Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực trạng hiểu và sử dụng từ hán việt của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM

THỰC TRẠNG HIỂU VÀ SỬ DỤNG TỪ HÁN VIỆT
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

HỒNG QUỐC

AN GIANG, THÁNG 08 NĂM 2014


TRANG CHẤP NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG
Đề tài nghiên cứu khoa học "Thực trạng hiểu và sử dụng dụng từ Hán Việt của
học sinh THPT trên địa bàn tỉnh An Giang", do tác giả Hồng Quốc, cơng tác tại Khoa
Sƣ phạm thực hiện. Tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu và đƣợc Hội đồng Khoa học và
Đào tạo Trƣờng Đại học An Giang thông qua ngày 05 tháng 08 năm 2014.
MSĐT:.........
Thư ký
(Ký tên)
………………………..
GHI CHỨC DANH, HỌ, TÊN

Phản biện 1
(Ký tên)

Phản biện 2
(Ký tên)

………………………..
GHI CHỨC DANH, HỌ, TÊN



………………………..
GHI CHỨC DANH, HỌ, TÊN

Chủ tịch hội đồng
(Ký tên)
………………………..
GHI CHỨC DANH, HỌ, TÊN

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu Trƣờng Đại học An Giang đã tạo điều
kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy/cô Hiệu Trƣởng, Hiệu phó và q thầy/cơ trực
tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và tất cả các em học sinh khối lớp 10 (năm học: 2013- 2014)
của 24 trƣờng THPT trên địa bàn tỉnh An Giang đã nhiệt tình giúp đỡ cho tơi trong q
trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
An Giang, ngày 07 tháng 08 năm 2014
Tác giả

Hoàng Quốc

ii


TÓM TẮT
Từ Hán Việt chiếm một số lƣợng rất lớn trong tiếng Việt (chiếm trên 60%) và có
vai trị rất quan trọng trong tiếng Việt. Tuy nhiên, để hiểu nghĩa và sử dụng tốt lớp từ Hán

Việt cũng không phải là dễ dàng do sự phức tạp của nó, nhất là lứa tuổi học sinh nên dẫn
đến hiện tƣợng không hiểu nghĩa của từ Hán Việt, dùng sai từ (khi nói, viết), lạm dụng từ
Hán Việt. HS sinh chƣa nhận thức đƣợc vai trị của ngơn ngữ tiếng Việt nói chung và từ
Hán Việt trong hoạt động giao tiếp cho nên HS có thái độ thờ ơ, thậm chí là xem nhẹ mơn
Ngữ văn trong nhà trƣờng. Bên cạnh đó, phƣơng pháp giảng dạy và trình độ của giáo viên
cũng ảnh hƣởng đến chất lƣợng dạy - học môn Ngữ văn nói chung và từ Hán Việt trong
nhà trƣờng phổ thơng hiện nay.
Để có những đánh giá khách quan về khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của HS
THPT trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay, đề tài tiến hành khảo sát 1.200 học sinh khối
lớp 10 tại 24 điểm trƣờng thuộc ba khu vực khác nhau (nông thôn, miền núi, thành thị)
bằng phiếu điều tra kết hợp với quan sát và phỏng vấn sâu. Trên cơ sở dữ liệu có đƣợc,
nghiên cứu chỉ ra thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của HS hiện nay để từ đó những
ngƣời làm cơng tác giáo dục, GV Ngữ văn tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao
trình độ tiếng Việt (trong đó có từ Hán Việt) cho HS.
Đề tài nghiên cứu thiết kế các dạng bài tập tổ chức hoạt động ngoại khóa nhằm
kích thích hứng thú cho HS học tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng, để từ đó các
em u thích tiếng mẹ đẻ của mình hơn. Bài tập ngoại khóa đƣợc thiết kế các dạng bài tập
về từ Hán Việt phù hợp với năng lực tƣ duy của lứa tuổi HS. Ƣu điểm của hệ thống bài tập
là tính logic và tính khoa học của nó. Các bài tập đƣợc thiết kế theo hƣớng từ đơn giản đến
nâng cao (bài tập nhận diện, khả năng hiểu, bài tập dùng từ, bài tập mở rộng từ). Hệ thống
bài tập này nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng dùng từ Hán Việt cho HS.
Nghiên cứu này cũng đƣa ra một số kiến nghị đối với sở Giáo dục và đào tạo và
GV Ngữ văn. Đối với sở Giáo dục và đào tạo là nên thƣờng xuyên tổ chức bồi dƣỡng kiến
thức Hán Nôm cho GV Ngữ văn. GV Ngữ Văn cũng nên áp dụng nhiều phƣơng pháp khác
nhau để tạo hứng thú trong giờ dạy tiếng Việt nói chung, giờ dạy từ Hán Việt nói riêng.

iii


THE REAL SITUATION OF UNDERSTANDING AND USING SINOVIETNAMESE WORDS OF HIGH SCHOOL STUDENTS

IN AN GIANG PROVINCE
ABSTRACT
The Sino-Vietnamese words account for a very large number of Vietnamese
vocabulary (over 60%) and play an important role in Vietnamese language. However, to
understand the meaning and better use of these Sino -Vietnamese words is not easy
because of its complexity, especially high school students, in which will lead to not
understanding the meaning of the Sino-Vietnamese words (used wrong Sino-Vietnamese
words in speaking and writing), misuse of Sino-Vietnamese words. High school students
are not aware of the role of Vietnamese language in general and the Sino-Vietnamese
words in communicative activities, so students have the attitude of indifference, even
disregard to study the philology in high schools. Beside that, teaching methods and teacher
qualifications also affect the quality of teaching and learning philology courses in general
and the Sino-Vietnamese words in the high schools today.
To obtain an objective assessment of the ability of understanding and using the
Sino-Vietnamese words of high school students in An Giang province today, this research
survey of 1,200 10th grade students at 24 high schools of three different regions (rural,
mountainous, urban) in conjunction with surveys, observes and depth interviews. On the
basis of available data, this findings indicates the status of the understanding and use of the
Sino-Vietnamese words of students today so that those who do educational work,
philology teachers will find appropriate solutions to improve the Vietnamese language
(including the Sino -Vietnamese words) for high school students.
This research also designed exercises organized forms of extracurricular activities
to stimulate students interest in learning Vietnamese language in general and the SinoVietnamese words in particular, so that the students will love more of their mother tongue.
Extracurricular exercises designed forms from Sino-Vietnamese words suitable for
students' capacity. The advantage of the system is logical and science of it. The exercises
are designed from simple to advance (Sino-Vietnamese words identification exercises, the
ability of understanding Sino-Vietnamese words exercises, exercises of using SinoVietnamese words, exercises of extending Sino-Vietnamese words). This exercise system
aims to train the skills for students using the Sino-Vietnamese words.
This study also provides some recommendations for Board of Education and
training of An Giang province and Philology teachers. For Board of Education and training

should be regularly organized classes for teachers to enrich knowledges in Han Nom.
Furthermore, Philology teachers should also apply many different methods to generate
interest in Vietnamese language in general and the Sino-Vietnamese words in particular.

iv


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các kết quả
nghiên cứu là trung thực và chƣa có một tác giả nào khác cơng bố.

Tác giả
Hồng Quốc

v


MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................................... 1
1.1. Tính cần thiết của đề tài .............................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu của đề tài ...................................................................................................... 1
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 2
1.4. Nội dung nghiên cứu của đề tài .................................................................................. 2
1.5. Khả năng triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu ..................................................... 2
1.6. Đóng góp của đề tài .................................................................................................... 2
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................... 4
2.1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu ...................................................................................... 4
2.1.1 Quá trình tiếp xúc và vay mƣợn từ ngữ Hán vào tiếng Việt ................................. 4
2.1.2 Phân loại từ Việt gốc Hán ..................................................................................... 5
2.1.3 Các biện pháp Việt hóa từ ngữ Hán ...................................................................... 9

2.1.4 Vai trò của từ Hán Việt trong tiếng Việt ............................................................ 11
2.2. Lƣợc khảo vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 12
2.3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................... 17
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................. 19
3.1. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................... 19
3.2. Mẫu nghiên cứu ........................................................................................................ 19
3.3. Thiết kế nghiên cứu .................................................................................................. 20
3.4. Công cụ nghiên cứu .................................................................................................. 20
3.5. Tiến trình nghiên cứu ................................................................................................ 21
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ...................................................................... 22
4.1. Phân tích dữ liệu nghiên cứu .................................................................................... 22
4.1.1 Khả năng nhận diện từ Hán Việt ........................................................................ 22
4.1.2 Khả năng hiểu từ Hán Việt ................................................................................. 24
4.1.3 Khả năng sử dụng từ Hán Việt ........................................................................... 27
4.1.4 Khả năng mở rộng từ Hán Việt........................................................................... 32
4.1.5 Thái độ học tập của học sinh .............................................................................. 32
4.1.6 Phƣơng pháp giảng dạy của giáo viên ................................................................ 33
4.2. Thảo luận .................................................................................................................. 35
4.2.1 So sánh khả năng sử dụng từ Hán Việt của học sinh giữa 3 khu vực ................ 35
4.2.2 Nguyên nhân HS sử dụng từ Hán Việt chƣa đúng.............................................. 36
4.2.2.1 Nguyên nhân khách quan ............................................................................. 36
4.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan ................................................................................ 39
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 42
5.1. Kết luận ..................................................................................................................... 42
5.2. Hạn chế của đề tài ..................................................................................................... 43
5.3. Kiến nghị và giải pháp .............................................................................................. 43
5.3.1 Những kiến nghị ................................................................................................. 43
5.3.1.1 Đối với sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang ........................................... 43
5.3.1.2 Đối với giáo viên ......................................................................................... 43
5.3.1.3 Đối với học sinh ........................................................................................... 45

5.3.2 Giải pháp nâng cao khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt cho học sinh .......... 45
5.3.2.1 Hƣớng dẫn học sinh
...................... 46
5.3.2.2 Hƣớng dẫn học sinh sử dụng từ điển Hán Việt............................................ 46
5.3.2.3 Giáo viên thiết kế bài tập tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh ....... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 49
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 51
vi


