Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Ảnh hưởng của tỉ lệ rau muống ipomoea aquatica bình linh leucaena leucocephala mai dương mimosa pigra và thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần đến mức ăn vào tỉ lệ tiêu hóa môi trường dạ cỏ và tăng trọng của dê thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TNTN
BỘ MÔN CHĂN NUÔI - THÚ Y
________________

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Ảnh hưởng của tỉ lệ rau muống (Ipomoea aquatica), bình linh
(Leucaena leucocephala), mai dương (Mimosa pigra) và thức ăn
hỗn hợp trong khẩu phần đến mức ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, mơi
trường dạ cỏ và tăng trọng của dê thịt

Chủ nhiệm đề tài: NGUYỄN THỊ THU HỒNG

Long Xuyên, tháng 12 năm 2007


LỜI CẢM TẠ

♣ Chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ Nhiệm Khoa Nông Nghiệp TNTN trường Đại học An Giang đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện đề tài này.
♣ Tôi chân thành được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Võ Ái Quấc, đã tận
tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến quí báu cho việc thực hiện đề tài này
♣ Sinh viên Diệp Quốc Thuận và Nguyễn Thành Tâm lớp ĐH4PN đã góp sức
cùng tơi thực hiện tốt đề tài.
♣ Các hộ chăn nuôi tại Phường Mỹ Xuyên thành phố Long Xun đã nhiệt tình
giúp đỡ tơi thực hiện đề tài.
Nguyễn Thị Thu Hồng

i



TĨM TẮT
Thí nghiệm được tiến hành tại thành phố Long Xuyên từ tháng 8/2006 - 3/2007,
nhằm xác định ảnh hưởng của tỉ lệ rau muống (Ipomoea aquatica), bình linh (Leucaena
leucocephala), mai dương (Mimosa pigra) và thức ăn hỗn hợp trong khẩu phần đến mức
ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa và tăng trọng của dê thịt.
Thí nghiệm sử dụng 4 dê đực (dê lai Bách thảo x cỏ) có trọng lượng 12 kg, trong
một bố trí hình vng latin của bốn nghiệm thức với bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn 15
ngày. Trong mỗi giai đoạn mỗi dê bố trí một khẩu phần thí nghiệm khác nhau. Khẩu phần
1, khẩu phần đối chứng sử 100% rau muống. Trong khẩu phần 2; 3 và 4 thì 30% nhu cầu
vật chất khơ của dê thí nghiệm được thay thế bởi cây mai dương; bình linh và thức ăn
hỗn hợp. Các chỉ tiêu quan sát là mức ăn vào tổng số và khả năng tiêu hố của vật chất
khơ, protein thơ và chất hữu cơ .
Có sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05) về mức dưỡng chất ăn vào giữa các nghiệm
thức thí nghiệm, giá trị thấp nhất ở khẩu phần đối chứng. Khả năng tiêu hố protein khá
tốt biến động từ 78,73% đến 87,29%.
Thí nghiệm thứ 2 là một bố trí hồn tồn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức, 4 lần lập
lại và mỗi dê là một đơn vị thí nghiệm. Tăng trọng bình quân của các dê cho ăn khẩu
phần bổ sung mai dương, bình linh và thức ăn hỗn hợp đều cao hơn khẩu phần sử dụng
hoàn toàn rau mống.
Mức protein ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa và tăng trọng cao ở dê ăn khẩu phần bổ sung
mai dương và bình linh phản ánh một protein cao, ngon của cây họ đậu và có sự kết hợp
giữa 2 nguồn protein lên men và protein thoát qua.

ii


MỤC LỤC
Cảm tạ ..................................................................................................................
Tóm tắt .................................................................................................................
Mục lục.................................................................................................................

Danh mục ký hiệu và chữ viết tắt ........................................................................
Danh mục Bảng ....................................................................................................
Danh mục Hình ....................................................................................................
A. Mở đầu ...........................................................................................................
I. Giới thiệu..........................................................................................................
II. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu.................................................................
1. Mục tiêu nghiên cứu ...........................................................................
2. Nội dung và đối tượng nghiên cứu......................................................
III. Lược khảo tài liệu.........................................................................................
1. Đặc điểm về cây Mai dương................................................................
2. Đặc điểm về cây Bình linh...................................................................
3. Đặc điểm về rau muống.......................................................................
IV. Phương tiện và phương pháp nghiên cứu..................................................
1. Phương tiện..........................................................................................
2. Thể thức thống kê................................................................................
3. Các khẩu phần thí nghiệm và cách cho ăn...........................................
4. Cách thu thập và phân tích số liệu.......................................................
B. Kết quả và thảo luận......................................................................................
I. Thí nghiệm tỉ lệ tiêu hóa và mơi trường dạ cỏ....................................
1. Thành phần dinh dưỡng của các thực liệu thí nghiệm
2. Mức ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm
3. Tỉ lệ tiêu hóa dưỡng chất của các khẩu phần thí nghiệm
4. Mơi trường dạ cỏ của dê thí nghiệm
II. Thí nghiệm ni dưỡng.......................................................................
1. Mức ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm.........................
2. Ảnh hưởng của các khẩu phần thí nghiệm trên tăng trọng
bình qn trên ngày của dê thí nghiệm.............................................................
C. Kết luận và kiến nghị.....................................................................................
Tài liệu tham khảo..............................................................................................


i
ii
iii
vi
v
vi
1
1
1
1
2
2
2
5
6
7
7
7
8
9
13
13
13
15
17
19
22
22
24
26

27

iii


DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

DM

Vật chất khô (dry matter)

OM

Chất hữu cơ (organic matter)

CP

Protein thô (crude protein)

NDF

Xơ trung tính (Neutral detergent fibre)

ADF

Xơ acid (Acid detergent fibre)

ĐC

Khẩu phần đối chứng


30 MD

Khẩu phần bổ sung 30% mai dương

30 BL

Khẩu phần bổ sung 30% bình linh

30 HH

Khẩu phần bổ sung 30% thức ăn hỗn hợp

TLTH

Tỉ lệ tiêu hóa

DC

Dưỡng chất

TA

Thức ăn

ctv

Cộng tác viên

iv



DANH MỤC BẢNG
Bảng

Tựa bảng

tran
g

1

Thành phần hóa học của cây Bình linh (tính trên vật chất khơ)

5

2

Thành phần hóa học của rau muống (g/kg vật chất khơ)

6

3

Sơ đồ bố trí thí nghiệm

7

4


Thành phần nguyên liệu và thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn
hợp thí nghiệm

9

5

Thành phần hóa học của mai dương, bình linh, rau muống, thức ăn
hỗn hợp

13

6

Mức ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm

15

7

Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến của các khẩu phần thí nghiệm (%)

17

8

Lượng vật chất khô, protein thô, chất hữu cơ ăn vào của các khẩu
phần thí nghiệm

23


9

Tăng trọng bình qn và hệ số chuyển hóa thức ăn của dê qua các
khẩu phần thí nghiệm

25

v


DANH MỤC HÌNH
Hình

Tựa hình

trang

1

Cách lấy mẫu dịch dạ cỏ dê

11

2

Phương pháp xác định protozoa

11


3

Ảnh hưởng của các khẩu phần thí nghiệm đến pH trong dịch
dạ cỏ của dê thí nghiệm

20

4

Ảnh hưởng của các khẩu phần thí nghiệm đến hàm lượng
NH3 trong dịch dạ cỏ của dê thí nghiệm

21

5

Ảnh hưởng của các khẩu phần thí nghiệm đến số lượng
Protozoa trong dịch dạ cỏ của dê thí nghiệm

