Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.11 KB, 21 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP
*****
1.1 Khái niệm tiêu thụ thành phẩm
Tiêu thụ thành phẩm là quá trình đơn vị xuất giao hàng hóa, sản phẩm
cho đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng theo
giá thỏa thuận giữa đơn vị bán và đơn vị mua. Chỉ qua tiêu thụ, tính chất hữu
ích của sản phẩm sản xuất ra mới được thực hiện hay nói cách khác sản phẩm
tiêu thụ xong mới được xem là có giá trị sử dụng hoàn toàn. Thực chất của hoạt
động tiêu thụ sản phẩm là quá trình sản xuất kinh doanh.
- Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh
doanh, thông qua tiêu thụ sản phẩm thực hiện được giá trị và vốn hàng
hóa được chuyển thành vốn tiền tệ.
- Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hóa vốn từ hình thái vật chất
sang hình thái tiền tệ, làm cho vốn trở lại trạng thái ban đầu khi nó
bước vào mỗi giai đoạn sản xuất mới.
- Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, kết thúc một quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện tôt khâu tiêu thụ sản phẩm
tức là doanh nghiệp đã hoàn thành một quá trình sản xuất kinh doanh
của mình. Khi sản phẩm được sản xuất xong đem bán ra thị trường là
khi đó sản phẩm được thực hiện hai chức năng của mình là giá trị và
giá trị sử dụng.
- Nếu thực hiện tốt khâu tiêu thụ sản phẩm thì sẽ mang lại cho doanh
nghiệp một lượng doanh thu khá lớn không những nhằm đáp ứng đủ
vốn đầu tư bỏ ra mà còn mang lại khoản lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp, giúp cho doanh nghiệp đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh,
giành thế chủ động trên thị trường, mở ra một tương lai lâu dài cho
doanh nghiệp. Chính vì vậy một quy trình sản xuất ra được thị trường
chấp nhận và sẵn sàng mua.
- Trong doanh nghiệp kế toán được sử dụng như một công cụ sắc bén và
có hiệu lực để phản ánh khách quan và giám đốc toàn diện mọi hoạt


động sản xuất kinh doanh của một đơn vị.
Qua đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của tiêu thụ sản phẩm có một
vị trí lớn, quyết định tới doanh thu và sự sống còn của doanh nghiệp. Bất kỳ một
doanh nghiệp nào kinh doanh có hiệu quả khi toàn bộ chi phí bỏ ra trong quá
trình kinh doanh đều bù đắp bằng doanh thu tiêu thụ và có lãi.
1.2 Các hình thức tiêu thụ thành phẩm trong các doanh nghiệp
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các mối quan hệ mua bán, các doanh
nghiệp cùng tổ chức nhiều phương thức bán hàng khác nhau để đáp ứng yêu cầu
của khách hàng.
1.2.1 Phương thức bán hàng trực tiếp
Theo phương thức này bên khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp vụ
đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp bán hoặc giao hàng tay ba. Người nhận
hàng sau khi ký vào chứng từ bán hàng của doanh nghiệp thì hàng hóa được xác
nhận là đã bán (hàng đã chuyển, quyền sở hữu).
a. Bán buôn hàng hóa
Là bán hàng cho mạng lưới bán lẻ, cho sản xuất, cho tiêu dùng và cho
xuất khẩu. Đặc điểm của bán buôn hàng hóa là:
- Đối tượng bán hàng hóa là các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp
sản xuất và các tổ chức kinh tế khác.
- Hàng hoá có thể là vật phẩm tiêu dùng hay tư liệu sản xuất.
- Khối lượng sản phẩm bán ra mỗi lần thường lớn.
- Thanh toán tiền hàng chủ yếu không dùng tiền mặt mà thông qua ngân
hàng bằng các phương thức thanh toán khác.
- Hàng hóa bán buôn vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông.
* Các hình thức bán buôn hàng hóa:
- Bán buôn qua kho: là phương thức bán hàng mà hàng bán được xuất ra
từ kho bảo quản của doanh nghiệp và được thực hiện theo hai cách:
+ Bán buôn qua kho theo phương thức chuyển hàng theo hợp đồng: theo
phương thức này bên mua và bên bán ký hợp đồng với nhau. Bên bán căn cứ
vào hợp đồng đã ký phải vận chuyển hàng đến địa điểm theo yêu cầu của bên