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐH & THCN: Đại học và trung học chuyên nghiệp
ĐHSP: Đại học Sƣ phạm
ĐHQG: Đại học Quốc gia
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
NXB: Nhà xuất bản
NT: Nội trú
PPDH: Phƣơng pháp dạy học
SGK: Sách giáo khoa
SL: Số lƣợng
T/c: Tạp chí
TH: Tiểu học
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TL: Tỉ lệ
TV: Tiếng Việt
Tr: Trang
VB: Văn bản
VHTĐ: Văn học trung đại


vii


CHƢƠNG 1

GIỚI THIỆU
1.1. TÍNH CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ rất lớn trong vốn từ tiếng Việt (theo các nhà nghiên
cứu, từ Hán Việt chiếm trên 60%) và đóng vai trị rất quan trọng trong cấu tạo thuật ngữ và
trong các phong cách, đặc biệt là trong phong cách văn chƣơng. Vì thế, muốn dạy tốt, học
tốt từ ngữ tiếng Việt nói chung và lớp từ Hán Việt nói riêng, GV và HS khơng thể không
chú ý đến đến lớp từ này. Hiểu và sử dụng tốt lớp từ Hán Việt cũng góp phần rất lớn vào
việc dạy tốt phân môn tiếng Việt và HS sẽ học tốt hơn môn học mà xƣa nay ngƣời ta
thƣờng cho là khô khan này.
Văn bản VHTĐ Việt Nam đƣợc đƣa vào giảng dạy ở trƣờng THPT chiếm một số
lƣợng khá lớn. Việc tuyển chọn những văn bản VHTĐ tiêu biểu đƣa vào giảng dạy với
mục đích bồi dƣỡng cho HS tình cảm cao đẹp, ý thức trân trọng những giá trị tinh thần mà
ông cha để lại. Nhƣng để hiểu đƣợc nội dung, tƣ tƣởng của văn bản văn học thời kì này thì
khơng phải là một điều đơn giản. Cái khó nhất khiến cho HS khó hiểu nội dung văn bản
VHTĐ không phải là khoảng cách quá xa giữa nền văn hóa trung đại và văn hóa hiện đại
nhƣ mọi ngƣời thƣờng quan niệm, mà cái khó chính là từ Việt cổ, từ Hán Việt, điển cố
trong các văn bản VHTĐ đó. Khi giảng dạy mơn Ngữ văn, giáo viên (GV) sử dụng nhiều
phƣơng pháp khác nhau nhƣng từ trƣớc đến nay phƣơng pháp diễn giảng đƣợc dùng nhiều
nhất. GV dùng lời để diễn giảng nội dung bài học theo hƣớng từ văn bản đến chữ nghĩa,
chứ rất ít GV giảng bài theo hƣớng từ chữ nghĩa đến văn bản. Trong khi giảng bài, GV
thƣờng giảng say sƣa theo mạch ý và cố gắng truyền tải nội dung tƣ tƣởng của văn bản mà
chƣa chú trọng đến việc giải thích từ ngữ cho học sinh, đặc biệt là các từ Việt cổ, từ Hán
Việt, thành ngữ, điển cố vốn xuất hiện nhiều trong văn bản văn học trung đại, nên dẫn đến
tình trạng là học sinh khơng hiểu từ ngữ, đặc biệt là từ Việt cổ, từ Hán Việt, thành ngữ,

điển cố. Học sinh không hiểu nghĩa của từ Việt cổ, từ Hán Việt, điển cố thì làm sao hiểu
đƣợc trọn vẹn nội dung tƣ tƣởng của văn bản? Ngay cả trong cách hành văn, do HS khơng
hiểu nghĩa từ Hán Việt, nên dẫn đến tình trạng dùng từ không đúng, sai phong cách và lạm
dụng từ Hán Việt.
Để có cơ sở đánh giá khách quan về khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học
sinh THPT hiện nay, đề tài tiến hành điều tra 1.200 học sinh khối lớp 10 của 24 trƣờng
THPT trên địa bàn tỉnh An Giang tại ba khu vực khác nhau (miền núi, nơng thơn, thành
thị). Kết quả phân tích dữ liệu sẽ cho biết thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của HS
hiện nay. Trên cơ sở đó, đề tài cung cấp kiến thức về từ Hán Việt và rèn luyện cho HS
những cách giải nghĩa từ Hán Việt, mở rộng vốn từ Hán Việt qua hệ thống bài tập phù hợp.
Đồng thời, đề tài nghiên cứu cũng đƣa ra những kiến nghị định hƣớng, nhằm góp phần
nâng cao chất lƣợng dạy - học từ Hán Việt nói riêng và dạy - học Ngữ văn nói chung trong
nhà trƣờng phổ thông hiện nay.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Nêu thực trạng dạy - học môn Ngữ văn trong nhà trƣờng THPT hiện nay.
- Tìm hiểu thái độ của học sinh đối với môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông.
- Xác định đƣợc thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT trên
địa bàn tỉnh An Giang.
- Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch về năng lực hiểu và sử dụng từ Hán
Việt của học sinh THPT giữa các vùng (nông thôn, miền núi, thành thị).
- Những nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến thực trạng hiểu và sử dụng
từ Hán Việt của học sinh THPT trên địa bàn tỉnh An Giang.

1


- Cung cấp kiến thức lý thuyết về từ Hán Việt cho học sinh, trên cơ sở đó thiết kế
hệ thống bài tập phong phú, phù hợp cho HS thực hành, nhằm nâng cao hiệu quả trong học
tập môn Ngữ văn và trong thực tế cuộc sống.
- Đề xuất những kiến nghị định hƣớng, biện pháp nâng cao năng lực sử dụng từ

Hán Việt cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh An Giang.
1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tƣợng nghiên nghiên cứu là khả năng hiểu vả sử dụng từ Hán Việt.
Khái niệm từ Hán Việt hay yếu tố Hán Việt trong đề tài đƣợc hiểu là những đơn vị
mƣợn từ tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt, đƣợc du nhập vào tiếng Việt và chịu sự chi phối
của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu: học sinh lớp 10 THPT đang học tại 24 trƣờng thuộc 3
khu vực (miền núi, nông thôn, thành thị) của tỉnh An Giang, đƣợc thực hiện từ tháng
04/2013 đến tháng 04/2014.
1.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về từ Hán Việt (nhƣ nguồn gốc; quá trình
hình thành; vấn đề vay mƣợn từ Hán trong tiếng Việt; cách thức Việt hoá các lớp từ ngữ
Hán; đặc điểm của từ Hán Việt; cở sở nhận diện từ Hán Việt; sự khác biệt giữa từ Hán Việt
và từ thuần Việt và; vai trò của từ Hán Việt trong tiếng Việt).
2. Tìm hiểu thực tế về phƣơng pháp dạy - học Ngữ văn trong các trƣờng THPT trên
địa bàn tỉnh An Giang hiện nay.
3. Thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT hiện nay ở tỉnh An
Giang với 4 mức độ từ dễ đến khó nhƣ sau: nhận diện từ Hán Việt; khả năng hiểu từ Hán
Việt; khả năng sử dụng từ Hán Việt; khả năng mở rộng từ Hán Việt của học sinh.
4. So sánh khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh giữa các vùng (nơng
thơn, miền núi, thành thị).
5. Phân tích những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hƣởng đến khả năng hiểu
và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay.
6. Nghiên cứu thiết kế hệ thống bài tập ngoại khoá nhằm rèn luyện cho HS nâng
cao năng lực hiểu và sử dụng từ Hán Việt.
1.5. KHẢ NĂNG TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Cung cấp luận cứ khoa học cho trƣờng Đại học An Giang mà cụ thể là khoa Sƣ
phạm và trƣờng Phổ thông Thực hành Sƣ phạm, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang
ứng dụng toàn bộ kết quả nghiên cứu này để xây dựng chƣơng trình đào tạo, kế hoạch bồi
dƣỡng kiến thức về từ Hán Việt cho giáo sinh ngành Ngữ văn và giáo viên Ngữ văn giảng

dạy tại các trƣờng phổ thông trong tỉnh. Nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng dạy - học từ
Hán Việt nói riêng và dạy – học Ngữ văn nói chung trong nhà trƣờng phổ thơng hiện nay.
1.6. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài khơng thiên về việc tìm ra quan điểm mới về lý thuyết từ Hán Việt mà thống
nhất với quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trƣớc. Tác giả thực hiện đề tài chỉ mong
muốn mang những kiến thức và những phƣơng pháp của bản thân tích luỹ đƣợc áp dụng
vào thiết kế hệ thống bài tập. Hệ thống bài tập đa dạng, phong phú, phù hợp với tƣ duy của
HS và kết hợp với phƣơng pháp dạy học tích cực, ngƣời thực hiện đề tài này tin rằng HS sẽ
nắm đƣợc và vận dụng từ Hán Việt tốt hơn. Đồng thời, qua hệ thống bài tập này, GV Ngữ
văn ở trƣờng THPT có thể vận dụng để nâng cao khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt
cho HS.
1. Đóng góp về mặt khoa học, phục vụ công tác đào tạo
a) Bồi dưỡng cán bộ khoa học:

2


- Góp phần đào tạo đội ngũ giáo viên Ngữ văn của trƣờng Đại học An Giang trong
nghiên cứu khoa học và trong thực tế giảng dạy.
- Giúp cho sinh viên Sƣ phạm Ngữ văn hiểu biết thực tế và bƣớc đầu làm quen với
nghiên cứu khoa học.
b) Đối với lĩnh vực khoa học có liên quan:
- Có kiến nghị đối với đội ngũ giáo viên nhất là giáo viên Ngữ văn dạy cấp THCS
và THPT.
- Có chiến lƣợc bồi dƣỡng kiến thức về từ Hán Việt, Hán Nôm đối với giáo viên
Ngữ văn trong tỉnh.
2. Những đóng góp về mặt xã hội (các giải pháp cho vấn đề xã hội)
Cung cấp luận cứ khoa học cho lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh An Giang và
Trƣờng Đại học An Giang xây dựng chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng GV Ngữ văn đang
giảng dạy tại các trƣờng THCS và THPT trên địa bàn tỉnh An Giang, nhằm nâng cao chất

lƣợng dạy- học môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thơng nói chung và nâng cao năng lực
sử dụng từ Hán Việt cho HS nói riêng.

3


CHƢƠNG 2

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1.1 Quá trình tiếp xúc và vay mƣợn từ ngữ Hán vào tiếng Việt
Do đặc điểm địa lý, lịch sử mà hai nƣớc Việt Nam và Trung Hoa có quan hệ với
nhau từ rất sớm. Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ về ngơn ngữ - văn hố. Ngơn ngữ
với tƣ cách là cơng cụ giao tiếp có thể vƣợt qua khơng gian và thời gian, trong đó có cả
ranh giới quốc gia, dân tộc để tiếp xúc với nhau. Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là
giữa tiếng Việt và tiếng Hán có sự tiếp xúc từ rất sớm, vào khoảng 2000 năm về trƣớc. Sự
tiếp xúc này để lại nhiều dấu vết trong tiếng Việt hiện đại. Một số lƣợng khá lớn từ ngữ
Hán thuộc nhiều nguồn khác nhau (Hán, Tạng, Miến, Ấn) đã du nhập vào tiếng Việt qua
nhiều giai đoạn và với nhiều phƣơng thức khác nhau. Mặc dù, tiếng Hán và tiếng Việt
không cùng một nguồn gốc. Tiếng Hán thuộc họ Hán - Tạng, tiếng Việt nằm trong nhánh
Việt - Mƣờng thuộc họ Nam Á. Thế nhƣng chúng lại có ƣu thế là cùng loại hình. Đây
chính là một điều kiện thuận lợi cho sự tiếp xúc và vay mƣợn giữa hai ngôn ngữ.
Theo thống kê của H.Maspéro (1912), “trong tiếng Việt có một số lƣợng khá lớn
đƣợc du nhập từ tiếng Hán (chiếm trên 60%). Sự du nhập này có lúc diễn ra chậm chạp, lẻ
tẻ, có lúc diễn ra ồ ạt. Cũng có khi nó đã vào tiếng Việt rồi lại đƣợc biến đổi đi theo các sự
biến đổi ngữ âm của tiếng Việt” (H.Maspéro,1912). Có thể xem xét sự tiếp xúc văn hóa ngơn ngữ Việt-Hán theo từng giai đoạn sau:
Thế kỷ thứ X thƣờng đƣợc các nhà sử học coi là cái mốc để phân đôi lịch sử Việt
Nam làm hai giai đoạn: a) giai đoạn trƣớc thế kỷ X là thời kỳ nƣớc Việt chịu sự đô hộ của
phong kiến phƣơng Bắc, và b) giai đoạn từ thế kỷ thứ X là kỷ nguyên mới của nƣớc Đại
Việt - kỷ nguyên độc lập, tự chủ nƣớc nhà. Trên cơ sở đó có thể lý giải tình hình tiếp xúc