22

vi


A. MỞ ĐẦU
I. Giới thiệu
Trong những năm gần đây bên cạnh sự phát triển của ngành trồng trọt thì ngành chăn ni
đã có những bước tiến đáng kể. Nước ta có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, nhiều
đồi núi, nơi có nhiều cây cỏ phát triển thích hợp với việc ni gia súc nhai lại. Dê là gia súc nhai
lại có tầm vóc nhỏ được ni từ lâu đời ở một số vùng đồi núi nước ta, nhằm khai thác thịt và

sữa. Ni dê có nhiều ưu thế như vốn đầu tư ban đầu thấp, dê sinh sản nhanh, tận dụng được
nhiều nguồn phụ phế phẩm trong nông nghiệp cũng như cây cỏ, lá tự nhiên. Hiện nay, đồng bãi
chăn thả tự nhiên giành cho gia súc nhai lại ngày càng bị thu hẹp dần, nguồn thức ăn tự nhiên
cũng ngày càng trở nên khan hiếm. Do đó vấn đề tìm nguồn thức ăn phù hợp cho dê là rất quan
trọng.
Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long hàng năm cứ vào mùa nước nổi làm ngập ruộng vườn,
chỉ có một số nơi đất cao mới có vài loại cây cỏ còn mọc được, đây là giai đoạn khan hiếm thức
ăn cho gia súc ăn cỏ. Từ thực tế trên cần phải có biện pháp tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu
sẵn có ở địa phương, nhằm đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi và tăng lợi nhuận cho
người chăn nuôi? Sự gia tăng lợi nhuận đó xuất phát từ việc rút ngắn thời gian nuôi của vật nuôi
bằng cách không chỉ cho vật nuôi ăn đơn thuần một loại thức ăn mà cần phải thay đổi cách và tỉ
lệ phối trộn các loại thức ăn nhằm đảm bảo đủ các thành phần dưỡng chất để vật nuôi phát triển
tốt nhất.
Để phát triển đàn dê có hiệu quả trong điều kiện nguồn thức ăn tự nhiên ngày càng ít do
đất đai ngày càng bị giới hạn, ngoài nhiệm vụ phải cải tiến về phẩm chất đàn thú giống, phương
thức chăm sóc, ni dưỡng thì việc tận dụng hiệu quả nguồn thức ăn xanh sẵn có (bình linh, mai
dương, rau muống, so đũa…) bổ sung vào khẩu phần để giảm giá thành sản xuất, tăng lợi nhuận
cho người chăn ni.
Xuất phát từ u cầu trên thì đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng của tỉ lệ rau muống (Ipomoea
aquatica), bình linh (Leucaena leucocephala), mai dương (Mimosa pigra) và thức ăn hỗn hợp
trong khẩu phần đến mức ăn vào, tỉ lệ tiêu hóa, mơi trường dạ cỏ và tăng trọng của dê thịt” được
tiến hành.
II. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định ảnh hưởng của tỉ lệ rau muống, bình linh, mai dương và thức ăn hỗn hợp trong
khẩu phần thức ăn đến năng suất sản xuất của dê thịt ở giai đoạn tăng trưởng.
2. Nội dung và đối tượng nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu: đề tài gồm 2 thí nghiệm:
2.1.1 Nội dung nghiên cứu của thí nghiệm tỉ lệ tiêu hố
1



- Thành phần dinh dưỡng chủ yếu của cây mai dương, cây bình linh, rau muống,
thức ăn hỗn hợp và khẩu phần thí nghiệm
- Xác định tỉ lệ tiêu hố dưỡng chất của khẩu phần thí nghiệm.
-

Xác định các chỉ tiêu về dịch dạ cỏ của dê thí nghiệm
2.1.2. Nội dung nghiên cứu của thí nghiệm ni dưỡng

- Xác định hệ số chuyển hoá thức ăn / kg tăng trọng
- Xác định tăng trọng bình quân trên ngày của dê thí nghiệm
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là dê tăng trưởng có trọng lượng 13 kg khoảng 3-4 tháng tuổi, là
giống dê lai giữa dê Bách thảo và dê cỏ, đây là giống dê nuôi rất phổ biến tại các nông hộ ở tỉnh
An Giang cũng như đồng bằng sông Cửu Long.
III. Lược khảo tài liệu
1. Đặc điểm về cây Mai dương
1.1. Đặc tính sinh học
Cây Mai dương hay còn gọi là cây Trinh nữ Đầm lầy, tên khoa học là Mimosa pigra L.,
thuộc họ Mimosaceae, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Châu Mỹ. Mai dương là loài cây bụi
thường mọc ở nơi đất trống, ẩm ướt ở vùng nhiệt đới. Chúng là cỏ dại ở Malaysia, Myanmar,
Lào, Campuchia và Việt nam. Rễ cọc lớn cắm sâu vào lòng đất dài 1-2 m. Thân phân nhiều
nhánh, cao đến 6 m. Trên thân và cành có nhiều gai nhọn. Lá có hai lần kép lơng chim. Cuống
dài 0,3 -1,5 cm. Sóng lá chét dài 3,5 – 12 cm, có gai thẳng đứng, mảnh, mũi nhọn hướng lên
trên, ở giữa gốc của 6 – 14 cặp lá chét và thỉnh thoảng có gai mọc chệch hoặc mọc giữa các cặp
lá. Mỗi lá chét có khoảng 20 – 42 cặp lá chét con, thuôn, dài; gân lá gần song song với gân giữa,
mép lá có lơng tơ. Hoa màu vàng hoặc hồng, phát hoa hình cầu, đường kính khoảng 1 cm. Trái
có nhiều lơng và có từ 14 - 26 đốt, mỗi đốt chứa một hạt, khi chín rụng từng hạt chừa lại hai bìa.
Đốt trái rất nhẹ, có lơng, do đó rất dễ phát tán theo gió hay trơi theo dòng nước. Phần lớn quần

thể Mai dương nằm tiềm ẩn trong đất dưới dạng hạt (Lonsdale, 1992).
Mai dương có đặc tính sinh trưởng nhanh, sau 6 - 8 tháng tuổi sẽ ra hoa, kết trái. Cây tạo
trái sau khi ra hoa gần 5 tuần và trái chín sau khoảng 3 tháng. Một cây sản sinh tới 9.000 hạt.
Mỗi đốt trái có lơng nên trơi nổi trong nước, do đó hạt phát tán nhanh chóng theo hệ thống sơng
ngịi. Ở vùng đất ẩm ướt, cây ra hoa 4 mùa, hạt Mai dương giữ sức nẩy mầm đến... 23 năm (Cửu
Long, 2004). Nhiệt độ cao cũng không ảnh hưởng đến sức sống của hạt. Mai dương nảy tược rất
mạnh từ gốc đã bị chặt thân (Lonsdale, 1992).
Cây Mai dương thích nghi với mọi mơi trường sống. Theo tính tốn, một cây cho khoảng
10.000 hạt/năm và hạt này có sức sống hơn một năm trên đất khô và từ bảy - tám năm trong mơi
trường nước. Chính vì vậy, khi đã len lỏi vào được khu vực nào mà khơng có cách ngăn chặn
ngay từ đầu thì chúng sẽ nảy nở, lây lan với tốc độ chóng mặt (Cửu Long, 2004).
2


1.2. Tác dụng của cây Mai dương
1.2.1. Bất lợi
Cây Mai dương hình thành những lớp dày đặc và cao, bao phủ lên một diện tích rộng lớn.
Chúng cạnh tranh với cây trồng, gây cản trở các dòng chảy và dẫn đến một số vấn đề về kinh tế
(Robert, 1982). Cây Mai dương đang xâm lấn rất mạnh ở các khu bảo tồn đất ngập nước ở Úc,
Thái Lan, Florida (Mỹ), Châu Phi, Việt Nam… Ở những khu vực Mai dương mọc dày đặc thì các
lồi chim, bị sát, thực vật thân thảo và cây mầm của các loài cây khác ít hơn ở thảm thực vật bản
địa.
Mimosine, một acid amin độc đối với động vật bậc cao đã được trích ly từ cây mai dương
ở nồng độ 0,2 % trọng lượng khơ của lá (Lonsdale, 1992). Mimosine có cấu tạo gần giống với
acid amin, nên chúng cạnh tranh vị trí trao đổi với các acid amin bình thường, gây ra sự rối loạn
trong trao đổi acid amin (Dương Thanh Liêm, 2003). Theo D’Mello và Devendra (1991) chất
mimosine có cấu tạo giống như Thyrosine và DOPA (3,4-dihydroxyphenylalanine), chất chuyển
hóa của thyrosine trong cơ thể, vì vậy nó cũng ức chế trao đổi thyrosine trong cơ thể, nó khơng
cho tạo thành Iodo thyrosine (MIT DIT), chất ban đầu để tuyến giáp tổng hợp ra thyroxin (T3 và
T4). Vì lẽ đó khi thú ăn nhiều cây họ đậu thuộc họ Mimosaceae sẽ có khuynh hướng gây ra bướu

