Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỢI TRÀ LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.32 KB, 49 trang )

1
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN SỢI TRÀ LÝ.
2.1. Khái quát chung về công ty cổ phần sợi Trà lý.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần sợi Trà lý.
Công ty cổ phần sợi Trà Lý được thành lập theo quyết định của
UBND tỉnh Thái Bình năm 1978, và trực thuộc tổng công ty dệt may Việt
Nam- bộ công nghiệp.Toàn bộ nguồn vốn xây dựng và mua sắm thiết bị đều
do NSNN cấp.
Tháng 5/1980 công ty bắt đầu đi hoạt động với tên gọi “Nhà máy sợi
đay thảm Thái Bình”.
Tháng 7/1995 theo quyết định của Bộ công nghiệp công ty chính thức
lấy tên là “công ty cổ phần sợi Trà Lý”.
Tháng 7/2005 công ty đã chính thức chuyển đổi hình thức chử sở hữu
vốn từ công ty nhà nước trở thành công ty cổ phần với 51% vốn nhà nước.
Công ty chính thức đổi tên thành “công ty cổ phần sợi Trà Lý”.
Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm các loại sợi đay,
bao đay, sợi cotton, sợi PE,…
Từ khi đi vào hoạt động, năm 1890-1990 nước ta và Liên Xô cũ ký kết
hiệp định kinh tế về xuất khẩu thảm đay nên nhiệm vụ chính của công ty ở
giai đoạn này là kéo đay tơ thành sợi để làm thảm xuất khẩu, ngoài ra còn
xuất sợi đay làm nguyên liệu dệt bao phục vụ nhu cầu trong xã hội.
Tháng 5/1990, do tình hình kinh tế chính trị của Liên Xô có sự thay đổi
làm hiệp định kinh tế kí kết giữa Việt Nam và Liên Xô về xuất khẩu thảm đay
bị cắt bỏ. Sản phẩm làm ra bị ứ đọng với số lượng lớn không tiêu thụ được, tổ
2
chức sản xuất lúc này chỉ mang tính duy trì và bắt buộc. Trước tình hình đó
công ty phải tìm ra một hướng đi mới, công ty quyết định chuyển sản xuất
thảm đay sang sản xuất sợi đay để dệt bao phục vụ cho xuất khẩu gạo và các
mặt hàng nông sản khác và nó trở thành nhiệm vụ chính của công ty từ đó tới


nay.
Trong giai đoạn từ năm 1993 – 1996, cùng với việc tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, công ty đã đầu tư khoảng 1,2 -1,5 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay
ngân hàng và nguồn vốn đầu tư của khách hàng để mua máy móc thiết bị
chuyên dùng phục vụ sản xuất: máy dệt, máy kéo sợi,…
Tháng 7/2003 công ty đã hoàn thành dự án đầu tư dây chuyền kéo sợi
hai vạn cọc đưa vào sử dụng. Đây là dây chuyền kéo sợi tiên tiến nhất hiện
nay với các máy móc thiết bị được nhập từ các nước có trình độ khoa học kĩ
thuật phát triển cao như: Đức, Nhật Bản, Thụy Sĩ,…góp phần làm phong phú
thêm các mặt hàng của công ty, giải quyết công việc làm cho một số lượng
lớn lao động.
Tháng 7/2005, công ty sợi Trà Lý đã chính thức chuyển đổi hình thức
chủ sở hữu vốn từ công ty nhà nước thành công ty cổ phần với 51% là vốn
nhà nước, công ty tiếp tục đổi tên thành: “công ty cổ phần sợi Trà Lý”. Việc
chuyển đổi hình thức chủ sở hữu này ban đầu khiến cho tập thể cán bộ công
nhân viên lúng túng, công việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn do
không còn sự giúp đỡ của nhà nước,sau một thời gian ban giám đốc công ty
ngày càng năng động hơn trong việc tìm kiếm phương thức kinh doanh mới,
bạn hàng mới, giúp doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, đồng thời người
lao động có ý thức hơn, nỗ lực hơn trong sản xuất. Điều này khiến cho công
ty đạt được những thành tích cao trong những năm vừa qua. Sau khi tiến hành
cổ phần hoá, theo phương án mở rộng và nâng cao quy trình công nghệ đã
được đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất thông qua, công ty đã tập trung vào
3
đầu tư nhà xưởng, mua sắm thiết bị, máy móc đồng bộ, điều kiện sản xuất
hàng loạt đạt chất lượng cao. Tính đến nay mỗi phân xưởng của công ty đều
được trang bị trên dưới 100 máy móc các loại.
Sản phẩm sản xuất chủ yếu của công ty hiện nay là:
+ Sợi cotton, sợi pha, sợi PE dùng cho dệt kim và dệt thoi
Sợi cotton được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu chính là bông sơ tự