ngơn ngữ, văn hóa Việt - Hán có ảnh hƣởng đến sự du nhập từ vựng tiếng Hán vào tiếng
Việt.
- Thời kỳ trước thế kỷ thứ X
Ngay từ đầu Công nguyên, từ khi phƣơng Bắc đô hộ, tiếng Hán đã đƣợc sử dụng ở
Giao Châu với tƣ cách là một sinh ngữ. Mặc dù ngƣời Hán muốn đồng hóa tiếng nói của
dân tộc Việt, nhƣng tiếng Việt đã có cơ sở vững vàng từ trƣớc vẫn tiếp tục tồn tại. Tuy
nhiên trải qua hàng ngàn năm, một số lẻ tẻ từ Hán thƣờng dùng đã đƣợc ngƣời Việt mƣợn
để lấp vào chỗ thiếu hụt trong tiếng Việt nhƣ: buồng, buồm, muộn, mây, muỗi, đục…
Ngoài 113 yếu tố đơn tiết do Vƣơng Lực tìm ra và sau này tăng lên là 401 do Vƣơng Lộc
phát hiện thêm thì khơng thấy có một thành ngữ nào cả. Sở dĩ có tình hình nhƣ vậy là do
sức mạnh chống lại đồng hóa của ngƣời Việt ở mọi mặt, trong đó có ngơn ngữ. Tiếng Hán
ở Việt Nam trong giai đoạn này chỉ là một sinh ngữ. Học tiếng Hán, sử dụng tiếng Hán là
học, sử dụng một ngoại ngữ. Thời kỳ này ở Giao Châu sử dụng hai loại ngôn ngữ: Việt
ngữ và Hán ngữ, tức là một bên là tiếng Hán một bên là tiếng Việt bình dân và một loại
chữ viết tức là chữ Hán. “Suốt thời kỳ Bắc thuộc, chữ Hán là ngôn ngữ Trung Quốc đƣợc
dùng trong Nhà nƣớc, nhà chùa, thờ cúng tổ tiên, sáng tác văn học, trong ghi chép giấy tờ
hàng ngày. Tổ chức hành chính theo Trung Quốc, phong tục tập quán theo Trung Quốc,
Khổng giáo, Lão giáo của Trung Quốc truyền vào. Phật giáo cũng đƣợc truyền vào từ
Trung Quốc là chính. Nhƣng điều đó khơng làm Việt Nam bị Trung Quốc hóa mà chỉ chịu
ảnh hƣởng của Trung Quốc (Hồng Phong, 1984).
Cuối thời đô hộ, ngƣời Hán mở nhiều trƣờng học, văn ngôn Hán đƣợc truyền bá
rộng rãi cùng với kinh, sử, tử, tập. Nhiều ngƣời Việt đã tinh thông chữ Hán và đã đỗ đạt
cao, sang làm quan ở Trung Quốc, bên cạnh đó lại có những kinh Phật viết bằng chữ Hán.
Qua thƣ tịch, lớp từ văn hóa của ngƣời Hán đƣợc phổ biến cho ngƣời Việt. Nhiều từ biểu

4


thị khái niệm trừu tƣợng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo trong tiếng Hán đƣợc ngƣời
Việt vay mƣợn để lấp khoảng trống thiếu hụt trong ngơn ngữ của mình.

- Thời kỳ từ thế kỷ X
Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ
cho dân tộc, chấm dứt nghìn năm Bắc thuộc. Với nền độc lập tự chủ của mình, các triều đại
phong kiến Việt Nam đã tiếp thu một cách có ý thức nhiều điều của Trung Quốc từ cách tổ
chức hành chính đến cách tổ chức kinh tế, văn hoá, tƣ tƣởng để xây dựng quốc gia Đại
Việt và tiếp tục sử dụng tiếng Hán để xây dựng thể chế chính trị và văn hóa dân tộc, do
tiếng Việt lúc ấy chƣa đủ khả năng để diễn đạt những khái niệm phức tạp. Đọc những văn
bản Nôm rất sớm còn tàng trữ lại đƣợc, chúng ta thấy khá rõ điều ấy. Trong các văn bản
Nôm này, các khái niệm trừu tƣợng đều đƣợc diễn đạt bằng chữ Hán. Chính quyền phong
kiến Việt Nam vẫn sử dụng hệ thống hành chính theo mơ hình Trung Quốc, chữ Hán vẫn
đƣợc các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp tục sử dụng chính thức trong cơ quan hành
chính, trƣờng học, khoa cử cũng nhƣ trong sáng tác văn học. Đặc điểm lớn nhất trong sự
tồn tại chữ Hán ở Việt Nam là chữ Hán dần dần bị đồng hoá và bị hấp thu vào văn hoá của
Việt Nam. Nhiều tinh hoa văn hoá chữ Hán đã đƣợc dân tộc Việt Nam hấp thụ. Nhiều tác
phẩm văn học, văn hoá của Việt Nam đã đƣợc viết bằng chữ Hán. “Chính vào lúc sự tiếp
xúc ngôn ngữ không bị ràng buộc bởi yêu cầu chính trị theo quan hệ chinh phục, nó lại đi
sâu vào ngơn ngữ. Sự vay mƣợn lúc này đã đóng một vai trị của chính ngơn ngữ đi vay,
khơng phải là sự cƣỡng ép” (Nguyễn Văn Khang, 2007). Nhƣng lúc này tiếng Hán đã mất
đi tƣ cách là một sinh ngữ; tiếng Hán không đƣợc đọc theo âm Hán của ngƣời Hán, tiếng
Việt đã tạo ra âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán của riêng ngƣời Việt Nam trên địa bàn
Việt Nam. Tiếng Việt không tiếp xúc trực tiếp với tiếng Hán nhƣng số lƣợng từ ngữ Hán
vào tiếng Việt thời kỳ này có thể nói là “ồ ạt”. Từ cái mốc đầu thế kỷ X về sau, tiếng Hán
ở Việt Nam đã tách ra khỏi tiếng Hán ở Trung Quốc và phát triển theo con đƣờng riêng của
mình, bị chi phối bởi quy luật ngôn ngữ (ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa) của tiếng Việt và
cách sử dụng của ngƣời Việt, đặc biệt là về mặt ngữ âm. Từ khi xuất hiện âm đọc Hán
Việt, về mặt lý thuyết tất cả các chữ Hán vào Việt Nam bằng con đƣờng sách vở đều đƣợc
đọc theo âm Hán Việt.
Việc tiếng Hán ở Việt Nam tách khỏi tiếng Hán ở Trung Quốc và phát triển theo
con đƣờng riêng của mình đã là bƣớc Việt hóa đầu tiên và quan trọng đối với lớp từ vựng
Hán nhập vào tiếng Việt. Điều đáng chú ý là, ở Việt Nam lúc này, bên cạnh tiếng Việt là

ngôn ngữ giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày của mọi từng lớp ngƣời trong xã hội thì văn tự
Hán (với cách đọc Hán Việt, cách viết vừa theo ngữ pháp Hán cổ vừa theo ngữ pháp Việt)
là ngơn ngữ sách vở, ngơn ngữ hành chính (sắc, lệnh, chiếu, chỉ), ngôn ngữ khoa cử, văn
chƣơng. Cách gọi chữ Hán là chữ Nho (hay chữ Thánh Hiền) cũng xuất phát từ đây. Các
nhà Nho là những ngƣời đi tiên phong trong việc tuyên truyền văn hoá, văn học Hán vào
Việt Nam. Bối cảnh này giúp cho các đơn vị từ vựng Hán trong đó có cả thành ngữ Hán
đƣợc du nhập vào tiếng Việt.
2.1.2 Phân loại từ Việt gốc Hán
Những từ vay mƣợn Hán trong tiếng Việt bao gồm cổ Hán Việt (tiền Hán Việt),
Hán Việt, Hán Việt Việt hoá. Gọi nhƣ vậy là căn cứ vào các thời kỳ du nhập khác nhau.
Ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt là căn cứ để xác định cổ Hán Việt, Hán Việt và
Hán Việt Việt hoá. Sự phân biệt ba loại này đã có trong cơng trình “Nghiên cứu ngữ âm
lịch sử tiếng Việt Nam” của H.Maspero (1912).
Các từ tiền Hán Việt do du nhập vào tiếng Việt từ rất sớm, tuyệt đại bộ phận lại là
những từ đơn tiết nên đã đƣợc Việt hoá rất sâu, có khả năng vận dụng độc lập trong tiếng
Việt và “có một vị trí khơng khác gì các từ gốc Mon- Khmer và gốc Tày -Thái, trong thực
tế lâu nay vẫn đƣợc coi là từ thuần Việt” (Nguyễn Ngọc San, 2003, tr.146].

5


Hán Việt là giai đoạn vay mƣợn tiếng Hán từ đời Đƣờng. Có thuyết cho rằng âm
đọc Hán Việt này có thể là ngữ âm tiếng Hán đời Đƣờng cuối thế kỷ VIII truyền thụ cho
khu vực Giao Châu. Cách đọc này dần dần bị biến đổi do ảnh hƣởng của âm hệ và quy luật
phát âm của tiếng Việt bản địa. Nhất là sau thế kỷ X, Việt Nam đã độc lập, tách khỏi hệ
thống ngữ âm đời Đƣờng, hình thành quy luật phát âm riêng của ngƣời Việt Nam và vùng
văn hố Việt Nam. Trong đó cách đọc của 6000 – 7000 chữ Hán thƣờng dùng nhất có tính
hệ thống và tính quy luật rất mạnh, có quy luật ứng đối chặt chẽ và đều đặn với âm hệ thiết
vận. Do vậy, về lý thuyết, có thể dùng âm Hán Việt này để đọc toàn bộ kho chữ Hán. Xét
theo nghĩa này, âm Hán Việt đã hình thành một cách có hệ thống, đồng thời có quy luật