cổ.
Mimosine là amino acid có độc tính, mimosine hạn chế sử dụng của gia súc. Tuy nhiên,
có báo cáo mẫu thuẫn, Vearasilp (1981a) cho rằng mai dương khơng chứa mimosine và có mức
duy nhất là 0,2% trên lá khô (Lonsdale và ctv, 1989). người ta nghi ngờ rằng độc chất mimosine
ở mức thấp hơn 8% đến 10% báo cáo bởi (Everist, 1981) trong cây họ đậu khơ, bình linh
leucaena leucocephala, (Lamk de Witt.).
D/Mello (1991) nghiên cứu về cấu trúc và phân bố của chất mimosin trong một số cây họ
đậu nhiệt đới, đặc biệt là cây bình linh. Nhiều tác giả tham gia nghiên cứu và phân tích xác định
hàm lượng mimosin trong cây bình linh. Cơ chế tác động gây độc hại cũng được làm sáng tỏ.
Trước tiên nitrogen liên kết tạo ra những sản phẩm alkaloide hoặc những acid amin bất thường
tích lũy lại trong cơ thể thực vật dưới dạng sản phẩm trao đổi thứ cấp. Những acid amine này có
cấu trúc gần giống với những acid amin thiết yếu, nhưng nó khơng thể thực hiện chức năng sinh
học như những acid amin thiết yếu, vì vậy nó trở thành yếu tố đối kháng với với acid amin gần
giống với nó ( Dương Thanh Liêm, 2003).
Cơ chế tác động gây độc: chất mimosine có cấu tạo gần giống như tyrosine và DOPA
(3,4-Dihydroxyphenylalanine), chất chuyển hóa của tyrosine trong cơ thể. Vì vậy nên nó cũng ức
chế trao đổi tyrosine trong cơ thể, nó không cho tạo thành mono – và diiodothyrosine (T 1, T2),
chất ban đầu để tuyến giáp tổng hợp ra triiodothyrosine và thyrosine(T 3 và T4). Vì lẽ đó khi thú
ăn nhiều lá cây bộ đậu thuộc họ Mimosaceae, đặc biệt là lá cây bình linh (Leucaena
leucocephala) sẽ có khuynh hướng gây ra bướu cổ. Do mimosine có thêm một vị trí bị oxy hóa
và N thay thế C trong vịng phenol nên nó có ái lực hút iod rất mạnh, vì vậy nó cướp iod khơng
cho q trình iod hóa tyrosine ( Dương Thanh Liêm, 2003).

3


Trong dạ cỏ thú nhai lại, chất mimosine dưới tác động của enzyme biến đổi thành chất
3,4-DHP. Trong lá bình linh cũng có loại enzyme này, do đó sau khi thu hoạch hàm lượng 3,4DHP cũng tăng dần lên. Chất DHP tiếp tục thoái biến, liên kết dưới dạng conjugat thải ra theo
phân, mặt khác nó bị phá hủy vịng nhân thơm để trở thành yếu tố không gây độc thải ra ngồi.
Theo tác giả D/ Mello (1991) thì có đến 57% lượng mimosine mà dê ăn vào bị phá hủy theo con

đường này, vì vậy mà mimosine ít gây ngộ độc cho loài thú này.
Ở Việt Nam sự xâm lấn của Mai dương đã đến mức báo động, ảnh hưởng đến hệ sinh
thái, kinh tế - xã hội của nhiều vùng. Vườn Quốc gia Tràm Chim (Tam Nông, Đồng Tháp) có hệ
sinh thái đa dạng. Thế nhưng, diện tích Vườn Quốc Gia đang ngày một bị thu hẹp, các hệ động thực vật bản địa cũng đang biến mất dần bởi sự xâm lấn của Mai dương. Cây Mai dương mọc ở
đâu thì hệ thực vật ở đó sẽ bị tiêu diệt, sâu bọ khơng ăn được, chim chóc không dám đậu, động
vật không dám tới gần. Các chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu đất ngập nước nhiệt đới - Đại học
Northem Territory (Úc) cảnh báo, trong vài năm tới, Vườn Quốc gia Tràm Chim sẽ bị xóa sổ,
nếu như không diệt trừ tận gốc cây Mai dương (Cửu Long, 2004).
1.2.2. Có lợi
Cây Mai dương có khả năng cố định đạm. Rễ cây chứa vi khuẩn cố định đạm Rhizobium
(Lonsdale và ctv, 1989). Năm 1947, Mai dương được giới thiệu từ Indonesia sang Thái Lan để
làm phân xanh và bao phủ đất trồng thuốc lá và sau đó dùng để chống xói mịn (Napompeth,
1983). Ở Úc, cây Mai dương được trồng để làm tăng độ phì nhiêu của đất, phân bố chất dinh
dưỡng ở tầng đất thấp hơn lên tầng đất mặt, vì thế thuận lợi cho việc trồng rau sau khi làm sạch
Mai dương (Miller, 2004).
Mai dương được sử dụng làm thuốc trị cảm lạnh, sốt, đau răng, thuốc chữa mắt, trị rắn
cắn, đau tim, tiêu chảy và là chất sát trùng…(Miller, 2004). Ở Việt Nam, cây mai dương được sử
dụng làm củi, làm hàng rào, gỗ Mai dương được sử dụng làm vật liệu để trồng nấm (Nguyễn
Văn Đúng và ctv, 2001) .
1.3. Sử dụng mai dương làm thức ăn cho động vật
Mai dương chứa protein thô cao (20%-23%), chúng có thể sử dụng làm thức ăn cho động
vật (Vearasilp và ctv, 1981a). Mai dương chứa mimosine ở nồng độ 0,2 % trọng lượng khô của lá
(Lonsdale, 1992). Trong môi trường dạ cỏ, phần lớn lượng mimosine mà dê ăn vào sẽ bị phá hủy
dưới tác dụng của enzym, vì vậy mà mimosine ít gây độc cho loài thú này (D’Mello và Devendra,
1991).
Ở Thái Lan, khi cho cừu ăn mai dương ở mức thấp kết hợp với cỏ lông para (Brachiaria
mutica), mai dương không làm giảm sự tiêu hóa thức ăn và được xem là thành phần thức ăn
chứa protein cao (Vearasilp và ctv, 1981b). Trong một nghiên cứu, trâu sử dụng rơm cộng với
mai dương thì ít giảm trọng lượng hơn so với chỉ ăn rơm (Niemsup and Siri, 1983). Bò và dê ở
Thái Lan được quan sát là có sử dụng cành non của cây Mai dương. Ở Úc, mai dương cũng được

tiêu thụ bởi ngựa, trâu và bò (Miller, 1988; Londale, 1989).
Bajhau và Cox (2000) thí nghiệm trên 22 con dê, được chia làm hai nhóm: một nhóm
được chăn thả trên bãi có cây Mai dương mọc và một nhóm được chăn thả trên bãi cỏ Pangola
4