nhiên
Sợi PE được sản xuất chủ yếu từ nguyên liệu bông xơ nhân tạo
sợi pha được sản xuất từ nguyên liệu bông xơ nhân tạo và tự nhiên.
+ sợi đay và bao đay các loại: sợi đay được sản xuất từ đay tơ, bao đay
được dệt từ sợi đay.
Bên cạnh việc sản xuất các loại sợi và bao đay công ty còn kinh doanh
một số hoạt động như: kinh doanh xuất nhập khẩu các loại vật tư, nguyên liệu
phục vụ ngành dệt may và ngành đay, cho thuê văn phòng, cửa hàng,…
Các sản phẩm của công ty sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho các công ty
sản xuất bao bì, các công ty dệt và phục vụ các tổ chức cá nhân có nhu cầu
trong xã hội.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây:
Trong những năm gần đây, cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và sự cố
gắng không ngừng, sự cần cù sáng tạo của tập thể cán bộ công nhân viên đã
giúp cho công ty đạt được những thành tích cao trong sản xuất. Doanh số bán
hàng ngày càng được nâng cao.
4
Bảng số 01: Số lao động và thu nhập bình quân từ năm 2005-2007.
STT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
1 Tổng số lao
động (người)
647 652 668
2 Thu nhập bình
quân (Đ/Ng/Th)
745000 825000 1250000
Trình độ chuyên môn của công nhân viên ngày càng được nâng cao nhất
là đội ngũ quản lí, nhiều người lao động còn được công ty cho đi học tập nâng
cao tay nghề, tham quan các công ty sản xuất của nước bạn. Điều này cho
thấy công ty đã chú trọng tới việc nâng cao tay nghề cho người lao động ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, …

Hiện nay công ty đang mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng thị
trường ra các nước trong khu vực, đó là tín hiệu tốt đối với doanh nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
Công ty cổ phần sợi Trà Lý được tổ chức và hoạt động theo Luật doanh
nghiệp và các Luật khác có liên quan và Điều lệ của công ty được Đại hội
đồng cổ đông nhất trí thông qua:
Đại hội đồng cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là
cơ quan thẩm quyền cao nhất của công ty. Đặc biệt các cổ đông sẽ thông qua
các báo cáo tài chính hàng năm của công ty và kế hoạch tài chính cho những
năm tiếp theo.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân
danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của
công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. Hội
đồng quản trị có trách nhiệm giám sát giám đốc điều hành và những người
quản lý khác. Ban kiểm soát là cơ quan trực thuộc đại hội đồng cổ đông, do
5
đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động
của công ty.
Bộ máy quản lí của công ty được tổ chức theo mô hình tập trung như sau:
Sơ đồ số 07: Tổ chức bộ máy quản lý tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
Giám đốc
Phó GĐ phụ trách sản xuất
Phòng tài vụ kế toán
Phó GĐ phụ trách đời sống
Phòng KCS
Phòng kĩ thuật
Phân Xưởng sợi
Phân xưởng dệt
Phòng nghiệp vụ kinh doanh
Văn phòng

ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
Tổng số công nhân viên của công ty là 668 công nhân với mức lương bình
quân là 1250000. Bộ máy của công ty được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo
của ban giám đốc, mỗi phòng ban có một chức năng riêng, nhiệm vụ riêng ,
hàng tháng đều có sự đánh giá và báo cáo lên ban giám đốc.
 Ban giám đốc của công ty gồm 3 người :
Giám đốc: là người đứng đầu của công ty chịu trách nhiệm về mọi hoạt
động sản xuất và kinh doanh của công ty. Chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Quản lí và sử dụng có hiệu quả tài
sản, vật tư, vốn, phân phối tiền lương lao động, tiền thưởng và các chế độ
chính sách với nhà nước, công nhân viên.
6
Phó giám đốc : tham mưu giúp giám đốc quản lí và điều hành sản xuất
kinh doanh. Giám đốc phân công mỗi phó giám đốc phụ trách một lĩnh vực.
Phó giám đốc ra chỉ thị cho các phòng ban theo giới hạn về quyền của mình.
 Các phòng ban trong công ty :
- Phòng nghiệp vụ kinh doanh: đây là phòng chủ đạo của công ty trong
quá trình sản xuất và kinh doanh. Ngoài nhiệm vụ chính là là tạo ra các nguồn
hàng sản xuất kinh doanh tại công ty, phòng còn có chức năng tư vấn, tham
mưu cho ban giám đốc trong việc ra các văn bản liên quan tới sản xuất kinh
doanh như điều chỉnh giá bán hàng, phương thức kinh doanh, củng cố và mở
rộng thị trường,…
- Phòng KCS : Chức năng chính của phòng là kiểm tra chất lượng sản
phẩm khi hoàn thành.
- Phòng kế toán tài vụ: có chức năng giúp giám đốc trong bảo toàn vốn,
cho nên bộ phận kế toán trong công ty ghi chép một cách chính xác, kịp thời,
liên tục, có hệ thống tình hình hiện có và biến động trong công ty, có kế hoạch
định hướng cung cấp thông tin trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giúp