phát triển độc đáo và có chức năng cơng dụng nhanh. Nguyễn Thiện Giáp (1999) có nhấn
mạnh: “Vì ngƣời ta có thể đọc tất cả các chữ Hán theo cách đọc Hán Việt cho nên cần phân
biệt từ gốc Hán trong tiếng Việt và các từ Hán đọc theo âm Hán Việt” (Nguyễn Thiện
Giáp, 1999). Tác giả cho rằng: “Các từ ngữ gốc Hán khơng đọc theo âm Hán Việt có số
lƣợng lẻ tẻ và không làm thành hệ thống nhƣ từ Hán Việt”(Nguyễn Thiện Giáp, 1999). Do
các từ ngữ Hán Việt khi nhập vào hệ thống tiếng Việt đã chịu sự tác động của quy luật biến
đổi ngữ âm tiếng Việt nên một số từ đã thay đổi diện mạo, khơng cịn giống với dạng ngữ
âm Hán Việt ban đầu, tạo nên những cặp từ song song. Thuộc nhóm này, theo Nguyễn
Thiện Giáp (1999) cịn có những từ gốc Hán tiếp nhận bằng con đƣờng khẩu ngữ qua cách
phát âm địa phƣơng của Trung Quốc nhƣ: mì chính, sủi cảo, hồnh thánh,…
Trong các từ vay mƣợn từ tiếng Hán thì từ Hán Việt chiếm ƣu thế tuyệt đối, nó
chiếm một khối lƣợng từ ngữ rất lớn. Theo thống kê của H.Maspero thì chúng chiếm trên
60% số từ vựng của Việt ngữ. Hơn nữa, “những thành phần gọi là từ gốc Hán trong tiếng
Việt, đặc biệt là những từ Hán Việt Việt hố thì tuyệt đại bộ phận từ tiếng Hán Việt chuyển
sang” (Nguyễn Ngọc San, 2003).
Ngoài ra từ thế kỷ thứ VIII – IX đến bây giờ, tiếng Việt đều sử dụng hệ thống âm đọc
này khi hấp thụ những từ mƣợn Hán hay sáng tạo từ mới trong ngôn ngữ viết. Có thể thấy
ảnh hƣởng to lớn của âm đọc Hán Việt trong việc hình thành và phát triển tiếng Việt hiện
đại. Đồng thời vẫn giữ đƣợc sắc thái đặc biệt về ngữ âm trong âm vận cách luật cổ đại.
Còn một điểm nữa cũng phải đề cập tới là âm đọc Hán Việt bắt nguồn từ Hán ngữ thời
Trung cổ. Cho nên nó có giá trị quan trọng đối với việc nghiên cứu Hán ngữ thời Trung cổ
và các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc.
Các khái niệm trừu tƣợng của Nho, Phật, Lão đã đƣợc mƣợn vào tiếng Việt nhƣ :
pháp, thần, sắc, không, tướng, niệm, tâm, tín, hữu, địa, vơ, thiên, nghĩa, lễ, trí, tính, qn,
thần, phong, hoa, tuyết, nguyệt… và những từ liên quan đến văn hóa nhƣ: bút, bảng, phấn,
sách, khoa, trường; trong các trƣớc tác thƣ tịch và sáng tác văn học, hiện tƣợng vay mƣợn
chữ Hán trở thành một thói quen và nhu cầu, đồng thời cũng là khả năng. Số lƣợng từ Hán
Việt đi vào tiếng Việt ngày một nhiều và dần dần có cả từ song tiết nhƣ: trượng phu,
trường ốc, thanh nhàn, tiên sinh, công danh, sự nghiệp… Từ đấy cho đến thế kỷ XVIII, các
từ Hán Việt vẫn tiếp tục bổ sung cho kho từ vựng tiếng Việt.

Các từ ngữ Hán Việt đƣợc du nhập vào tiếng Việt khi tiếng Việt đã có đủ những từ
biểu thị những sự vật cụ thể, những từ thuộc nền văn minh vật chất. Có rất nhiều từ Hán có
âm đọc Hán Việt chỉ xuất hiện trong văn bản Hán chứ không bao giờ du nhập vào tiếng
Việt. Ví dụ trong Kinh thi, Sở từ có rất nhiều từ biểu thị giống chim, mng, cây, cỏ và các
trạng thái tình cảm, nhƣng chỉ có một số từ trở thành từ Hán Việt nhƣ: quân tử, thục nữ,
tiểu nhân, yểu điệu, thiết tha, cầm sắt… Nhƣ vậy là ngƣời Việt chỉ lựa chọn trong số
những từ Hán có âm Hán Việt những từ nào có thể lấp chỗ trống cho những khái niệm
thiếu hụt trong vốn từ vựng tiếng Việt. Những từ này phần lớn là những từ trừu tƣợng
thuộc lớp từ văn hóa, ví dụ các từ thuộc lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học… những từ này
lúc đầu ở trong tiếng Hán là những từ cụ thể. Thí dụ từ đạo có nghĩa cụ thể là con đƣờng,
sau đƣợc trừu tƣợng hố thành lý tƣởng phải nhắm tới, thậm chí còn thành những khái

6


niệm trừu tƣợng hơn nữa nhƣ đạo trong tƣ tƣởng của Lão Tử và của các phái đạo gia sau
này… Tiếng Việt do có sự tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán và do có cách đọc Hán Việt rất
thuận tiện cho việc tiếp thu từ ngữ Hán nên có xu hƣớng vay mƣợn các từ ngữ trừu tƣợng
Hán Việt. Tuy tiếng Việt đã có từ vợ và chồng nhƣng việc dựng vợ gả chồng lại gọi là giá
thú hay thành gia thất, có từ xem và sao nhƣng khoa xem sao để đoán vận mệnh gọi là
khoa chiêm tinh. Ngƣời Hán có thể nhận thức những từ trừu tƣợng của họ bằng cách đi từ
cái cụ thể nhƣ giá (gồm nữ và gia) là con gái về nhà chồng và thú (gồm thủ là lấy và nữ) là
con trai lấy vợ, hôn là nhà trai thông gia với nhà gái và nhân là nhà gái thông gia với nhà
trai… Ngƣời Việt trƣớc đây khi tiếp thu từ Hán Việt thì cịn có khả năng nhận thức ấy, họ
có thể hiểu từ kinh tế qua cụm từ kinh thế tế dân… Nhƣng sau này những ngƣời không tinh
thông Hán học thì khơng cịn khả năng nhận thức nhƣ vậy nữa. Từ Hán Việt trở nên khó
hiểu, ngƣời Việt chỉ có thể nhận thức mơ hồ, mất đi cái giai đoạn nhận thức cụ thể. Từ Hán
Việt trở thành một thứ nhƣ ngoại ngữ. Thể thống nhất giữa hình ảnh âm thanh và khái
niệm sự vật của tín hiệu Hán Việt bị phá vỡ trong óc ngƣời Việt. Ngƣời Việt cảm nhận mặt
âm thanh của từ Hán Việt nhƣng không làm sao nắm bắt đƣợc trực tiếp khái niệm của nó.

Lúc này trong óc ngƣời Việt có sự đối lập hai hệ thống tín hiệu thuần Việt và Hán Việt.
Tín hiệu thuần Việt mang đầy đủ sự thống nhất giữa âm thanh và khái niệm, cịn tín hiệu
Hán Việt trở nên khó hiểu. Đây chính là tiêu chí phân biệt giữa một bên là từ Hán Việt
thực sự và một bên là từ có hình thức ngữ âm Hán Việt nhƣ: bút, sách, tường, áo, quần,
bình, bát, đầu… Lúc này để hiểu đƣợc nghĩa của các tín hiệu Hán Việt thì ngƣời Việt đặt
nó vào trong mối quan hệ. Ví dụ nghĩa của từ thảo sẽ hiện ra trong mối quan hệ sau:
Thu thảo, thảo mộc, thảo quả, thảo đường, thảo khấu, thảo dã, thảo dân…
Nghĩa của từ hòa sẽ hiện ra trong chùm quan hệ sau:
Hịa thuận, hịa bình, hịa hiếu, bất hịa, hịa mục, hịa hỗn, hịa kết, hiền hịa…
Do nghĩa của nó nổi lên qua chùm quan hệ chứ khơng hiện ra một cách trực tiếp tức
thì, cho nên ngƣời ta thấy từ Hán Việt có ý nghĩa thấp thống, ẩn ức, trang nghiêm, khơng
cụ thể, gần gũi nhƣ từ thuần Việt. Những từ Hán Việt thƣờng xuất hiện trong các văn bản
cổ cịn có thể tạo ra phong cách cổ kính, kiểu cách.
Hiện tƣợng vay mƣợn các từ Hán đọc theo âm Hán Việt để tạo ra lớp từ Hán Việt
trong tiếng Việt xảy ra trong một quá trình lâu dài, lại mƣợn cả những từ trong các thƣ tịch
đời Tiên Tần, Lƣỡng Hán, tóm lại là các từ văn ngôn Hán bao quát hàng mấy chục thế kỷ,
vì vậy tồn bộ sự phát triển của từ vựng Hán cũng đƣợc phản ánh trong lớp từ Hán Việt.
Đối với các từ Hán Việt đa tiết thì vấn đề đơn giản hơn. Ngƣời Việt có thể hiểu
đƣợc nghĩa khái qt của nó nhƣng khơng có khả năng phân tích nghĩa của từng yếu tố
một, ngay cả đối với những từ quen thuộc nhất nhƣ: kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật,
văn chương, quy củ, triết học, mô phạm… ngƣời Hán thì khơng thể vì là ngơn ngữ văn tự
của họ nên họ có thể phân giải đƣợc từng yếu tố. Ví dụ họ biết quy là dụng cụ để vẽ vòng
tròn (compa), củ là dụng cụ để đo góc vng (ê-ke): nghĩa biểu trƣng “có khn phép, có
nề nếp trật tự kỉ cƣơng”; mơ là cái khn bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng tre… “Rõ ràng
là cảm thức ngôn ngữ của ngƣời Việt đối với từ Hán Việt đa tiết khác hẳn với ngƣời Hán”
(Nguyễn Ngọc San, 2003)
Ngƣời ta có thể nhận diện ra các từ đa tiết Hán Việt qua các kiểu kết hợp. Từ đa tiết
tiếng Việt phần lớn là mƣợn từ tiếng Hán nên đƣợc cấu tạo theo cú pháp Hán. Cũng có
trƣờng hợp ngƣời Việt dùng các từ đơn tiết Hán Việt ghép lại theo cách riêng để tạo ra từ
đa tiết Hán Việt riêng của ngƣời Việt nhƣ: tiểu đoàn, thiếu tá, náo động, ủy ban, an trí, cử

động… nhƣng số lƣợng không nhiều lắm và cũng tuân theo cú pháp Hán. Các từ kết hợp
theo kiểu chính phụ thì yếu tố phụ bao giờ cũng đặt trƣớc, khác hẳn với tiếng Việt.
Ví du:
- Bổ ngữ + danh từ: chính phủ, thư phòng, hiền nhân, thiên tử…
- Bổ ngữ + động từ: cưỡng đoạt, tiền tiến, tĩnh tọa, gian dâm…