(Digitaria decumbens). Cả hai nhóm được cấp nước tự do nhưng khơng bổ sung thức ăn. Thí
nghiệm được tiến hành trong 12 tuần. Thành phần dinh dưỡng lá và thân non có kết quả là 42%
vật chất khơ (DM), 18,3% protein thô (CP), 0,2% P và 1,36% Ca trên vật chất khơ. Hai ơng kết
luận dê có khả năng sử dụng mai dương khi nguồn thức ăn khác khơng có sẵn và mai dương
khơng có ảnh hưởng có hại nào đến dê thí nghiệm.
Với khẩu phần cơ bản là cỏ lơng para bổ sung mai dương vào khẩu phần có kết quả là khả
năng tiêu hoá các dưỡng chất khá tốt biến động từ 68% đến 73%. Mức ăn protein ăn vào cao hơn
ở dê ăn Mimosa pigra với mức ăn vào tương tự phản ánh một protein cao và ngon của cây họ
đậu. Dê rất thích ăn mai dương và gai của cây mai dương không ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa của
dê khi sử dụng mai dương trong khẩu phần (Nguyễn Thị Thu Hồng, 2005).
2. Đặc điểm về cây Bình linh
Cây Bình linh cịn có tên gọi khác là keo dậu, giang tây, táo nhơn (Trung Bộ) hay bọ
chít...Tên khoa học: Leucaena leucocephala. Bình linh có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Trung Mỹ,
là loài cây bụi, thuộc họ đậu và sinh trưởng ở vùng nhiệt đới. Loại cây này khi còn non rất hợp
với khẩu vị của vật nuôi, protein tương đương với cây so đũa; trâu, bị, dê, cừu đều ăn được
(Nguyễn Thành Hải, 1988). Bình linh mọc tự nhiên ở những vùng ven biển, dọc dun hải miền
trung, cây Bình linh chính thức nhập từ Úc vào Việt Nam năm 1990, trong quá trình triển khai dự
án nghiên cứu và phát triển bò thịt do viện nghiên cứu chăn ni quốc gia chủ trì. Đây là một
trong những cây họ đậu thân gỗ dùng lá làm thức ăn gia súc, gia cầm rất có giá trị.
Bình linh là cây họ đậu lâu năm, thân bụi hoặc thân gỗ, có thể cao đến 10 m, lá rộng, kép
lông chim dài từ 15 – 20 cm. Lá chét nhỏ hơi thuôn xếp thành 11 – 17 cặp dọc theo lá chét của lá
lông chim. Hoa màu trắng hoặc vàng và phát triển thành quả phẳng dài khoảng 20 cm, chứa
những hạt màu nâu đen hình ovan, hạt dài 6 mm, rễ có thể đâm sâu từ 2,5 – 4 m. Cây Bình linh
chịu hạn rất tốt có thể duy trì bộ lá xanh trong suốt mùa khơ (Nguyễn Thiện, 2003).

Bảng 1: Thành phần hóa học của cây Bình linh (tính trên vật chất khơ)
Thành phần

DM

CP

OM

NDF

ADF

Tham khảo

Phân tích

(g/kg)

(g/kg)

(g/kg)

(g/kg)

(g/kg)

Lá và thân non
bình linh


262

253

_

422

227

Nguyen van hon và ctv,
2005

Lá bình linh

_

260

916

_

_

Kustantinad và ctv, 2005

Lá bình linh

_


302

920

344

_

Bui Huy Nhu Phuc,
2006

Lá và thân non
bình linh

262,4

204,7

932,7

_

_

Nguyen Thi Hong Nhan,
1998

5



Bình linh có chứa độc tố mimosin nên chỉ sử dụng dưới 25% trong khẩu phần cho gia súc
nhai lại, dưới 10% đối với heo và dưới 5% đối với gia cầm. Ở nhiều vùng, cây Bình linh lại bị coi
là loại thực vật xâm hại (Vũ Văn Dũng, 2006).
Bột lá Bình linh được chế biến bằng cách: mùa khơ chặt cành phơi cho lá rụng, nếu trời
mưa thì tuốt lá rang nóng cho khơ, giã thành bột, đóng bao nilon, dự trữ nơi khơ thống. Cho gà
ăn 4 – 6% khẩu phần bột lá bình linh, gà tăng trọng khá, đẻ nhiều, tỷ lệ trứng có phơi tăng trên
7%, ấp nở tăng 15 – 16%, chi phí thức ăn giảm. Cho heo ăn bột lá bình linh cho thấy đến 10% số
heo đều cho tăng trọng khá, đến 10% số bò cũng cho kết quả tăng trọng và tăng lượng
hemoglobin trong máu. Viện Chăn nuôi đã nghiên cứu và có kết luận tỷ lệ bổ sung bột lá bình
linh vào khẩu phần thức ăn gà 2 – 4%; lợn con 2 – 3%, heo nái 5 – 6%; bê nghé 7 - 30% (Viện
chăn nuôi, 2001). Nguyen Thi Hong Nhan (1998) đã tiến hành thí nghiệm trên dê thịt với khẩu
phần sử dụng 100% bình linh có kết quả tỉ lệ tiêu hóa 75,9% cho vật chất khơ và 66,5 % cho
protein thô.
3. Đặc điểm về rau muống
Rau muống có tên khoa học là Ipomoea aquatica Forsk, thuộc họ khoai lang
Convolvulaceae. Lá rau muống hình tam giác hay hình mũi tên, hoa trắng hoặc tím, quả nang,
chứa 4 hạt có lơng màu hung. Rau muống có nguồn gốc nhiệt đới Châu Á, khu vực Nam và Đông
Nam Á, nhiệt đới Châu Phi, Trung Á, Nam Mỹ và Châu Đại Dương.
Bảng 2: Thành phần hóa học của rau muống (g/kg vật chất khơ)
Thành phần hóa
học

DM

CP

OM

NDF


ADF

Tham khảo

Pathoummalangsy
Preston, 2006

(g/kg)

Lá rau muống

103

246

876

_

_

Thân rau muống

86,4

99,1

904


_

_

Lá và thân non rau
muống

80,9

296

_

349

Lá và thân non rau
muống

112

256

867

_

Lá và thân non rau
muống

_


264

888

229

_

Lá và thân non rau
muống

139

232

_

356

229



283

Nguyen Nhat Xuan Dung
và ctv, 2006

_


Chhay Ty và Preston,
2006
Bui Huy Nhu Phuc, 2006
Doan Thi Giang và ctv,
2006

Rau muống là cây ngắn ngày, sinh trưởng nhanh trong mùa mưa, chịu lạnh kém được sử
dụng rộng rãi trong chăn nuôi, trong điều kiện thuận lợi về thời tiết, đủ phân rau muống có năng
6


suất và chất lượng cao. Hàm lượng chất khô ở rau muống trung bình 100 g/kg rau muống tươi.
Rau muống được chia làm 2 loại là rau muống nước và rau muống trồng trên cạn. Rau muống
nước được trồng hoặc mọc tại nơi nhiều nước, ẩm ướt, thậm chí sống tốt khi kết thành một bè và
thả trôi trên kênh mương hay hồ, loại này thân to, cuống thường có màu đỏ. Rau muống cạn trồng
trên luống đất, cần không nhiều nước, thân thường trắng xanh, nhỏ (Trần Khắc Thi, 2005).
Đồng bằng sơng Cửu Long có nhiều sơng ngịi, ao đầm mặt nước rộng lớn, những cây
hoang dại hoặc những cây trồng dưới nước có quanh năm, đặc biệt là rau muống nước (Ipomoea
aquatica). Rau muống ln có sẵn dưới nước hoặc những vùng đất thấp. Rau muống sử dụng làm
thức ăn cho heo và bị ở vùng Đơng Nam Á. Ở nước ta rau muống cũng được sử dụng phổ biến
làm thức ăn xanh trong chăn ni.
Ngồi việc sử dụng rau muống làm thức ăn cho heo, vịt, cá…người ta còn sử dụng rau
muống làm thức ăn cho dê và những loài gia súc nhai lại khác. Lá và cọng rau muống tươi có
hàm lượng protein thơ 28% (tính trên vật chất khô) và hàm lượng xơ thô thấp khoảng 12% (Göhl,
1981). Sử dụng rau muống ở mức 10 và 20g vật chất khô/kg thể trọng của dê và lá khoai mì tươi
cho ăn tự do Pathoummalangsy và Preston (2006) nhận thấy nó khơng ảnh hưởng đến mức ăn
vào, kết quả vật chất khô ăn vào trên ngày tăng 33 và 60%, tương ứng và tăng khả năng tiêu hóa
vật chất khơ và protein thơ.
IV. Phương tiện và phương pháp nghiên cứu

