơ sở lý luận :
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người
năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật
hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc
sống của bản thân và xã hội. Thì việc giảng dạy học sinh vận dụng những kiến thức
đã học vào thực tế là điều thầy cô mong muốn.
Với nội dung học tập của môn Địa lí 8 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh
động và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh,
tạo điều kiện cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú
học tập của học sinh. Địa lí là môn khoa học của các môn khoa học, tri thức địa lí
chủ yếu được hình thành bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực
hành, tưởng tượng, liên hệ địa phương... Muốn thực hiện các bài học trên lớp. Giáo
viên phải là người hướng dẫn các em chủ động trong giờ học. Qua thực tế hiện nay
để đạt một giờ dạy tốt là cả một vấn đề mà mỗi thầy cô chúng ta cần quan tâm : Có
những giờ dạy rất thành công, nhưng cũng có những giờ dạy chưa đạt được mục
đích của bản thân mỗi giáo viên đứng lớp. Vì những cơ sở trên đây tôi muốn trao
đổi với các bạn tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để các giờ dạy địa lí đạt kết
quả cao nhất.
2. Giả thuyết :
Trong chương trình SGK lớp 8 có 2 nội dung chính đó là phần tự nhiên - kinh tế
Châu Á và Tự nhiên Việt Nam. Dù là dạy địa lí các châu hay địa lí Việt Nam
chúng ta cũng cần hình thành cho các em học sinh những nội dung cơ bản sau :
-Về kiến thức : Cần nắm những kiến thức cơ bản nào?
-Về kỹ năng : Cần rèn luyện kỹ năng gì?
-Về thái độ : GD học sinh về thái độ … -> tìm ra biện pháp thực hiện.
Trong các giờ lên lớp những bài dạy nào có bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật thật là tốt
nhất vì học sinh không thể đi đến tận nơi, thấy tận mắt tất cả những nơi trên bề mặt
của trái đất, hay ở Việt Nam để quan sát thực tế địa phương....
Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” .
Giáo viên sử dụng bản đồ tự nhiên Việt Nam bản đồ khoáng sản Việt Nam, mẫu
vật khoáng sản Việt Nam, bản đồ trống Việt Nam.
Học sinh quan sát.
Tài nguyên khoáng sản :
- Việt Nam có khoảng 5000 điểm tụ và quặng khoáng sản với 60 loại khác nhau.
- Các khoáng sản có trữ lượng lớn như:
+ Than, dầu mỏ, apatít, đá vôi, sắt, crôm, đồng thiếc, bô xít....
Với những bài dạy không có bản đồ, mẫu vật để quan sát . Giáo viên cho học sinh
quan sát tranh ảnh, bảng số liệu có đủ thời gian để quan sát. Có thể đưa ra yêu cầu
trước hoặc cho học sinh quan sát xong mới đưa yêu cầu.
Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” .
Yêu cầu cho học sinh quan sát lược đồ khoáng sản Việt Nam treo tường và sách
giáo khoa, để nhận xét nguồn tài nguyên khoáng sản, sự phân bố, trữ lượng các
loại khoáng sản của nước ta.
Sau khi đã xác định được mục tiêu của bài ta thấy cần áp dụng những phương pháp
nào cho phù hợp. Tuỳ theo mỗi bài dạy có những phương pháp khác nhau áp dụng
ở mỗi lớp khác nhau. Tuy vậy nhưng ở chương trình lớp 8 những phương pháp tôi
cho là phù hợp có thể áp dụng được để giảng dạy đạt hiệu qủa, đó là :
+ Quan sát lược đồ, mẫu vật, mô hình, băng hình, tranh ảnh.
+ Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp hoạt động nhóm : Phát huy tính chủ động tìm tòi, tìm ra những
kiến thức mới của học sinh.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.
a.Hướng dẫn học sinh quan sát : Bản đồ, sơ đồ, biểu đồ,mẫu vật, hình ảnh động
trên màn hình, tranh ảnh, thí nghiệm.
- Bản đồ vùa là phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng là cuốn
sách giáo khoa thứ hai của bộ môn địa lí.
- Từ bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật.. có thể bồi dưỡng cho học sinh thế giới duy vật
biện chứng, bồi dưỡng năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu. Do đặc điểm của
các đối tượng sự vật địa lí được trãi rộng trong không gian, giáo viên không thể
dẫn học sinh đến tận nơi được. Vì vậy dạy học không thể thiếu bản đồ, tranh ảnh,
mẫu vật.. Trong giảng dạy địa lí mở đầu bằng bản đồ kết thúc bằng bản đồ. Đây là
đặc trưng của bộ môn khoa học địa lí mà không một môn khoa học nào có thể so
sánh được. Cho nên khi lên lớp giáo viên phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của bài
học để đưa ra một hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức
trên bản đồ một cách có hiệu quả.
Ví dụ :
Quan sát lược đồ khoáng sản Việt Nam cho biết nước ta có những loại khoáng sản
nào ?
+ Học sinh quan sát và trả lời: Than, dầu mỏ, apatít, đá vôi, sắt, crôm, đồng thiếc,
bô xít....dựa vào các kí hiệu của bản đồ mà không cần sử dụng sách giáo khoa.
Các em đã thấy các loại khoáng sản này chưa ?
Sau khi học sinh trả lời giáo viên cho học sinh quan sát các mẫu vật khoáng sản
Việt Nam, để các em nhận biết các loại khoáng sản một cách hiệu quả nhất.
b.Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tòi kiến thức của
học sinh.
Sau khi học sinh đã quan sát cụ thể một mẫu vật, sơ đồ, bảng số liệu thống kê, hình
ảnh … nào đó hoặc các kiến thức đã qua thực tế - Giáo viên cần phát huy tối đa
hoạt động tư duy tích cực của học sinh bằng các tình huống để các em dự đoán nên
giả thuyết tranh luận giữa những ý kiến trái ngược…
Ví dụ : Quan sát tranh khai thác than, dầu khí em có nhận xét gì?:
+ Em dự đoán xem, hậu quả của việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên, tại sao
con người lại khai thác quá mức nguồn tài nguyên, có ảnh hưởng gì tới tương lai?
+ Em thử đoán xem khai thác hợp lí nguồn tài nguyên là biện pháp tích cực hay
tiêu cực?
+ Để bảo vệ nguồn tài nguyên chúng ta cần phải làm gì ?
c.Phương pháp hoạt động nhóm :
Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể
đưa ra ý kiến thảo luận trong nhóm để thống nhất ý kiến.
Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương pháp