7


- Trong tiếng Hán cũng có kiểu cấu tạo đẳng lập do sự kết hợp của danh từ với
danh từ, động từ với động từ, tính từ với tính từ.
Ví dụ:
- Danh từ – danh từ: mô phạm, quy củ, phương pháp…
- Tính từ – tính từ: hạnh phúc, phú quý, khổ sở, sung sướng…
- Động từ – động từ: trụy lạc, tiếp nhận, kiến trúc, phiêu lưu…
Những kết hợp đẳng lập này mƣợn tiếng Hán nên nói chung ít có thể tùy tiện đảo
ngƣợc vị trí, khác với các tiếng thuần Việt có thể thay đổi vị trí.
Ví dụ:
Cửa nhà – nhà cửa
Cha mẹ – mẹ cha
Áo quần – quần áo
Xây dựng – dựng xây
Một số từ Hán Việt tuy cũng có cấu trúc động bổ giống tiếng Việt nhƣ: hợp lý, thất
sắc, thành công, khai mạc, bãi chức, thất học, hoàn bị, hành sự, nhượng bộ, háo danh …
Những kết hợp này cũng không thể thay đổi trật tự các yếu tố đƣợc.
Từ Hán Việt Việt hóa khơng thể xếp lẫn với từ Hán Việt xét về mặt thời điểm hình
thành cũng nhƣ đặc điểm giá trị từ vựng phong cách, nên xếp nhóm riêng. Sau khi âm Hán
Việt hình thành và trở thành một hệ thống ngữ âm ổn định thì trong tiếng Việt vẫn tiếp tục
xảy ra những sự biến đổi ngữ âm. Những biến đổi ngữ âm này tác động đồng loạt vào tất
cả những bộ phận của âm Hán Việt. Những từ Hán - Việt này trƣớc sự tác động của các

biến đổi ngữ âm trên sẽ tách ra làm hai, một là giữ nguyên âm Hán Việt cũ, hai là phát sinh
ra âm mới. Vì âm mới này có âm xuất phát điểm là âm Hán Việt nên gọi chúng là âm Hán
Việt Việt hóa.
Ví dụ:
can
đình
can
đình
gan
dừng
Xu hƣớng Hán Việt Việt hóa xét cho cùng, không phải chỉ là một sự biến âm thuần
túy mà còn là sự biến âm tạo từ vốn là một phƣơng thức sản sinh từ trong tiếng Việt.
Những âm mới nảy sinh này đã tạo ra những từ khác với từ Hán Việt về mặt ngữ nghĩa
cũng nhƣ về mặt phong cách, do đó, có đầy đủ lý do để tách thành một lớp từ riêng. Đối
với ngƣời Việt, từ gan có ý nghĩa cụ thể trỏ một bộ phận trong lục phủ ngũ tạng. Ta có thể
nói: cháo tim gan, gan xào, viêm gan, gan bò… trong khi khơng thể nói nhƣ thế với từ
can. Trong tiếng Việt từ can mang ngữ nghĩa trừu tƣợng hơn, trỏ một trạng thái tâm lý,
tinh thần nhƣ: can đảm, can trường… Ngƣời mất ngủ và tính hay bực bội là do can hỏa
hoặc can hư. Đó là sự phân cơng trong tiếng Việt. Cịn ở tiếng Hán thì từ can có tất cả các
nét nghĩa cụ thể và trừu tƣợng.
Dựa vào những biến đổi ngữ âm tiếng Việt xảy ra sau khi đã hình thành âm Hán
Việt mà chúng ta có thể xác định đƣợc sự hình thành của các từ Hán Việt Việt hóa. Sự hình
thành của các từ Hán Việt Việt hóa là kết quả của sự biến đổi ngữ âm từ âm Hán Việt sang
âm Hán Việt Việt hóa dựa vào các quy luật biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt. Những quy
luật này đã đƣợc các nhà ngữ âm học lịch sử trình bày.
Tiền Hán Việt và Hán Việt Việt hóa đƣợc hình thành từ hai thời điểm xuất phát khác
nhau và ở vào hai thời điểm lịch sử khác nhau nên khơng thể có hiện tƣợng một từ Hán
vừa có âm đọc tiền Hán Việt lại vừa có âm đọc Hán Việt Việt hóa. Nhƣ vậy là ở Việt Nam,
một từ Hán nhiều nhất chỉ có thể tạo ra hai từ:
- Tiền Hán Việt và Hán Việt.

- Hán Việt và Hán Việt Việt hóa.

8


Tóm lại, q trình tiếp xúc ngơn ngữ - văn hoá Hán - Việt đã để lại trong tiếng Việt
một lớp từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hán. Chúng du nhập vào tiếng Việt không phải cùng
một lúc mà trong suốt một thời gian dài với các mức độ khác nhau, bằng các con đƣờng
khác nhau: qua sách vở, qua khẩu ngữ.
Với lớp từ vựng đơng đảo đó, ngƣời Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà
vận dụng nó, biến nó thành cái của mình. Nhƣ trong việc tiếp nhận từ ngữ Hán, ngƣời Việt
đã Việt hoá các từ ngữ Hán với các mức độ khác nhau làm cho từ ngữ gốc Hán trong tiếng
Việt trở nên đa dạng, phong phú.
2.1.3 Các biện pháp Việt hóa từ ngữ Hán
Sau khi âm hệ thống âm đọc chữ Hán của ngƣời Việt (âm Hán Việt) đã xác lập hệ
thống, phƣơng hƣớng Việt hố tiếp tục tác động sâu đến mơ thức cấu tạo (từ ghép, tổ hợp
từ), kết cấu ngữ nghĩa, phƣơng thức sử dụng, phạm vi sử dụng, sắc thái tu từ v.v. . . của từ
ngữ Hán đƣợc mƣợn để đƣa vào tiếng Việt. Trƣớc hết là một số lƣợng rất lớn từ ngữ Hán
đƣợc vay mƣợn trọn vẹn hai mặt kết cấu và ý nghĩa, chỉ Việt hoá âm đọc. Những từ ngữ
Hán đƣợc vay mƣợn vẫn giữ nguyên kết cấu, ý nghĩa cơ bản, ngoài những từ đơn nhƣ: tâm,
tài, mệnh, phúc v.v... thƣờng là từ ghép song âm, và rải rác khắp các lĩnh vực hoạt động xã
hội, từ quá khứ đến hiện tại: đế vương, khanh tướng, đại thần, nhân dân, thủ tướng, văn
chương, xã hội, cơng nghiệp, tiệm cận, đạo hàm, tích phân, hiến định v.v… và các thành
ngữ nhƣ: An bần lạc đạo, đại đồng tiểu dị, đồng tâm hiệp lực, trí dũng song toàn, kiến
nghĩa bất vi, khổ tận cam lai, …
Một số thành ngữ Hán nhƣ: “địa bình thiên thành” đã đƣợc rút gọn lại thành bình
thành (nghĩa đen: đất bằng phẳng, trời yên ổn), lời khen công lao trị thuỷ của vua Vũ trong
Kinh thƣ. Chính sự tốt đẹp làm cho đất nước được bình trị.
Ví du:
Bình thành cơng đức bấy lâu,

Ai ai cũng đội trên đầu biết bao.
(Nguyễn Du)
câu cẩm tú đƣợc rút gọn từ “tú khẩu cẩm tâm”, lịng nhƣ gấm vóc, miệng nói ra những câu
hay đẹp nhƣ thiêu hoa. Câu thơ ý hay lời đẹp.
Câu cẩm tú đàn anh họ Lí,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
(Nguyễn Gia Thiều)
Thành ngữ Hán quân tử cố cùng đƣợc tỉnh lƣợc còn quân tử trong câu: “Quân tử hãy
lăm bền chí cũ” (Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, bài 18, câu 7), thương hải tang điền đƣợc
rút gọn lại còn thương hải trong câu: “Thương hải hay khao thiết thạch mòn” (Nguyễn
Trãi, Quốc âm thi tập, bài 49, câu 2),…
Hoặc đảo trật tự các yếu tố, nhƣ: Hà Đông sư tử (Hán) thành sư tử Hà Đông (Việt),
cùng cốc thâm sơn (Hán) thành thâm sơn cùng cốc (Việt), sơn minh thệ hải (Hán) thành
thệ hải minh sơn (Việt),…
Hoặc thay đổi một vài yếu tố Hán bằng yếu tố Việt, nhƣ thành ngữ: nhất cử lưỡng
đắc (Hán) thành nhất cử lưỡng tiện (Việt), an phận thủ kỉ (Hán) thành an phận thủ thường
(Việt), cửu tử nhất sinh (Hán) thành thập tử nhất sinh (Việt), trị bệnh cứu nhân (Hán)
thành trị bệnh cứu người (Việt),…
Hoặc thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, mở rộng nghĩa, thí dụ nhƣ: “khẩu tâm như
nhất”, nghĩa là lời nói và tấm lịng là một. Sang tiếng Việt đã đổi thành: “khẩu tâm bất
nhất”, nghĩa là lời nói và tấm lịng khơng thống nhất. Thành ngữ gốc Hán: “phong thành
thảo yển” có nghĩa: Ngƣời có quyền uy đực độ ở đâu cũng đƣợc mọi ngƣời tôn kính, nể
phục và nghe theo, ví nhƣ gió đã đi qua đâu cỏ đều cúi rạp xuống. Trong Hán ngữ cổ,
thành ngữ này dùng để chỉ giáo lí đạo đức của kẻ thống trị cảm hố mn dân. Luận ngữ

9


có câu: “Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thƣợng chi phong, tất yển”.
Trong Hán hiện đại thành ngữ này có nghĩa: sự giáo hố của kẻ thống trị. Nhƣng tiếng Việt

chỉ có một nghĩa mƣợn từ Hán ngữ cổ.
Những từ ngữ gốc Hán đƣợc vay mƣợn khơng nhất thiết chỉ nhằm mục đích khoả lấp
chỗ trống do tiếng Việt còn thiếu từ tƣơng ứng mà còn nhằm làm phong phú thêm sắc thái
biểu cảm, tạo ra một phong thái trang trọng, tinh tế, uyển chuyển khi cần thiết hoặc tăng
cƣờng tính khái quát, trừu tƣợng hoá qua sự đối chiếu những từ thuần Việt và từ gốc Hán
có quan hệ đồng nghĩa.
Ví dụ:
“vợ” và phu nhân
“mẹ” và thân mẫu, cụ bà thân sinh; “mẹ vợ” và nhạc mẫu
“bố” và thân phụ, cụ ông thân sinh; “bố vợ” và nhạc phụ
“lấy vợ lấy chồng” và kết hôn, thành thân,…
Đến đây, nên đặc biệt lƣu ý đến một biện pháp quan trọng mà cái “tài năng song
ngữ” của dân tộc đã đƣợc vận dụng một cách sáng tạo để Việt hoá những từ ngữ văn thơ
liệu bao gồm cả thành ngữ, điển cố v.v... trong Hán ngữ nhằm xây dựng và phát triển ngôn
ngữ tiếng Việt.
Một trong những biện pháp thƣờng dùng là chuyển dịch sao phỏng, trong giai đoạn
quá khứ, chúng ta thấy Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đồn Thị Điểm, Nguyễn Du,
Nguyễn Đình Chiểu... đều có những đóng góp rất lớn về mặt này.
Từ hai câu thơ của Thôi Hộ đời Đƣờng Trung Quốc:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta hai câu lục bát tuyệt tác:
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ngày nay, biện pháp sao phỏng này tỏ ra có nhiều hứa hẹn trong việc Việt hoá sâu
hơn nữa những từ ngữ gốc Hán. Có thể nêu một số thí dụ nhƣ sau:
Bách chiến bách thắng / trăm trận trăm thắng
Toạ thực băng sơn / miệng ăn núi lở
Phong y túc thực / đủ ăn đủ mặc