1. Phương tiện
1.1 Địa điểm và thời gian thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành tại nơng hộ ni dê tại phường Mỹ Xuyên, thành phố Long
Xuyên. Thời gian thực hiện từ tháng 8/2006- 3/2007. Các mẫu thức ăn gồm (mẫu thức ăn ăn vào
và mẫu thức ăn thừa của dê ); mẫu phân và mẫu dịch dạ cỏ được phân tích tại phịng thí nghiệm
Khoa Nơng nghiệp – TNTN trường đại học An Giang.
1.2 Vật liệu thí nghiệm
Chuồng nuôi dê cá thể. Các vật dụng cần thiết như xô đựng nước uống cho dê; Dao, lưỡi
hái để thu cắt và cắt ngắn thức ăn; Cân và bọc nylon để cân và lấy mẫu.
Hóa chất và dụng cụ phịng thí nghiệm để phân tích mẫu. Sổ ghi chép, máy vi tính.
1.3 Đối tượng thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên 20 dê đực (dê lai Bách thảo x cỏ) có trọng lượng trung
bình lúc bắt đầu thí nghiệm 13 kg, khoảng 3- 4 tháng tuổi. Các dê đều khỏe mạnh và được tẩy ký
sinh trùng và tiêm phòng lở mồm long móng trước khi vào thí nghiệm, thú thí nghiệm được chăm
sóc như nhau. Cung cấp đầy đủ nước sạch cho dê suốt thời gian thí nghiệm
Thức ăn cho dê gồm: rau muống, bình linh, mai dương được thu cắt lấy hàng ngày từ
vùng ven, ở những bãi đất hoang, bờ ruộng…tại thành phố Long Xuyên. Thức ăn hỗn hợp được
phối trộn có hàm lượng protein thơ tương đương với protein thơ của mai dương và bình linh.

7


2. Thể thức thống kê
2.1 Thí nghiệm tỉ lệ tiêu hóa
Thí nghiệm được bố trí hình vng Latin với 4 nghiệm thức và 4 lần lặp lại tương ứng với
4 giai đoạn, mỗi cá thể dê là một đơn vị thí nghiệm.
Thời gian cho mỗi giai đoạn là 15 ngày, 10 ngày đầu để thú thích nghi với thức ăn, 5 ngày
tiếp theo thu thập mẫu (xem bảng 3). Sau mỗi giai đoạn dê được nuôi tự do 3 ngày, mục đích để
kết quả giai đoạn thí nghiệm sau khơng bị ảnh hưởng bởi giai đoạn trước.
Bảng 3: Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Giai đoạn

Dê A

Dê B

Dê C

Dê D

1

ĐC

30 BL

30 MD

30 HH

2

30 BL

ĐC

30 HH

30 MD


3

30 MD

30 HH

ĐC

30 BL

4

30 HH

30 MD

30 BL

ĐC

2.2 Thí nghiệm ni dưỡng
Thí nghiệm được bố trí hồn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức và 4 lần lặp lại, mỗi dê là
một đơn vị thí nghiệm. Thí nghiệm được tiến hành trong thời gian 3 tháng, dê được cân trước khi
đưa vào thí nghiệm và lúc kết thúc thí nghiệm. Tất cả dê thí nghiệm được cân 2 tuần/ lần trong
suốt thời gian thí nghiệm. Dê được ni thích nghi trong thời gian 10 ngày. Trong thời gian thích
nghi, dê được tẩy ký sinh trùng và tiêm phịng bệnh lở mồm long móng.
3. Các khẩu phần thí nghiệm và cách cho ăn
Các khẩu phần được tính tốn dựa trên thức ăn cơ bản cho dê thịt là rau muống (Ipomoea
aquatica ) sau đó thay thế bằng cây Mai dương (Mimosa pigra), cây Bình linh (Leucaena
leucocephala) và thức ăn hỗn hợp ở mức độ 30% ( tính trên nhu cầu vật chất khô hàng ngày của

từng cá thể dê thí nghiệm). Thức ăn hỗn hợp được phối hợp khẩu phần sao cho có hàm lượng
protein thơ gần tương đương với hàm lượng protein thô của mai dương và bình linh (tính trên vật
chất khơ), với thành phần được trình bày ở bảng 4.
Bốn khẩu phần sử dụng trong thí nghiệm là:
- 30 MD: 30% mai dương + rau muống cho ăn tự do
- 30 BL: 30% bình linh + rau muống cho ăn tự do
- 30 HH: 30% thức ăn hỗn hợp + rau muống cho ăn tự do
- ĐC: 100% rau muống (rau muống cho ăn tự do)
8


Thức ăn hỗn hợp trong thí nghiệm được phối trộn từ cám và bánh dầu đậu nành là những
thực liệu khơ và ở dạng bột. Trong đó hàm lượng protein của cám mịn là 13,21% và bánh dầu
đậu nành là 45,41% tính trên vật chất khơ. Áp dụng phương pháp hình vng Pearson để phối
hợp khẩu phần. Kết quả phân tích hàm lượng protein thơ của thức ăn hỗn hợp là 24,17% tính trên
vật chất khơ.
Bảng 4: Thành phần ngun liệu và thành phần dinh dưỡng của thức ăn hỗn hợp thí
nghiệm
Thành phần thực liệu
Tỉ lệ (%)
Hàm lượng protein thơ trong thực liệu (% tính trên vật chất khơ)
- Cám mịn
13,21
- Bánh dầu đậu nành
45,41
Tỉ lệ nguyên liệu ở trạng thái cho ăn trong thức ăn hỗn hợp (%) của thí nghiệm
- Cám mịn
27,3
- Bánh dầu đậu nành
72,7

Cách cho dê thí nghiệm ăn
Rau muống được cho vào máng để dê chọn lựa. Mai dương và bình linh được treo nguyên
cành tươi để dê tự do chọn lựa. Thức ăn hỗn hợp được cho vào các xô riêng để không lẫn vào rau
muống.
Lượng thức ăn được tính cho dê là 3% trọng lượng cơ thể tính trên vật chất khơ/ngày.
Thức ăn cho dê được cân vào mỗi buổi sáng, dê được cho ăn 50 % khẩu phần vào 8 giờ sáng, 2
giờ chiều cho ăn 50% khẩu phần còn lại.
Đối với thí nghiệm ni dưỡng, lượng rau muống được cho ăn tự do với số lượng khoảng
120% mức ăn vào của tuần trước. Lượng mai dương, bình linh và thức ăn hỗn hợp sẽ được cho
ăn khoảng 30% so với nhu cầu vật chất khô/ ngày (3% trọng lượng cơ thể)
4. Cách thu thập và phân tích số liệu
4.1 Cách thu thập số liệu
4.1.1

Phương pháp xác định hàm lượng dưỡng chất

Mẫu thức ăn được lấy theo nguyên tắc trải khoảng 2 kg thức ăn đã cắt ngắn trên mặt
phẳng vuông, vạch hai đường chéo, lấy trong phạm vi hai tam giác đối xứng, bỏ phần còn lại.
Phần mẫu sau khi lấy được trộn đều và tiếp tục lấy theo nguyên tắc trên khi mẫu còn lại khoảng
100g (Lưu Hữu Mãnh và Nguyễn Nhựt Xuân Dung, 2002). Mẫu thức ăn xanh sau khi thu phải
được sấy ở nhiệt độ 65 oC. Mẫu được cân trọng lượng trước và sau khi sấy, hàm lượng nước ban
đầu được ghi nhận, nó rất cần thiết để xác định hàm lượng vật chất khô của mẫu phân tích sau
này.
Xác định vật chất khơ và protein thơ bằng phương pháp phân tích phỏng định của
Weende, Protein thơ được xác định bằng phương pháp Kjeldalh (N*6,25) và tro được xác định
bằng cách nung mẫu ở 550 oC theo AOAC (1990).
9


4.1.2


Xác định lượng dưỡng chất ăn vào

Thức ăn (TA) được cân trước khi cho dê ăn vào lúc 8 giờ sáng và 14 giờ chiều mỗi ngày.
Sáng sớm hôm sau cân lại lượng thức ăn thừa từ đó tính ra được lượng thức ăn dê ăn vào mỗi
ngày theo công thức:
Lượng thức ăn ăn vào/ngày = Lượng TA trước khi cho ăn - lượng TA thừa
4.1.3

Thu thập số liệu xác định tỉ lệ tiêu hóa

* Phương pháp xác định tỉ lệ tiêu hóa

Lượng DC ăn vào - Lượng DC trong phân
% TLTH ( DC) =

x 100
Lượng DC ăn vào

* Lượng thức ăn ăn vào (A)
X1 + X2 + X3 + X4 + X5
A=
5
Với X1, X2 , X3 , X4, X5: lần lượt là lượng thức ăn ăn vào của ngày lấy mẫu thứ 1, 2, 3, 4, 5.
* Lượng phân thải ra (P)
Y1+ Y2+ Y3+ Y4+ Y5
P=
5
Với Y1, Y2,Y3,Y4,Y5: lần lượt là lượng phân thải ra vào các ngày lấy mẫu thứ 1, 2, 3, 4, 5
* Mẫu phân