giám đốc hướng dẫn các bộ phận trong công ty thực hiện đầy đủ các chế độ
ghi chép ban đầu, phục vụ cho việc điều hành hàng ngày mọi hoạt động kinh
doanh của đơn vị. Ngoài ra, bộ máy kế toán còn tham gia công tác kiểm kê tài
sản., tổ chức bảo quản lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán theo quy định.
Phân xưởng sợi và dệt: là hai phân xưởng sản xuất chính.
Ngoài các phòng ban chính và bộ phận sản xuất (phân xưởng sợi và
phân xưởng dệt) còn có thêm một bộ phận phụ : bộ phận vận tải, bộ phận cơ
điện, bộ phận nhà ăn.
+ Bộ phận vận tải có nhiệm vụ thực hiện tất cả các yêu cầu vận chuyển
hàng hoá, nguyên vật liệu trong công ty.
7
+ Bộ phận nhà ăn: chủ yếu phục vụ bữa ăn cho công nhân viên trong
công ty.
+ Bộ phận cơ điện: đảm bảo an toàn và giải quyết các sự cố về điện
năng phục vụ cho hoạt động sản xuất của công ty.
2.1.3. Đặc điểm về hệ thống sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sợi
Trà Lý.
Bộ phận sản xuất chính của công ty gồm 2 phân xưởng chủ yếu là phân
xưởng sợi và phân xưởng dệt. Công ty tổ chức sản xuất theo các phân xưởng
tương ứng với từng giai đoạn chính của quy trình công nghệ, kết quả sản xuất
của phân xưởng có thể được bán ra ngoài. Trong đó mỗi phân xưởng có chức
năng nhiệm vụ riêng:
• Phân xưởng sợi có nhiệm vụ chế biến các loại sợi từ nguyên liệu chính
là đay tơ thành sợi đơn, sợi se,…để bán ra ngoài hoặc chuyển vào kho gia
công để phục vụ cho phân xưởng dệt.
• Phân xưởng dệt có nhiệm vụ dệt ra các loại bao có kích cỡ khác nhau
theo yêu cầu kĩ thuật.
Mỗi phân xưởng có một quy trình công nghệ riêng tương đối phức tạp.
◦ Quy trình công nghệ của từng phân xưởng.
Kho đay tơ

Nhà chọn đay
Làm mềm

chải 1
chải 2
chải 3
Ghép 1
Ghép 2
Ghép 3
Sợi con
Máy sợi đơn
Máy sợi se
8
sợi đơn
sợi se
Thành phẩm
nhập kho gia công BTP
Phân xưởng dệt
Bán
sợi nhập kho TP
Sơ đồ 08: Quy trình công nghệ ở phân xưởng sợi.
Đối với phân xưởng sợi:
Từ nguyên liệu chính là đay tơ qua khâu chọn để phân loại thành các
phẩm cấp khác nhau theo tiêu chuẩn kĩ thuật. Sau đó đưa qua bước công nghệ
làm mềm (máy làm mềm).Trong quá trình làm mềm phải sử dụng các loại vật
liệu phụ như : dầu công nghiệp, nước, xút,…Tiếp đó đay được đưa vào các
ngăn để ủ, thời gian ủ tuỳ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài (ví dụ mùa hè ủ 3
ngày, mùa đông ủ 4-5 ngày) sau thời gian ủ đay tơ được đưa lên máy chải,
chải 3 lần liên tiếp từ chải 1 đến chải 3 công suất nhỏ dần. Quá trình chải sẽ
làm cho các đay tơ mượt mà và song song với nhau. Sau đó đay được đưa