Dĩ huyết tẩy huyết / Nợ máu phải trả bằngmáu
Diệp lạc quy căn / Lá rụng về cội
Lâm khát quật tỉnh / Nước đến chân mới nhảy,…
Để góp phần làm phong phú thêm từ vựng tiếng Việt, bên cạnh những biện pháp đã
đƣợc nêu ở trên, cịn một biện pháp nữa cũng đƣợc sử dụng, đó là: dùng từ Hán đƣợc vay
mƣợn nhƣ những yếu tố tạo từ để tạo ra những từ ghép, thành ngữ mới chỉ thơng dụng
trong tiếng Việt, thậm chí chỉ ngƣời Việt mới hiểu (mặc dù những yếu tố tạo thành từ đều
là gốc Hán cả).
Ví dụ:
Tiểu đồn, bộ binh, uỷ ban, cử nhân, trung uý, đại uý, thần thông biến hoá, khai cơ
lập nghiệp, bất khả xâm phạm, cửa Khổng sân Trình, duyên Tần Tấn, âm cực dương hồi,
bất đắc kỉ tử, …
Qua những điều đã trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng: sự hiện diện của các lớp
từ gốc Hán đông đảo trong tiếng Việt là kết qủa cụ thể của quá trình giao lƣu tiếp xúc ngơn
ngữ - văn hố Việt - Hán với phƣơng hƣớng chủ đạo là Việt hoá. Sự Việt hoá từ ngữ Hán
đã diễn ra trên bốn mặt: âm đọc, mô thức cấu tạo, ý nghĩa và phạm vi sử dụng, trong đó
Việt hố mặt âm đọc là triệt để nhất, cịn các mặt khác thì chỉ đƣợc thực thi trong một
phạm vi hạn hẹp. Điều này có ý nghĩa khoa học khá sâu sắc, thể hiện rõ tài trí thơng minh
10


của ông cha ta trong lĩnh vực ngôn ngữ. Âm đọc chữ Hán (từ ngữ Hán) đƣợc Việt hoá một
cách có hệ thống, tồn diện và triệt để, nhƣ vậy là sự đồng hoá những yếu tố ngoại lai đã
đƣợc hoàn tất một cách trọn vẹn trên một lĩnh vực quan trọng nhất của một hệ thống ngôn
ngữ - lĩnh vực ngữ âm. Dựa trên cơ sở cùng loại hình, từ ngữ Hán sau khi đƣợc Việt hoá về
mặt âm đọc đã trở thành “một kho dự trữ dữ liệu có khả năng đáp ứng đầy đủ theo yêu
cầu” của q trình phát triển từ vựng tiếng Việt khơng chỉ riêng trong quá khứ, mà ngay cả
trong hiện tại.
2.1.4 Vai trò của từ Hán Việt trong tiếng Việt
Từ Hán Việt là lớp từ chiếm số lƣợng lớn và có vai trò rất quan trọng trong tiếng

Việt. Từ Hán Việt xuất hiện trong các phong cách, từ phong cách khẩu ngữ đến các phong
cách ngôn ngữ gọt giũa. Việc sử dụng từ Hán Việt trong các phong cách ngôn ngữ này tùy
thuộc vào đặc điểm của phong cách ngơn ngữ đó.
Từ Hán Việt cũng đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống
thuật ngữ, mặc dù các thuật ngữ đƣợc tạo thành từ nhiều nguồn khác nhau: cấu tạo từ yếu
tố thuần Việt, mƣợn từ tiếng Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga… nhƣng chiếm ƣu thế
về số lƣợng phải kể đến thuật ngữ Hán Việt.
Các ngành khoa học xã hội nhƣ văn học, ngôn ngữ học, lịch sử… các từ vay mƣợn
từ tiếng Hán đƣợc sử dụng rất nhiều. Ví dụ: trong số 1082 thuật ngữ ngơn ngữ thơng kê
trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngơn ngữ học có 787 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm
72,73%. Trong số 341 thuật ngữ văn học thống kê trong Từ điển thuật ngữ văn học có tới
265 từ và các cụm từ Hán Việt, chiếm 77,71%.
Tỉ lệ từ và cụm từ Hán Việt đƣợc sử dụng trong các hệ thống thuật ngữ khoa học xã
hội cao là do các nguyên nhân sau:
- Tiếng Hán là ngôn ngữ cùng loại hình với tiếng Việt (ngơn ngữ đơn tiết) nên vay
mƣợn các thuật ngữ từ tiếng Hán sẽ thuận lợi hơn vay mƣợn thuật ngữ từ các ngôn ngữ Ấn
Âu.
- Các thuật ngữ Hán ngay từ đầu có thể dễ dàng thâm nhập vào vốn từ vựng tiếng
Việt nhờ cách đọc Hán Việt. Đây là bƣớc khởi đầu thuận lợi cho ngƣời Việt trong quá trình
vay mƣợn các thuật ngữ từ tiếng Hán.
Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt có một số lƣợng lớn các từ Hán Việt đang hoạt
động, chiếm trên 60% theo thống kê của một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Nhiều từ và
yếu tố Hán Việt đã ăn sâu bén rễ và trở thành một bộ phận quan trọng, quen thuộc với
ngƣời Việt nên rất dễ dàng trong việc sử dụng cấu tạo thuật ngữ mới. Một số lƣợng khá lớn
thuật ngữ đã đƣợc cấu tạo trong tiếng Việt nhờ các yếu tố vay mƣợn từ tiếng Hán.
Theo thông kê của đề tài nghiên cứu trong một số từ điển thuật ngữ khoa học tự
nhiên thì, số lƣợng thuật ngữ ít hơn hẳn so với thuật ngữ các ngành khoa học xã hội.
Ví dụ:
Trong 2075 thuật ngữ khoa học tự nhiên và kĩ thuật trong Từ điển khoa học tự
nhiên và kĩ thuật có 764 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm 36,82%.

Trong số 1226 thuật ngữ địa lí thơng kê trong Sổ tay thuật ngữ địa lí có 419 từ và
cụm từ Hán Việt, chiếm 34,91%.
Hay trong số 1554 thuật ngữ kinh tế học thống kê trong Từ điển thuật ngữ kinh tế
học có 877 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm 56,43%.
Có thể giải thích hiện tƣợng này nhƣ sau:
Trong các ngành khoa học tự nhiên và kĩ thuật, sự giao lƣu tiếp xúc với các nƣớc
châu Âu, Mĩ, nơi có nền công nghiệp phát triển nên xu hƣớng vay mƣợn trực tiếp từ các
ngôn ngữ Ấn Âu là điều dễ hiểu.
- Hệ thống thuật ngữ trong các ngôn ngữ Ấn Âu đã phát triển khá tồn diện, phong
phú và chính xác. Chính Trung Quốc cũng vay mƣợn từ các ngơn ngữ này.

11


Xu hƣớng vay mƣợn và sử dụng sáng tạo các yếu tố vay mƣợn để cấu tạo thêm
thuật ngữ mới giúp cho hệ thống thuật ngữ tiếng Việt ngày càng trở nên đa dạng và phong
phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội và của các ngành khoa học.
Đặc trƣng của phong cách khoa học là mang tính trừu tƣợng, khái quát cao, hệ
thống và tính quốc tế. Vì vậy, hiện tƣợng vay mƣợn các thuật ngữ nƣớc ngồi khi tiếng
Việt chƣa có đủ từ đáp ứng là điều tất yếu. Tùy vào các ngành khoa học mà mức độ các từ
Hán Việt xuất hiện trong hệ thống thuật ngữ của ngành đó nhiều hay ít. Tuy nhiên, với bất
kì mức độ nào, có thể khẳng định rằn vai trò của từ Hán Việt trong nhiệm vụ xây dựng hệ
thống thuật ngữ khoa học cũng rất lớn và rất quan trọng.
Nhƣ trên đã nói, từ Hán Việt mang sắc thái tao nhã, trang trọng, cổ kính xét về mặt
hành chức. Tùy vào nội dung, hình thức và mục đích giao tiếp mà ngƣời ta chia sản phẩm
ngôn ngữ thành các loại phong cách khác nhau nhƣ phong cách ngơn ngữ khoa học, hành
chính, chính luận, báo chí, nghệ thuật. Trong từng phong cách ngơn ngữ chúng ta sử dụng
từ ngữ khác nhau. Ví dụ nhƣ trong các hội nghị khoa học để tạo khơng khí trang trọng, hầu
hết các từ ngữ đều gắn bó với các thuật ngữ khoa học, các từ ngữ chun mơn hố: đạo
hàm, ẩn số, quỹ tích,…; âm vị, hình vị, từ pháp, ngữ pháp, âm tố, phụ tố,... hầu hết các

thuật ngữ khoa học này đều là từ Hán Việt. Hay trong các văn bản hành chính, tỉ lệ sử dụng
từ Hán Việt cũng rất cao. Chủ yếu gồm các từ ngữ thƣờng dùng trong những văn bản pháp
lí, ngoại giao, hành chính: cơng văn, cơng hàm, cơng ước, hồ ước, tạm ước, hiệu lực, biên
bản, sao lục, tố tụng, quy tắc, đa phương, đơn phương,... hay các từ tự do, hạnh phúc, dân
chủ, dân quyền, giải phóng, bình đảng, lãnh thổ… Cịn trong phong cách chính luận gồm
những từ ngữ thƣờng dùng trong các văn bản chính luận, bày tỏ thái độ, quan điểm: cộng
sản, vô sản, tư sản, đế quốc, thực dân, suy thoái, vũ trang, xâm lược, chiến tranh, cánh tả,
cánh hữu, cấp cao,... Có thể nói, từ ngữ đƣợc sử dụng trong phong cách khoa học, hành
chính, chính luận đa phần là từ Hán Việt. Từ Hán Việt cũng đƣợc sử dụng nhiều trong
phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, đặc biệt là trong văn học trung đại Việt Nam. Đọc các tác
phẩm văn thơ Việt Nam trung đại, chúng ta bắt gặp các từ bóng nguyệt, gương nga, du
khách, lữ hành, giai nhân, tài tử, trầm tư, li tao, đồng vọng, tịch liêu, tráng sĩ, chinh phu,...
những thu thảo, ngư ông, ngư phủ, cù lao, Tràng Thành, thu phong, tiêu phịng,... Cũng ở
đó, ta sẽ gặp hàng loạt các điển cố, điển tích nhƣ: Tầm Dương, Tiêu Nương, Cơ Tơ, Hồng
Hạc, Liễu chương đài, lá thắm chỉ hồng, thềm hoa, lệ hoa, kết cỏ ngậm vành, bỉ sắc tư
phong,... Hiện tƣợng này có lí do lịch sử và truyền thống của nó. Xét về phƣơng diện lịch
sử dân tộc cho thấy, ngƣời Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tiếp nối sử dụng
chữ Hán nhƣ một cơng cụ văn hóa của dân tộc. Sử sách ghi lại, nhiều triều đại phong kiến
Việt Nam đã sử dụng chữ Hán nhƣ một thứ chữ quan phương chính thống liên tiếp trong
một thời gian dài. Ngƣời Việt sử dụng chữ Hán để ghi chép lịch sử, văn hoá, y học và sáng
tác văn chƣơng ngay cả khi đã hình thành chữ Nơm. Kho tàng văn học dân tộc còn lƣu lại
những tác phẩm kinh điển viết bằng chữ Hán nhƣ: Bình Ngơ Đại Cáo của Nguyễn Trãi,
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Nam quốc sơn hà của Lý Thƣờng Kiệt,…
Tóm lại, trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm một số lƣợng lớn, cực kì phong phú
và cũng khá phức tạp. Chính sự đa dạng phức tạp đó dẫn đến nhiều trƣờng hợp hiểu và sử
dụng sai từ Hán Việt. Vì vậy, việc khảo sát khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của HS
trong nhà trƣờng phổ thơng hiện nay vẫn có giá trị thực tiễn. Dựa trên kết quả khảo sát, đề
tài đề xuất những giải pháp mang tính khả thi, nhằm mục đích hƣớng đến nâng cao kĩ năng
sử dụng ngơn ngữ tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng cho HS.
2.2. LƢỢC KHẢO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lịch sử nghiên cứu từ Hán Việt bắt đầu từ những phát hiện của A.de Rhodes
(1651) và một số học giả phƣơng Tây khi phát hiện ra có những đơn vị gốc Hán trong tiếng
Việt và thống kê chúng trong bảng thống kê từ vựng tiếng Việt… Đầu thế kỷ XX, Maspéro
là ngƣời có cơng đầu tiên thống kê và đƣa ra tỉ lệ 60% từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng
12