Phân dê thí nghiệm được thu mỗi ngày một lần vào buổi sáng trước khi cho ăn. Mẫu phân
tích được lấy ra từ phân bài thải hàng ngày và được cất vào tủ đông, nhiệt độ -18oC. Sau mỗi giai
đoạn 5 ngày phân được làm rã đông và trộn chung mẫu của 5 ngày dùng để phân tích. Các chỉ
tiêu phân tích gồm vật chất khô, protein thô, tro.
4.1.4

Môi trường dạ cỏ của dê thí nghiệm

* Cách lấy dịch dạ cỏ: dê được lấy dịch dạ cỏ ở 2 thời điểm trước khi cho ăn (7 giờ sáng)
và sau khi cho ăn 3 giờ (10 giờ trưa) để đo độ pH, xác định hàm lượng NH3 và đếm protozoa .
Dịch dạ cỏ được lấy thông qua đường miệng, thực quản của dê thí nghiệm.

10


Hình 1: Cách lấy mẫu dịch dạ cỏ dê
* Phương pháp xác định protozoa
Hút 1ml dịch dạ cỏ cho vào cốc 50 ml. Sau đó dùng 1 ml dịch dạ cỏ pha với 5 ml dung
dịch MFS và dùng buồng đếm Malasser để đếm. Protozoa được đếm với kính hiển vi có vật kính
X10. Số lượng protozoa được tính theo cơng thức:
Số protozoa đếm được * độ pha lỗng
Số protozoa / ml =

X 100
Độ dày buồng đếm

Hình 2: Phương pháp xác định protozoa
11



* Xác định hàm lượng amoniac ( NH3 ) dịch dạ cỏ
Dịch dạ cỏ sau khi thu được đem về phịng thí nghiệm phân tích hàm lượng amoniac bằng
phương pháp Kjeldalh.
* Phương pháp xác định độ pH
Cho khoảng 10 ml dịch dạ cỏ vào trong beaker nhỏ, sau đó dùng pH kế để đo.
4.1.5

Xác định tăng trọng của dê thí nghiệm

Tăng trọng của dê = Trọng lượng cuối kì thí nghiệm - trọng lượng đầu kì thí nghiệm.
4.2 Phân tích thống kê
Tất cả các số liệu sau khi thu thập, được xử lý bằng mơ hình tuyến tính tổng qt (general
linear model) của chương trình Minitab, phiên bản 13.2.

12


B. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
I. Thí nghiệm tỉ lệ tiêu hóa và mơi trường dạ cỏ
1. Thành phần dinh dưỡng của các thực liệu thí nghiệm
Trước khi tiến hành thí nghiệm, một kiểm tra nhỏ về tập tính chọn lựa thức ăn của dê đối
với bình linh và mai dương, nhằm xác định xem phần nào dê thích ăn và phần nào dê khơng
thích. Cây Mai dương được sử dụng nguyên và treo cho dê ăn. Kết quả cho thấy phần dê ăn là
những lá chét, đọt non, hoa, thân non và một ít trái non. Phần dê khơng ăn là sóng lá chét, trái già
và thân già. Đối với bình linh, phần dê ăn nhiều nhất là lá chét, đọt non, một ít trái non và cành
non, phần dê không ăn được là những nhánh già.
Thành phần dinh dưỡng của mai dương, bình linh, rau muống phụ thuộc vào từng mùa vụ,
từng vùng, điều kiện khí hậu và thời gian thu cắt. Cây mai dương, bình linh trong thí nghiệm này
được thu cắt tại thành phố Long Xuyên chủ yếu ven các bờ đê, đất canh tác bỏ hoang, dưới các
kênh rạch…

Thành phần hóa học của mai dương, bình linh, rau muống, thức ăn hỗn hợp được thể hiện
trong bảng 5.
Bảng 5: Thành phần hóa học của mai dương, bình linh, rau muống, thức ăn hỗn hợp
Thành phần

Mai dương

hóa học
Vật chất khơ, (g / kg)
g / kg (Vật chất khơ)
Protein thơ
Chất hữu cơ
Số mẫu

Bình linh

Rau muống

Thức ăn

402,0

292,50

114,9

hỗn hợp
896,4

212,1

928,2
6

231,7
897,5
6

161,9
859,8
6

241,7
910,6
5

Trong thí nghiệm này vật chất khơ của mai dương (40,2%) cao hơn vật chất khơ của bình
linh (29,25%). Khi so sánh hàm lượng vật chất khô của mai dương với kết quả khác cho thấy hàm
lượng vật chất khô của mai dương trong thí nghiệm này cao hơn so với kết quả (36,04 %) của
Nguyễn Thị Thu Hồng (2005), thấp hơn so với kết quả (42%) của Bajhau và Cox (2000). Khi so
sánh với kết quả phân tích của cây họ đậu khác, hàm lượng vật chất khô của mai dương cao hơn
kết quả phân tích so đũa (27,90 %) của Nguyen Thi Hong Nhan (1998) và kết quả (19,40 %) của
Nguyen Van Hon và ctv (2005).
Hàm lượng vật chất khơ của bình linh là (29,25 %) tương đương với kết quả (30 %) trong
nghiên cứu của Devendra (không ngày tháng) và cao hơn kết quả (26,2%) của Nguyen Thi Hong
Nhan (1998).
Bình linh và mai dương sử dụng trong thí nghiệm này được thu cắt từ những bãi đất
hoang bỏ trống, đa số là cây hoang dại, mai dương và bình linh đang trong mùa thay lá (thí
13



nghiệm tiến hành từ tháng 8/2006 đến tháng 3/2007). Kết quả phân tích vật chất khơ cao là do
các lá chét trên thân cây rụng bớt một phần.
Vật chất khô của rau muống trong thí nghiệm là (11,49 %) cao hơn kết quả (8,12% ) của
Chhay Ty và Preston (2005), (8,49 %) của một thí nghiệm trên heo của Chittavong Malavanh và
Preston (2006), (11,3 %), trên thân rau muống (9,23%) của Pheng Buntha và Chhay Ty (2006),
(10,3 %) của lá rau muống và (8,64 %) của thân rau muống kết quả của Pathoummalangsy
Khamparn và Preston (2006) và thấp hơn kết quả (13,2 %) của Tran Hoang Chat và ctv (2005).
Điều này một phần là do rau muống được mua từ các hộ trồng rau muống đồng ven thành phô
Long Xuyên, nên rau muống được thu cắt với chiều dài khoảng 0,6 – 1m, tỉ lệ thân nhiều hơn lá
nên đã làm tăng lượng vật chất khô. Theo Hồ Thị Phương Thảo (2005) cho rằng “năng suất khô
của các loại cỏ có thể đạt đến mức tối đa khi nó sắp trổ bông và tốc độ sinh trưởng bắt đầu giảm”.
Mai dương và bình linh thuộc họ đậu Leguminosae cho nên nó có hàm lượng protein thơ
cao (Lebas và ctv, 1986) và trong thí nghiệm này hàm lượng CP của bình linh và mai dương cao
tương đương nhau với các giá trị 23,17% và 21,21% tương ứng. Hàm lượng protein thô của mai
dương trong thí nghiệm này là 21,21 % (tính trên vật chất khô) cao hơn kết quả (18,30 %) của
Bajhau và Cox (2000), kết quả (18,19 %) của Trần Thị Kim Chung (2006), tương đương với kết
quả (20,69 %) của Nguyễn Thị Thu Hồng (2005).
Protein thơ của bình linh (23,17%) trong thí nghiệm này cao hơn kết quả (22,2 %) của
Devendra (không ngày tháng), (20,5 %) của Nguyen Thi Hong Nhan (1998), thấp hơn kết quả
(30,4 %) của Le Khac Huy và ctv, (25,38 %) kết quả của James và ctv (1986), kết quả (25,30 %)
của Nguyen Van Hon và ctv ( 2005).
Protein thơ của rau muống trong thí nghiệm là (16,19 %) cao hơn kết quả (11,9 %) của
Pheng Buntha và Chhay Ty (2006), thấp hơn kết quả (21,9 %) của Tran Hoang Chat và ctv
(2005), kết quả (20 %) của Chittavong Malavanh và Preston (2006), (24,6 %) kết quả của
Pathoummalangsy Khamparn và Preston (2006).
Sự chênh lệch về thành phần dưỡng chất của các loại cây thức ăn trong các thí nghiệm có
thể giải thích là do hàm lượng dưỡng chất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, tùy thuộc vào từng
vùng, từng mùa và thành phần thu cắt của thức ăn, trạng thái phát triển của cây, tầng đất mẹ, số
lượng cây con trên một đơn vị diện tích (Andru và ctv, 1991)1.
Hàm lượng chất hữu cơ (92,82%) của mai dương trong thí nghiệm này tương đương với