mua như đã ký trong hợp đồng bằng phương tiện vận tải tự có hay thuê ngoài.
+ Bán buôn qua kho theo phương thức bên mua lấy hàng trực tiếp tại kho:
theo phương thức này, hai bên ký hợp đồng với nhau trong đó nghi rõ bên mua
sẽ cử đại diện đến kho của doanh nghiệp để nhận hàng. Khi người nhận hàng đã
nhận đủ số lượng hàng và ký xác nhận trên chứng từ bàn hàng thì số hàng đó
không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nữa mà được coi là hàng tiêu thụ,
doanh nghiệp được hạch toán vào doanh thu.
- Bán buôn không qua kho (mua hàng giao tay ba): các doanh nghiệp khi
mua hàng nhận hàng không đưa về nhập kho mà chuyển thẳng cho bên mua.
Phương thức này là ưu điểm của doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí lưu thông
và tăng nhanh sự vận động của hàng hóa. Tuy nhiên, phương thức này chỉ thực
hiện trong điều kiện cung ứng hàng hóa có kế hoạch, hàng hóa không cần có sự
phân loại, chọn lọc hay bao gói của đơn vị bán:
+ Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: theo hình thức này
bên bán căn cứ vào hợp đồng mua hàng để nhận hàng của người cung cấp bán
hàng cho khách hàng theo hợp đồng bán hàng không qua kho của doanh nghiệp.
Như vậy việc mua bán xảy ra đồng thời. Doanh nghiệp bán buôn vữa tiến hành
thanh toán với bên cung cấp vừa tiến hành thanh toán với bên mua hàng.
+ Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán: thực chất đây
là hình thức môi giới trong quan hệ mua bán. Công ty bán buôn là đơn vị trung
gian giữa bên bán và bên mua. Doanh nghiệp uỷ quyền cho bên mua trực tiếp
đến nhận hàng và thanh toán tiền hàng cho bên cung cấp đồng thời doanh
nghiệp sẽ được hưởng hoa hồng do bên mua hoặc bên bán trả tiền. Sau đó bên
bán gửi cho doanh nghiệp bán buôn chứng từ bán hàng để theo dõi thực hiện
hợp đồng đã ký. Theo phương thức này, doanh nghiệp không được nhận nghiệp
vụ mua cùng như nghiệp vụ bán.
b. Bán lẻ hàng hóa
Là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc cho các cơ quan tổ
chức để tiêu dùng tập thể không mang tính chất sản xuất. Bán lẻ là giai đoạn
cuối cùng của quá trình vận động hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.

Với phương thức bán lẻ lượng hàng hóa bán ra nhỏ thanh toán ngay và thường
bằng tiền mặt, thường không lập chứng từ cho mỗi lần bán.
* Các hình thức bán lẻ
Bán lẻ thu tiền trực tiếp: theo phương thức này nhân viên bán hàng trực
tiếp chịu trách nhiệm vật chất về số lượng sản phẩm hàng hóa nhận bán tại
quầy, trực tiếp thu tiền và giao hàng cho khách đồng thời ghi chép vào thẻ quầy
hàng. Thẻ hàng có thể mở cho từng mặt hàng, phản ánh cả số lượng và giá trị.
Cuối ca, cuối ngày nhân viên bán hàng kiểm tiền bán hàng và kiểm kê hàng tại
quầy để xác định lượng hàng bán ra trong ngày sau đó lập báo cáo bán hàng.
Tiền bán hàng được nhân viên bán hàng kê vào giấy nộp tiền cho thủ quỹ của
doanh nghiệp hoặc nộp cho ngân hàng. Báo cáo bán hàng là căn cứ xác định
doanh thu và đối chiếu với số tiền đã nộp theo giấy nộp tiền.
Thu tiền tập trung: mỗi quầy hàng hay cửa hàng có một nhân viên thu
ngân riêng trực tiếp thu tiền của khách và chịu trách nhiệm về số tiền bán hàng.
Nhân viên thu ngân có nhiệm vụ viết hóa đơn hoặc tích kê thu tiền và giao hàng
cho khách để khách tới nhận hàng tại quầy của nhân viên bán hàng.
Bán hàng tự phục vụ: khách hàng tự chọn lấy hàng hóa trước khi ra cửa
hàng mang đến bộ phận thu tiền để thanh toán tiền hàng. Nhân viên thu tiền
nhập hóa đơn bán hàng và thu tiền của khách. Hình thức này được áp dụng phổ
biến ở các siêu thị, các cửa hàng tự chọn.
1.2.2 Bán hàng theo phương thức gửi bán
Theo phương thức này định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách trên cơ
sở thỏa thuận mua bán hàng giữa hai bên và giao hàng tại địa điểm quy ước
trong hợp đồng. Khi xuất kho gửi bán, hàng vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp chỉ khi nào khách đã trả tiền hay chấp nhận thanh toán thì khi ấy hàng
mới chuyển quyền sở hữu và được ghi nhận doanh thu bán hàng.
1.2.3 Bán hàng theo phương thức gửi đại lý
Bên chủ hàng (bên giao đại lý) xuất hàng giao cho bên nhận nhận đại lý
ký gửi. Bên đại lý sẽ được hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hao hồng hay
chênh lệch giá. Số hàng gửi đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.