Việt. Vƣơng Lực - nhà Hán học Trung Quốc đã bỏ ra nhiều công sức nghiên cứu về từ Hán
Việt và cho ra thiên “Hán Việt ngữ nghiên cứu”, in trong Hán ngữ sử luận văn tập (Khoa
học xuất bản xã, 1958, tr.290-406), trong đó, ơng đã chia từ đơn Hán Việt thành 3 loại:
Hán Việt cổ, Hán Việt và Hán Việt Việt hoá và đƣa ra những quy luật chuyển âm giữa các
loại.
Ở Việt Nam vấn đề từ Hán Việt cũng đã đƣợc các tác giả biên soạn sách dạy tiếng
Việt thực hành thế kỷ XIX quan tâm nhƣ: Trƣơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của và
một số nhà học giả khác…
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, Đào Duy Anh đã cho ra đời một tác phẩm khá
nổi tiếng cho đến tận ngày nay- cuốn Từ điển Hán Việt, và sau này là một số nhà nghiên
cứu khác nhƣ Hoàng Văn Hành với cuốn Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng (1991), Phan
Văn Các với cuốn Từ điển Hán Việt,... Các cuốn từ điển này đều là những cơng trình biên
soạn tƣơng đối thành cơng và có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu từ Hán
Việt.
Nghiên cứu về cấu tạo, ngữ nghĩa và cách thức sử dụng từ Hán Việt bắt đầu với
những bài viết bàn về từ Hán Việt của những nhà nghiên cứu đăng trên Nam Phong tạp
chí, Phụ nữ Tân Văn… của Phan Khôi, Phạm Huy Hổ, Phạm Quỳnh, Ngô Vi Lâm… vào
những năm đầu thế kỷ XX. Nhƣng từ Hán Việt đƣợc đề cập và nghiên cứu nhiều nhất là
trong các cơng trình nghiên cứu về tiếng Việt bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ XX với tên
tuổi của các nhà nghiên cứu từ vựng: Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Hồ Lê, Nguyễn Văn
Tu, Nguyễn Thiện Giáp,… Các cơng trình nghiên cứu này tập trung nghiên cứu từ Hán
Việt theo các quan điểm khác nhau:
Nguyễn Tài Cẩn có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu từ Hán Việt mà thành

cơng nhất là cơng trình nghiên cứu về mặt ngữ âm. Cơng trình có đóng góp lớn của ơng là
Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Các từ Hán Việt cịn đƣợc ơng tiếp
tục nghiên cứu trong một số bài viết và trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Ngồi bình diện
ngữ âm của từ Hán Việt đƣợc ông nghiên cứu một cách rất kỹ lƣỡng, về ngữ nghĩa và cấu
tạo của các yếu tố (các tiếng) Hán Việt và các từ Hán Việt cũng đƣợc ông xem nhƣ những
đơn vị của tiếng Việt và tìm hiểu, nghiên cứu chúng bình đẳng nhƣ những đơn vị của tiếng
Việt theo quan điểm đồng đại chứ không phân chúng thành một lớp từ riêng nhƣ một số
nhà nghiên cứu khác. Kết quả nghiên cứu về những đặc trƣng của tiếng và từ tiếng Việt
trong đó có các tiếng và từ Hán Việt đã có tác dụng gợi mở cho các thế hệ nghiên cứu sau
này.
Cùng quan điểm đồng đại khi xem xét các từ Hán Việt cịn có các tác giả Phan
Ngọc, Hồ Lê. Tuy nhiên những nghiên cứu của Phan Ngọc chủ yếu chỉ tập trung về ngữ
nghĩa của từ Hán Việt, còn với Hồ Lê trong cuốn Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại,
ông chỉ nghiên cứu về ngữ nghĩa của các đơn vị Hán Việt mà ông gọi là các nguyên vị tiềm
tàng trong hoạt động cấu tạo từ tiếng Việt, còn các từ Hán Việt không đƣợc ông xét đến.
Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Văn Tu (1968), Nguyễn Thiện Giáp (1999), khi
nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt đã xem xét các từ Hán Việt theo hƣớng đi của Vƣơng
Lực, phân chia các từ Hán Việt theo nguồn gốc và thời điểm du nhập gồm các loại: từ Hán
Việt cổ, từ Hán Việt, từ Hán Việt Việt hoá, từ Hán Việt mƣợn theo con đƣờng khẩu ngữ.
Ngoài những tác giả trên cịn có một số nhà nghiên cứu khác đã nghiên cứu về từ
Hán Việt ở nhiều khía cạnh khác nhau: về mặt xã hội, về phong cách sử dụng, từ Hán Việt
trong nhà trƣờng, từ Hán Việt nhìn từ góc độ yếu tố vay mƣợn, đặc điểm cấu tạo và ngữ
nghĩa của từ ghép Hán Việt trong tiếng Việt, cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với
từ Hán Việt… nhƣ các tác giả: Nguyễn Văn Thạc, Vƣơng Lộc, Lê Xuân Thại, Nguyễn
Ngọc San, Đặng Đức Siêu, Nhữ Thành, Nguyễn Văn Khang, Cù Đình Tú, Ngơ Thanh
Nhàn, Nguyễn Ngọc Trâm, Vũ Thị Kim Thoa, Nguyễn Đức Tồn, Anh Đào, Hoàng Quốc…

13



Những nghiên cứu của các tác giả này đã có những thành cơng và đóng góp nhất định
trong nghiên cứu về từ Hán Việt.
Cũng kể đến nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các báo của một số tác giả bàn về
phƣơng diện sử dụng từ Hán Việt nhƣ hiện tƣợng dùng sai, hiện tƣợng lạm dụng từ Hán
Việt hoặc những biến đổi của một số từ Hán Việt về ngữ nghĩa sau một thời gian sử
dụng…
Từ Hán Việt là một bộ phận quan trọng trong kho từ vựng tiếng Việt. Làm thế nào
để nhận diện đƣợc từ nào là từ Hán Việt, từ nào là từ thuần Việt là một vấn đề không đơn
giản đối với học sinh và thậm chí đối với cả giáo viên THCS, THPT. Các cơng trình
nghiên cứu của các tác giả đã đƣa ra nhiều cách nhận diện khác nhau nhƣng chúng ta có
thể khái quát thành các cách nhƣ sau:
- Mẹo dựa vào đặc điểm cấu tạo âm thanh
Theo Nguyễn Đức Tồn, để giúp HS phân biệt đƣợc các tiếng Hán Việt nói chung,
từ đơn Hán Việt nói riêng với các tiếng và từ đơn thuần Việt, tác giả chủ trƣơng dựa vào
đặc điểm cấu tạo âm thanh. Tác giả cho rằng dựa vào đặc điểm trên có ba cách nhận diện
từ Hán Việt:
Cách thứ nhất là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở các tiếng (hoặc từ đơn) Hán
Việt” (Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Ví dụ:
Uyên (ngoại trừ nguyền, chuyền, chuyện là từ thuần Việt), thí dụ: duyên, tuyên,
quyến…
Uyết: tuyệt, quyết, tuyết, thuyết…
Ƣu: cừu, cửu, cứu, ngưu…
Uy: tuy, tùy, hủy, ngụy, quỷ…
Mẹo để nhớ loại này là: nguyện quyết cứu nguy.
Cách thứ hai là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở tiếng (hoặc từ đơn) thuần Việt”
(Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Mọi tiếng có kết hợp âm ết đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ kết là Hán Việt)
Mọi tiếng có kết hợp âm ưng đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ ưng, ứng, ngưng là
Hán Việt)

Những tiếng nào có âm đầu [r] đều là thuần Việt, thí dụ: ro, rò, rỉ, rả, rẻ…
Cách thứ ba là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở cả tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần
Việt” (Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Âm, thí dụ: tâm, cẩm, lâm, tẩm là Hán Việt; lầm, bầm, lấm, gấm là thuần Việt.
Ương, thí dụ: cương, cường, phương, chương, tường, vương… là Hán Việt; xương,
mương, nhường,… là thuần Việt.
- Dựa vào ngữ nghĩa
Tác giả Phan Ngọc đã đƣa ra mẹo nhận diện từ Hán Việt nhƣ sau:
Thứ nhất là, “Nếu một chữ có nghĩa nhưng khơng hoạt động làm thành từ được mà
chỉ làm thành một bộ phận của từ thơi thì đó là một chữ Hán Việt” (Phan Ngọc, 2000, tr.
415).
Ví dụ nhƣ: nhân, ái , nhất, gia…
Thứ hai là, “Nếu một chữ mà không hiểu nghĩa của nó, và nó khơng làm thành từ,
lại xuất hiện trong hai từ có một sự giống nhau nào đó về nghĩa thì đó là từ Hán Việt”
(Phan Ngọc, 2000, tr. 415). Ví dụ nhƣ hương xuất hiện trong hai từ hương thôn, quê hương
với cùng một nghĩa liên quan tới hàng xóm, vậy nó là từ Hán Việt.
Thứ ba là “Nếu ta có thể chắp vào trước hay sau cái chữ mà ta cần xét một trong
các chữ này nhất, vơ, hữu, nhân, bất thì đó là chữ Hán Việt” (Phan Ngọc, 2000, tr. 416).
Ví dụ nhƣ ích có thể kết hợp với hữu, vô để tạo thành hữu ích, vô ích. Do vậy ích là yếu tố
Hán Việt.

14


- Mẹo viết đúng chính tả từ Hán Việt
Khi ta đã nhận diện đƣợc từ Hán Việt, ta phải tận dụng mẹo luật chính tả để chữa lỗi
chính tả và để viết đúng chính tả.
Chẳng hạn, các phụ âm đầu khơng có trong từ Hán Việt là các phụ âm đầu r và g.
Hiểu biết này cho phép ta tránh đừng viết duyên trong duyên phận (từ Hán Việt) là ruyên
và từ quốc gia (Hán Việt) thành guốc gia… Cũng vậy, nếu nhƣ ta biết trong toàn bộ các