kết quả (92,82 %) của Mai Xuân Thảo (2005), thấp hơn kết quả (93,91 %) của Trần Thị Kim
Chung (2006) và Bạch Văn Hiệt (2006).
Khi so sánh hàm lượng chất hữu cơ (89,75%) của bình linh trong thí nghiệm này tương
đương với kết quả (89,30 %) của James và ctv (1986), thấp hơn kết quả của (93,27 %) của
Nguyen Thi Hong Nhan (1998) và kết quả (91,60 %) của Kustantinah và ctv (2005)
Hàm lượng chất hữu cơ của rau muống là (85,98 %) thấp hơn kết quả phân tích hàm
lượng chất hữu cơ trên lá rau muống (87,6 %) và (90,4 %) trên thân rau muống thí nghiệm của
Pathoummalangsy Khamparn và Preston (2006).
1

Nguyễn Thị Mùi và ctv, 2000 trích dẫn

14


2. Mức ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm
Bảng 6: Mức ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm
Khẩu phần

Chỉ tiêu

SE

P

495,90a

19,72

0,009


48,06b

82,59a

2,95

0,004

281,12b

428,14a

17,12

0,007

(g/con/ngày)

30 MD

30 BL

ĐC

30 HH

Vật chất khô

514,11a


523,02a

334,05b

Protein thô

83,23a

82,15a

Chất hữu cơ

443,54a

448,53a

Ghi chú: các ký tự khác nhau trên cùng một dòng là khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05).

2.1. Mức vật chất khô ăn vào
Lượng thức ăn tiêu thụ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới tăng trọng của gia súc nhai
lại, trong đó nhu cầu về khối xác, chất lượng thức ăn (dưỡng chất và tỉ lệ tiêu hóa) và tính ngon
miệng là những yếu tố quan trọng nhất đối với lượng thức ăn tiêu thụ. Lượng thức ăn tiêu thụ trên
ngày được qui về vật chất khô tiêu thụ (Nguyễn Văn Thu, 2003).
Kết quả ở bảng 6 cho thấy mức vật chất khô ăn vào cao nhất ở khẩu phần bổ sung bình
linh (523,02 g/con/ngày) kế đến là khẩu phần bổ sung mai dương (514,11 g/con/ngày), khẩu phần
hỗn hợp (495,90 g/con/ngày) và cuối cùng thấp nhất là khẩu phần rau muống (334,05
g/con/ngày), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
Mức vật chất khô ăn vào của khẩu phần bổ sung mai dương thấp hơn kết quả (619,47
g/con/ngày) với khẩu phần cỏ lông para bổ sung mai dương 30 % trong nghiên cứu của Nguyễn

Thị Thu Hồng (2005) điều này có thể giải thích do hàm lượng vật chất khô của cỏ lông para cao
hơn rau muống (24,18 %) và cỏ lơng para có hàm lượng dưỡng chất cân đối, thân và lá cỏ lông
para mềm nên gia súc nhai lại rất thích ăn (Phùng Quốc Quảng, 2002).
Trong khẩu phần bổ sung bình linh, kết quả cho thấy mức vật chất khô ăn vào cao hơn kết
quả (370 g/con/ngày) trong nghiên cứu của Nguyen Van Hon và ctv (2005) khi cho dê sử dụng cỏ
vetiver bổ sung bình linh ở mức 25 %. Thành phần dinh dưỡng của cỏ vetiver thấp với protein
thô 11,3 % trong khi đó hàm lượng NDF và ADF khá cao (71,1 % và 33 % tương ứng) do đó đã
làm hạn chế mức ăn vào của dê thí nghiệm.
Lượng vật chất khô ăn vào của khẩu phần bổ sung thức ăn hỗn hợp trong thí nghiệm cao
hơn kết quả nghiên cứu của Lê Thị Thùy Diệp (2002) khi cho dê sử dụng khẩu phần cơ bản là cỏ
lông para và cỏ vetiver. Theo tác giả, kết quả nghiên cứu cho thấy lượng ăn vào của các khẩu
15


phần này rất thấp so với một số cây thức ăn khác. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lượng ăn
vào của gia súc như trạng thái sinh lý, tính ngon miệng, chế độ làm việc, kiểu di truyền ...
Ngun nhân chính dẫn đến vật chất khơ ăn vào của dê thí nghiệm thấp do ảnh hưởng bởi hàm
lượng vật chất khô và mức ngon của thức ăn. Mức vật chất khô ăn vào của khẩu phần bổ sung
thức ăn hỗn hợp tương đương với kết quả nghiên cứu của Kustantinah và ctv (2005) khi sử dụng
khẩu phần phổ biến của người chăn ni sau đó bổ sung thức ăn hỗn hợp vào khẩu phần hay bổ
sung bột lá bình linh vào khẩu phần. Rõ ràng các nguyên liệu cám mịn và bánh dầu đậu nành
ngon hơn các thức ăn ủ xanh đối với dê.
Vật chất khô ăn vào của khẩu phần rau muống là 334,05 g, thấp hơn kết quả nghiên cứu
của Pathoummalangsy Khamparn (2006) khi sử dụng lá khoai mì kết hợp với rau muống ở mức
10 % và 20 % tính trên trọng lượng cơ thể (395 g/con/ngày và 494 g/con/ngày, tương ứng).
2.2. Mức protein thô ăn vào của khẩu phần thí nghiệm
Mức protein thơ ăn vào của các khẩu phần thí nghiệm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05). Cao nhất là khẩu phần bổ sung mai dương, tiếp theo là khẩu phần bổ sung thức ăn hỗn
hợp, bình linh và cuối cùng thấp nhất là khẩu phần sử dụng hoàn toàn rau muống với các giá trị
83,23; 82,59; 82,15 và 48,06 g/con/ngày, tương ứng (xem bảng 6). Điều này có thể giải thích là

do rau muống chứa nhiều nước làm lượng vật chất khô ăn vào thấp nên hàm lượng protein thơ có
trong khẩu phần này cũng thấp hơn so với các khẩu phần chứa mai dương bình linh và thức ăn
hỗn hợp, tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa.
Trong khẩu phần bổ sung mai dương, mức protein thô ăn vào của dê thí nghiệm thấp hơn
kết quả của Nguyễn Thị Thu Hồng (2005) khi sử dụng cỏ lông para bổ sung mai dương 30 % là
104,97 g/con/ngày. Điều này hồn tồn phù hợp vì mức vật chất khơ ăn vào của khẩu phần mai
dương bổ sung cỏ lông para cao hơn nên protein thô ăn vào sẽ cao hơn.
Đối với khẩu phần bổ sung bình linh protein thơ ăn vào trong thí nghiệm này thấp hơn
(137 g/con/ngày) kết quả của Nguyen Thi Hong Nhan (1998) nhưng cao hơn (43 g/con/ngày) kết
quả của Nguyen Van Hon và ctv (2005) khi sử dụng cỏ vetiver có bổ sung bình linh vào khẩu
phần cho dê thí nghiệm. Cũng trong nghiên cứu của Nguyen Van Hon và ctv (2005) cho thấy
mức protein thơ ăn vào của dê thí nghiệm đối với các khẩu phần cỏ vetiver bổ sung lá so đũa và
trichanthera đều ở mức thấp. Protein thô ăn vào của khẩu phần rau muống có kết quả 48,06
g/con/ngày, kết quả này tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của thí nghiệm.
2.3. Mức chất hữu cơ ăn vào của dê thí nghiệm
Chất hữu cơ là nguồn cung cấp năng lượng, vitamin, protein cho hệ vi sinh vật dạ cỏ hoạt
động và nhu cầu của cơ thể con vật. Từ kết quả ở bảng 6 cho thấy mức chất hữu cơ ăn vào của
các khẩu phần bổ sung mai dương; bình linh; hỗn hợp và khẩu phần rau muống lần lượt là 443,54
g/con/ngày; 448,53 g/con/ngày; 428,14 g/con/ngày và 281,12 g/con/ngày. Mức chất hữu cơ ăn
vào của các khẩu phần thí nghiệm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
3. Tỉ lệ tiêu hóa dưỡng chất của các khẩu phần thí nghiệm