Số hàng được xác định là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền do bên đại
lý thanh toán hay chấp nhận thanh toán. Theo luật thuế GTGT nếu bên đại lý
bán hàng theo đúng giá do bên giao đại lý quyết định thì toàn bộ thuế GTGT sẽ
do cửa hàng chịu, bên đại lý sẽ phải chịu thuế GTGT tính trên phần gia tăng
này. Bên chủ hàng chỉ chịu thuế GTGT trong phạm vi doanh thu của mình.
1.2.4 Bán hàng theo phương thức trả góp
Là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần người mua sẽ thanh toán lần
đầu ngay tại thời điểm mua, số tiền còn lại người mua chấp nhận trả dần ở các
kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi xuất nhất định. Thông thường số tiền trả ở
lần tiếp bằng nhau trong đó bao gồm một phần doanh thu gốc và một phần lãi
trả chậm. Theo phương thức trả góp về mặt hạch toán khi giao hàng cho người
mua thì lượng hàng chuyển giao được coi là bán hàng chỉ khi nào người mua
thanh toán hết tiền hàng thì doanh nghiệp mới mất quyền sở hữu.
1.3 Các phương pháp xác định giá vốn hàng bán
Tuỳ vào đặc điểm và yêu cầu quản lý hàng hóa, doanh nghiệp có thể sử
dụng một trong bốn phương pháp sau:
• Phương pháp tính theo giá đích danh.
• Phương pháp nhập trước, xuất trước.
• Phương pháp nhập sau, xuất trước.
• Phương pháp bình quân gia quyền.
Tuy nhiên, dù lựa chọn phương pháp tính giá nào, doanh nghiệp cũng
phái tuân theo nguyên tắc nhất quán trong hạch toán, không được thay đổi trong
suốt kỳ hạch toán bởi nó có thể ảnh hưởng trọng yếu đến các khoản mục trên
báo cáo tài chính. Trong trường hợp nhất thiết phải thay đổi thì doanh nghiệp
phải có sự giải thích rõ ràng cũng như công bố đầy đủ ảnh hưởng của sự thay
đổi đó trong các báo cáo tài chính. Sau đây, ta sẽ đi vào cụ thể từng phương
pháp:
• Phương pháp tính theo giá đích danh
Theo phương pháp này, trị giá mua của hàng hóa được xác định theo đơn
chiếc hay từng lô hàng. Vì vậy khi xuất bán lô hàng nào thì tính theo trị giá mua

thực tế nhập vào của lô ấy. Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp
có ít mặt hàng hoặc hàng hóa ổn định và dễ nhận diện.
Phương pháp này có ưu điểm là công tác tính giá được thực hiện kịp thời
và chính xác tới từng lô hàng. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này khá là
phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ hệ thống kho tàng cho phép bảo quản
riêng từng lô hàng.
• Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO):
Phương pháp này giả thiết rằng số hàng được nhập trước sẽ xuất trước;
xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng
xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là trị giá mua thực tế của hàng
hóa nhập kho trước sẽ được dùng làm giá để tính trị giá mua của hàng hóa xuất
trước. Do vậy, giá trị của hàng hóa tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng
hóa nhập kho sau cùng.
Phương pháp FIFO có ưu điểm là kế toán có thể tính giá hàng hóa xuất
kho kịp thời, thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.
Phương pháp này thường áp dụng trong các doanh nghiệp có ít loại hàng hóa, số
lần nhập kho của mỗi loại hàng không nhiều. Tuy nhiên độ chính xác này không
cao do chưa phản ánh đúng giá trị của từng lô hàng.
• Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):
Phương pháp này giả định những hàng hóa mua sau cùng sẽ được xuất
trước tiên. Ngược với FIFO, trị giá mua của hàng hóa xuất kho được tính theo
giá của lô hàng hóa nhập sau hoặc gần sau cùng. Như vậy, trị giá mua của hàng
tồn kho cuối kỳ sẽ là trị giá mua của số hàng mua vào đầu kỳ.
Phương pháp này có ưu điểm là doanh nghiệp phản ứng kịp thời với giá
cả thị trường thích hợp trong trường hợp giá cả lạm phát. Tuy nhiên, cũng giống
phương pháp nhập trước xuất trước, phương pháp LIFO không phản ánh đúng
trị giá của từng lô hàng.
• Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, trị giá mua của hàng hóa xuất kho trong kỳ được
tính theo công thức:

Trong đó, giá đơn vị bình quân có thể tính theo một trong ba cách sau:
- Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ:
Theo cách tính này, căn cứ vào giá thực tế của hàng hóa tồn đầu kỳ và
nhập trong kỳ, kế toán xác định được giá bình quân của một đơn vị hàng hóa.
Cách tính này tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn
nữa, công việc tính toán lại dồn vào cuối tháng, gây ảnh hưởng đến công tác
quyết toán nói chung.
- Giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước:
Theo cách tính này, kế toán xác định đơn giá bình quân dựa trên giá thực
tế và lượng hàng hóa tồn kho cuối kỳ trước theo công thức:
Cách tính này cho phép giảm nhẹ khối lượng tính toán của kế toán nhưng
độ chính xác của công việc tính giá phụ thuộc vào tình hình biến động giá cả
hàng hóa. Nếu giá cả thị trường hàng hóa có sự biến động lớn thì sẽ ảnh hưởng
Giá đơn vị
bình quân
Số lượng từng
loại hàng xuất
x=
Trị giá mua của
hàng xuất kho
Giá trị thực tế từng loại hàng tồn đầu kỳ và
nhập trong kỳ
=
Giá đơn vị
bình quân
cả kỳ dự trữ
Số lượng thực tế từng loại hàng tồn đầu kỳ và
nhập trong kỳ
Giá trị thực tế từng loại hàng tồn kho cuối kỳ
trước(đầu kỳ này)

=
Giá đơn vị
bình quân
cuối kỳ
trước
Số lượng thực tế từng loại hàng tồn kho cuối kỳ trước
(đầu kỳ này)
Trị giá mua của từng loại hàng xuất kho=Số lượng từng loại hàng xuất kho
x
Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập
lớn tới độ chính xác của việc tính giá này, có những trường hợp khiến cho giá
trị hàng hóa tồn kho bị âm.
- Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập:
Theo cách tính này, sau mỗi lần nhập, kế toán phải xác định giá bình
quân của từng danh điểm hàng hóa theo công thức sau:
Do đó, trị giá mua của từng loại hàng xuất kho là:
Trong đó, số lượng từng loại hàng xuất kho ở đây là lượng hàng xuất kho
giữa hai lần nhập kế tiếp.
Ưu điểm của cách tính này là cho phép kế toán tính giá hàng hóa xuất kho
kịp thời nhưng khối lượng công việc tính toán nhiều và cũng phải tính giá theo
từng danh điểm hàng hóa. Phương pháp này chỉ sử dụng được ở những doanh
nghiệp có ít danh điểm hàng hóa và số lần nhập của mỗi loại không nhiều.
Một số phương pháp khác dùng để xác định trị giá mua của hàng tiêu thụ:
• Phương pháp giá hạch toán:
Giá hạch toán là giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định nào đó trong kỳ. Khi
áp dụng phương pháp này, tất cả hàng hóa biến động trong kỳ đều được phản ánh
theo giá hạch toán. Giá hạch toán hàng xuất bán được xác định theo công thức sau:
Đến cuối kỳ, kế toán tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực
tế theo hệ số giá và được tính theo công thức:
Trong đó, hệ số giá chính là quan hệ tỷ lệ giữa trị giá mua thực tế với trị

giá hạch toán của số lượng hàng hóa tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ.
Giá trị thực tế từng loại hàng tồn kho sau
mỗi lần nhập
=
Giá đơn vị
bình quân
sau mỗi lần
nhập
Số lượng thực tế từng loại hàng tồn kho sau
mỗi lần nhập
Số lượng háng
hóa xuất bán
xĐơn giá hạch
toán
=
Giá hạch toán
hàng hóa xuất
Hệ số giá
x
Giá hạch toán
hàng hóa xuất
=
Trị giá mua
của hàng xuất

×