chữ Hán Việt trừ bốn chữ là sơn (núi), hợp, thời, và đơn, khơng có chữ nào có âm ơ, vậy ta
sẽ không viết nhân dân thành nhơn dơn, tất yếu thành tớt yếu. Đó là một điều rất tiện để
chúng ta viết đúng chính tả. Ngƣời Nam Bộ thƣờng lẫn lộn iêm với im, nhƣng nếu ta biết
trong chữ Hán Việt khơng có vần im trừ chữ kim thì ta sẽ viết đúng những từ hiềm khích,
siểm nịnh.v.v… khi biết đó là những từ Hán Việt. Sự lẫn lộn o và ô, e và ê, ă và e là khá
phổ biến ở Nam Bộ. Nếu ta biết, chẳng hạn khơng có chữ Hán Việt nào viết với oe trừ chữ
hoè trong cây hịe, khơng có một chữ Hán Việt nào với o trừ những vần oc (nhƣ học, trọc)
và ong (nhƣ vọng) thì việc viết đúng chính tả và chữa lỗi chính tả đối với từ Hán Việt
khơng cịn là chuyện khó nữa.
Ngồi những trƣờng hợp đã nói, dƣới đây là danh sách kiểm tra về những vần khơng
có trong chữ Hán Việt. Danh sách này không phải để nhớ mà chỉ đề cập một cái nhìn
chung, bao quát về mặt hình thức từ Hán Việt mà thơi.
- Với ngun âm a: oam, oap, oac, oay, uao, ay, au.
- Với nguyên âm ă: ăp, ăm, ăt, oăn, oăm, oăp, oăt.
- Với nguyên âm ê: êm, ên, êp, êt, êch, êu, uên, uêt, uêy.
- Với nguyên âm i: im (trừ chữ kim trong kim cổ, kim khí), ip, it, iu.
- Với nguyên âm ô: ôm, ôp, ôt.
- Với nguyên âm u: um, up, un, ut, ui.
- Với iê: iêng
- Với ua: ua, uôm, uôn, uôt, uôi.
- Với nguyên âm ƣ: ưt, ưn, ưn, ưa, ươm, ươn, ươu, ươ.”
Ngoài những trƣờng hợp nhầm lẫn về phần vần, còn nhầm lẫn về dấu hỏi, ngã (đặc
biệt là HS từ các tỉnh Nghệ An đến Ca Mau). Các từ Hán Việt có quy luật riêng về dấu hỏi,
dấu ngã. Do đó, nếu nắm và sử dụng đƣợc luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt thì
sẽ tránh đƣợc lỗi về thanh điệu (ngã, hỏi). Nội dung của luật dấu hỏi, dấu ngã không khó,
mặc dù luật này đã đƣợc học từ lớp 6 nhƣng thông kê bài kiểm tra (bài viết) cho thấy, số
lƣợt các em mắc lỗi về thanh điệu hỏi, ngã vẫn còn khá nhiều do các em chƣa đƣợc cung
cấp một số mẹo để vận dụng những mẹo luật đó trong hành văn.
Thanh hỏi và thanh ngã trong từ Hán Việt có quan hệ chặt chẽ với phụ âm đầu của
các tiếng. Quan hệ đó có tính chất quy luật: thanh ngã chỉ có quan hệ với một số phụ âm

đầu nhất định, thanh hỏi lại có quan hệ với những âm đầu khác. Dựa vào mối quan hệ giữa
thanh điêụ và âm đầu trong các tiếng của từ Hán Việt, ngƣời ta đã tìm ra luật viết dấu hỏi,
dấu ngã đối với các từ Hán Việt nhƣ sau:
*Nội dung luật
Theo Phan Ngọc các tiếng trong từ Hán Việt có âm đầu là các phụ âm: M, N, NH,
V, L, D, NG đều viết bằng dấu ngã (trừ một ngoại lệ duy nhất là ngải trong ngải cứu). Sau
đây là một số ví dụ:
M: mãnh liệt, mỹ lệ, mỹ mãn, minh mẫn, mãn khoá, thương mãi, v.v…
N: nỗ lực, phụ nữ, truy nã. Long não, Nữu Ước, .v.v…
NH: nhẫn nại, truyền nhiễm, hoà nhã, nhũ mẫu, nhãn hiệu, thổ nhưỡng v.v…
V: vĩ đại, vũ trang, vãng lai, viễn thị, vĩ tuyến, vĩnh viễn, hùng vĩ, v.v…
L: lễ nghĩa, lãng mạn, lãnh đạo, lãnh tụ, phụ lão, lũng đoạn, lãng phí, thành luỹ,
v.v…
D: diễn viên, hướng dẫn, dã man, dĩ nhiên, dĩ vãng, diễm lệ, sở dĩ, v.v…

15


NG: ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngữ, nghĩa trang, nghĩa vụ, ngũ sắc, Nguyễn Du,
v.v…
Các tiếng trong từ Hán Việt có âm đầu khơng phải 7 phụ âm nói trên thì viết dấu
hỏi. Sau đây là một số ví dụ:
Khơng có phụ âm: ảo ảnh, ảm đạm, quan ải, ẩn số, v.v…
B: bảo vệ, bản lĩnh, thời khoá biểu, v.v…
C: cảnh báo, cẩn thận, tình cảm, chỉnh tề, v.v…
Đ: đả đảo, đả kích, Phật đản, đẳng cấp, v.v…
GI: giảng giải, giải thích, hồ giải v.v…
H: hải cảng, hiểm yếu, hảo hạng, v.v…
K, KH: kỷ luật, thế kỷ, kỷ niệm, khả năng, v.v…
PH: gia phả, phổ biến, phẩm hàm, v.v…

Q: kết quả, quản lý, quảng trường, quỷ quyệt, v.v…
S: sỉ nhục, liêm sỉ, hộ sản, lịch sử, v.v…
T, TH: vận tải, tư tưởng, phát triển, thủ công nghiệp, thẩm vấn, v.v…
X: cư xử, xảo quyệt, cơ xưởng v.v…
Ngồi ra có khoảng hơn ba mƣơi trƣờng hợp theo luật phải viết dấu hỏi, nhƣng
ngoại lệ phải viết dấu ngã.
Ví dụ:
- bãi khố, hoài bão, bĩ cực.
- cưỡng bức, linh cữu.
- đối đãi, đãng trí, du đãng, hiếu đễ, Đỗ (họ).
- hữu hạn, bằng hữu, hung hãn, hãnh diện, kinh hãi, hỗ trợ, hỗn hợp, hãm hại.
- kỹ thuật, kỹ năng, kỹ lưỡng, kỹ nữ.
- phẫn nộ, giải phẩu.
- quẫn bách, ngân quỹ, quỹ tích.
- bác sĩ, dũng sĩ, thi sĩ.
- tiễn biệt, thực tiễn, tiểu trừ, tĩnh tâm, mâu thuẫn, dự trữ, trẫm, trĩ.
- xã hội.
* Cách nhớ luật
Nội dung luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt nhƣ vậy là khá phức tạp và
rắc rối. Do đó cần phải biết dùng mẹo để có thể nhớ một cách dễ dàng.
Mẹo 1:
Chỉ cần nhớ những trƣờng hợp viết dấu ngã trong từ Hán Việt (tức là nhớ 7 phụ âm
đầu có viết dấu ngã và khoảng 30 trƣờng hợp ngoại lệ phải viết dấu ngã). Các trƣờng hợp
viết dấu hỏi không cần phải nhớ.
Mẹo 2:
Để nhớ 7 phụ âm đầu M, N, NH, V, L, D, NG, các bạn chỉ cần nhớ câu sau đây:
MÌNH NÊN NHỚ VIẾT LÀ DẤU NGÃ .
Câu này gồm 7 tiếng tƣơng ứng với 7 phụ âm đầu nói trên: Mình (m) nên (n) nhớ
(nh) viết (v) là (l) dấu (d) ngã (ng).
Các trƣờng hợp ngoại lệ, học sinh học thuộc lòng.

* Cách nhớ các trƣờng hợp ngoại lệ
Tác giả Phan Ngọc trong quyển “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả”
đã viết thành một bài thơ truyền thống “Nhất thiên tự” nhƣ sau:
“Kỹ tài, bãi bỏ, bĩ đen,
Hữu bạn, phẫu mổ, tĩnh yên, cữu hòm.
Tiễn đưa, tiễu diệt, trẫm vua,
Trĩ tre, trữ cất, huyễn mê, hỗ cùng.
Hỗn loạn, hãm hại, đãng buông,

16


Quẫn khốn, hữu có, đãng đường thênh thang.
Xã xã, hỗn chậm, quỹ rương,
Suyễn suyễn, quĩ dấu, tiễn tên, tiễn làm,
Hữu phải, cưỡng ép, trĩ chim,
Tuẫn chết, kỹ hát, đễ em, sĩ trò.”
Học thuộc bài thơ này giúp chúng ta viết đúng hỏi ngã cho đến 5000 chữ Hán Việt
(Phan Ngọc, 2000, tr. 435).
*Vận dụng luật
Khi gặp một từ có dấu hỏi, dấu ngã nhƣng chúng ta cịn băn khoăn khơng biết đây
là từ Hán Việt hay từ thuần Việt để vận dụng cho phù hợp thì ta phải liên hệ trƣớc tiên đến
mẹo nhận biết từ Hán Việt để xác định cho đúng. Sau khi xác định đƣợc từ Hán Việt thì ta
phải vận dụng ngay câu: Mình nên nhớ viết là dấu ngã để viết đúng dấu hỏi, dấu ngã. Đối
với những trƣờng hợp không bắt đầu bằng 7 phụ âm trên thì ta sẽ áp dụng bài thơ kiểu
“Nhất thiên tự” để xác định xem nó có thuộc trƣờng hợp ngoại lệ hay khơng, nếu khơng
thuộc thì những từ đó ắt hẳn là viết dấu hỏi.
Nhìn chung, qua các cơng trình nghiên cứu về từ Hán Việt có thể thấy rằng, nghiên
cứu về từ Hán Việt là một việc làm cần thiết và quan trọng trong việc nghiên cứu từ tiếng
Việt. Trong các cơng trình nghiên cứu tiếng Việt đã xuất hiện, dù ít dù nhiều, những nhà

ngơn ngữ học đã đề cập đến từ Hán Việt. Và những cơng trình nghiên cứu trên đã đạt đƣợc
những thành tựu đáng kể, đặc biệt là ở các bình diện về nguồn gốc, quá trình hình thành và
phát triển của từ Hán Việt, đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt, vai trò của từ
Hán Việt trong các phong cách, phƣơng pháp dạy - học từ Hán Việt…
Song, chƣa có một cơng trình nào khảo sát thực trạng khả năng hiểu và sử dụng từ
Hán Việt của học sinh THPT một cách toàn diện và/hoặc cụ thể để đánh giá thực trạng khả
năng nhận diện, hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh. Trên cơ sở đó, thiết kế hệ thống
bài tập phù hợp cho học sinh thực hành nhằm năng cao năng lực sử dụng từ Hán Việt cho
học sinh.
Ở địa bàn tỉnh An Giang ngoại trừ đề tài nghiên cứu với quy mô hẹp nhƣ đề tài
nghiên cứu khoa học của Phan Thái Bích Thuỷ (2005), luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị
Tuyết Nhung (2011), cũng chƣa có một cơng trình nào khảo sát một cách toàn diện về khả
năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT. Vì thế đề tài này đi sâu điều tra tình
hình thực tế về khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT trên địa bàn tỉnh
An Giang (diện rộng), nhằm kịp thời phản ánh thực trạng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của
học sinh trong học tập môn Ngữ văn và trong thực tế cuộc sống.
2.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT trên địa bàn tỉnh An Giang
hiện nay nhƣ thế nào?
- Khả năng nhận diện, hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh THPT trên địa bàn
tỉnh An Giang hiện nay ở mức độ nào?
- Có sự chênh lệch về khả nhận diện, hiểu và vận dụng từ Hán Việt của học sinh THPT
giữa các khu vực nông thôn, miền núi và thành thị hay không?
- Nếu khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh kém thì có ảnh hƣởng đến
chất lƣợng học tập môn Ngữ văn trong nhà trƣờng nói chung và mơn tiếng Việt nói riêng
hay khơng?
- Những nguyên nhân nào dẫn đến khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của học sinh
trên địa bàn tỉnh An Giang còn hạn chế?
- Học sinh đang gặp những khó khăn gì trong việc tiếp nhận VB VHTĐ Việt Nam?


17


×