16


Không thể xác định giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn nếu không thể hiện khả năng tiêu hóa
dinh dưỡng của chúng (Smit, 1991)2. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến của các khẩu phần thí nghiệm được
trình bày qua bảng 7.
Bảng 7: Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến của các khẩu phần thí nghiệm (%)


Chỉ tiêu

Khẩu phần

SE

P

79,05b

2,52

0,03

78,73

87,29

2,86

0,29

65,79a

81,76b

2,44

0,02


30 MD

30 BL

ĐC

30 HH

Vật chất khô

77,03ab

76,62ab

64,04a

Protein thô

85,89

86,75

Chất hữu cơ

77,52a

78,66b

Ghi chú: các ký tự khác nhau trên cùng một dòng là khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05).
3.1. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein thô

Protein cung cấp các acid amin cho sự tăng trưởng, sinh sản tế bào, sản xuất các hormon,
các sản phẩm giàu protein (lông, bào thai, trứng, sữa) của con vật. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein
thơ của khẩu phần thức ăn hỗn hợp là cao nhất (87,29 %) kế đến là khẩu phần bình linh (86,75
%), khẩu phần mai dương (85,89 %) và thấp nhất là khẩu phần rau muống (78,73 %), sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) (xem bảng 7). Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein thơ
ở khẩu phần bổ sung mai dương cao hơn (73,67 %) của khẩu phần cỏ lông para bổ sung 30 %
mai dương kết quả của Nguyễn Thị Thu Hồng (2005).
Kết quả tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein thơ ở khẩu phần 30 BL cao hơn (63,7 %) ở khẩu
phần so đũa và (66,5 %) ở khẩu phần bình linh trong kết quả của Nguyen Thi Hong Nhan (1998).
Điều này có thể giải thích là hàm lượng vật chất khơ ăn vào của dê trong thí nghiệm của Nguyen
Thi Hong Nhan (1998) là rất cao và lượng protein thô ăn vào cũng rất cao so với trọng lượng cơ
thể nên dê thí nghiệm khơng thể tiêu hóa tốt. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến protein thô của các khẩu
phần bổ sung mai dương và bình linh đều cao hơn tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến của khẩu phần lá khoai
mì kết hợp với rau muống ở mức 10 % và 20 %/kg thể trọng (81,6 % và 80,8 % tương ứng) báo
cáo của Pathoummalangsy Khamparn (2006).
Trong tiêu hóa của gia súc nhai lại, với mức ăn vào thấp, khơng có protein bất cứ loại cỏ
nào thoát khỏi lên men ở dạ cỏ, nhưng khi lượng ăn vào tăng thì protein thốt qua cũng sẽ tăng.
Reid và ctv (1984)3 tiến hành nghiên cứu và thấy rằng cây bộ đậu nhiệt đới giàu tannin vì vậy
2
3

Nguyễn Thị Mùi và ctv, 2000, trích dẫn
Preston và Leng, 1991, trích dẫn

17


chúng là nguồn protein thoát qua rất tốt cho gia súc nhai lại. Tannin trong cây bộ đậu giữ cho
protein trong khẩu phần khỏi bị phân giải trong dạ cỏ. Vì vậy nếu cây bộ đậu thu hoạch cịn tươi
làm thức ăn bổ sung để cung cấp protein thoát qua thì nên chọn loại cây chứa nhiều tannin, ngay

cả khi nó làm giảm tính ngon miệng và giảm tỉ lệ tiêu hóa xơ nhưng chúng đảm bảo tốc độ sinh
trưởng của gia súc cao hơn. Nguyễn Thị Thu Hồng và ctv (2005) đã tiến hành thu cắt mai dương
trong tự nhiên theo từng thời điểm 30, 45, 60 và 90 ngày và có kết quả phân tích hàm lượng
tannin trong lá mai dương là 3,1%; 4,1%; 8,0 và 9,8% tính trên vật chất khô, tương tứng. Theo
Preston và Leng (1991) khi sử dụng cây bộ đậu chứa nhiều protein đã được bảo vệ thì cần bổ
sung một số nguồn nitơ lên men khác.
Trong nghiên cứu này, bình linh và mai dương là 2 cây họ đậu nên có chứa một hàm
lượng nhỏ tannin, điều này rất tốt cho sự tiêu hóa của gia súc nhai lại. Trong thành phần thực liệu
của thức ăn hỗn hợp có cám mịn và bánh dầu đậu nành, đây cũng là những thực liệu cung cấp
nguồn protein thoát qua cho gia súc nhai lại. Do đó kết quả tỉ lệ tiêu hóa của các khẩu phần rau
muống bổ sung thức ăn hỗn hợp, bình linh và mai dương cao còn do yếu tố kết hợp giữa hai
nguồn protein lên men và nguồn protein thoát qua trong khẩu phần của dê thí nghiệm.
3.2. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khơ
Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khô của các khẩu phần 30 MD; 30 BL; ĐC và 30 HH lần
lượt là 77,03 %; 76,62 %; 64,04 % và 79,05 %, tương ứng. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(P < 0,05) giữa tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khơ của các khẩu phần thí nghiệm (xem bảng 7).
Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khơ ở khẩu phần bổ sung mai dương cao hơn kết quả
(60,02 %) ở khẩu phần 100 % mai dương và (61,42 %) ở khẩu phần mai dương bổ sung cỏ lông
para trong nghiên cứu của Trần Thị Kim Chung (2006) và tương đương (75,39 %) của khẩu phần
cỏ lông para bổ sung 30 % mai dương kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hồng (2005).
Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khơ của khẩu phần bổ sung bình linh ở thí nghiệm này
tương đương (73,6 %) ở khẩu phần chứa so đũa và (75,9 %) ở khẩu phần chứa bình linh trong
nghiên cứu Nguyen Thi Hong Nhan (1998), (74,48 %) của Nguyen Van Hon và ctv (2005).
Khi so sánh tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến vật chất khơ của khẩu phần sử dụng rau muống ăn tự có kết
quả thấp hơn (81,7 %) của Pheng Buntha (2006) và (77,0 %) của Pathoummalangsy Khamparn
(2006) khi cho dê thí nghiệm sử dụng lá khoai mì kết hợp với rau muống ở mức độ 20 %. Điều
này cho thấy khi sử dụng một loại thức ăn đơn lẻ, nhất là thức ăn có hàm lượng nước cao như rau
muống làm hạn chế mức ăn vào và khả năng tiêu hóa dưỡng chất do đó làm ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng cũng như sản xuất của vật ni.
3.3. Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến chất hữu cơ

Tỉ lệ tiêu hóa biểu kiến chất hữu cơ của các khẩu phần thí nghiệm là 77,52 %; 78,66 %;
81,76 % và 65,79 % tương ứng với các khẩu phần bổ sung mai dương; bình linh; thức ăn hỗn hợp
và cuối cùng là khẩu phần đối chứng, tương ứng.
Kết quả tiêu hóa biểu kiến chất hữu cơ của khẩu phần mai dương trong thí nghiệm này
cao hơn (60,72 %) ở khẩu phần mai dương và (60,92 %) ở khẩu phần mai dương bổ sung cỏ lông
para kết quả của Trần Thị Kim Chung (2006) và tương đương (76,08 %) với khẩu phần cỏ lông
18


×