sang các máy ghép, cũng ghép 3 lần liên tục cuối cùng kéo thành sợi con. Sợi
con được đánh ống qua máy sợi đơn và guồng thành cuộn để vận chuyển vào
kho thành phẩm của phân xưởng sợi. Nếu có yêu cầu sợi con được đưa vào
máy se để thành sợi se. Trong phân xưởng sợi, sản phẩm làm dở ở khâu này
thường là sợi con chưa hoàn thành còn đang nằm trên máy chải, máy ghép
hoặc sợi trên các búp (do tình hình sản xuất ổn định nên hầu như không có
phẩm dở ở giai đoạn này). Như vậy kết quả sản xuất ở phân xưởng sợi là các
loại sợi: sợi đơn, sợi se,…Hai loại sợi này cùng một loại chỉ khác nhau về
thông số kỹ thuật. Có thể nhập kho thành phẩm nếu sợi được bán ra ngoài.
9
Còn nếu sợi chuyển qua phân xưởng dệt gia công thì được coi là bán thành
phẩm và được tập trung theo dõi ở kho gia công.
Sơ đồ 09: Quy trình công nghệ ở phân xưởng dệt
sợi
suốt
mắc
dệt
khâu
bao
Cán, là, đo, gấp, cắt
Phân xưởng dệt lấy sợi từ kho gia công, tại đây sợi được đánh qua suốt
nhỏ cho vừa con thoi để dệt thành các sợi ngang. Đồng thời cũng từ các sợi
đay đánh thành các ống to để lên giàn (mắc) đưa vào máy dệt tạo thành các
loại sợi dọc. Sau khi dệt thành mảnh bao, qua các khâu: cán, là, đo, gấp, cắt,
…bước cuối cùng là khâu thành bao và đóng kiện. Như vậy kết quả sản xuất
ở phân xưởng dệt là các loại bao với kích cỡ khác nhau.
Hai phân xưởng đóng góp vai trò chính trong hoạt động sản xuất tại
công ty. Với chức năng sản xuất ra các sản phẩm sợi là nguồn nguyên liệu cho
phân xưởng dệt sản xuất các loại bao bì nên giữa hai phân xưởng có mối quan
10

hệ rất chặt chẽ. Chất lượng sản phẩm sợi sản xuất ra sẽ quyết định chất lượng
của các loại bao bì. Vì vậy việc sản xuất với sản lượng bao nhiêu cần phải
được các nhà quản lý xác định rõ để tránh tồn đọng về hàng hóa hoặc thiếu
nguyên liệu sản xuất làm cho hoạt động sản xuất ngưng trệ tăng chi phí sản
xuất.
2.1.4. Đặc điểm về công tác kế toán tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
2.1.4.1. Chế độ kế toán doanh nghiệp áp dụng.
Hiện nay công ty đang sử dụng hệ thống tài khoản theo quyết định số
15/2006/QĐ – BTC ban hành ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Chứng từ kế toán được lập duy nhất cho một nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Chứng từ bao gồm đầy đủ các chỉ tiêu, rõ ràng, trung thực, chứng từ không
được tẩy xoá, không viết tắt, phải có đầy đủ các chữ ký. Tất cả các chứng từ
đều được kiểm soát chặt chẽ trước khi ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh. Hệ thống tài khoản của công ty cổ phần sợi Trà Lý được vận dụng linh
hoạt theo hệ thống tài khoản được ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-
BTC ban hành ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Ngoài ra công ty
còn linh hoạt mở các tiểu khoản một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Công ty đã mở thêm các tài khoản cấp 4
như: 333.1, 333.7, 333.8,… nhằm theo dõi chi tiết hơn các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh. Bên cạnh đó giúp cho công tác hạch toán được rõ ràng hơn, giúp
cho việc lên báo cáo nhanh chóng, không bị nhầm lẫn. Hiện nay công tác
hạch toán ở công ty CP sợi Trà lý đang áp dụng hình thức nhật kí chứng từ
(ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC). Hàng ngày kế toán căn cứ
vào các chứng từ kế toán để làm căn cứ ghi sổ.
Tài khoản công ty áp dụng thống nhất với hệ thống tài khoản kế toán
theo quyết định số 15QĐ/BTC ngày 20/3/2006 của Bộ tài chính, các tài khoản
chủ yếu mà công ty sử dụng là:
11
TK phản ánh tài sản :111, 112, 131, 133, 138, 141, 152, 153, 154,
155, 211, 213, 214, 241, 242,…

TK phản ánh nguồn vốn : 311, 331,333.1, 333.7, 333.8, 334, 335,
338,411, 412, 421, 441,…
Tài khoản tổng hợp : 511,515,531, 621, 622, 627, 632, 635, 641,
642, 711, 811, 821, 911,…
Doanh nghiệp không sử dụng các tài khoản: 611, 631, …
Doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường
xuyên và tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế .
• Danh mục chứng từ mà công ty đang áp dụng là:
Về tiền tệ: có các chứng từ: phiếu thu, phiếu chi, giấy đề nghị tạm ứng,
giấy thanh toán tạm ứng, giấy đề nghị thanh toán, biên bản kiểm kê quỹ,…
Về hàng tồn kho: Phiếu nhập kho, phiếu xuất kho, biên bản kiểm
nghiệm vật tư, biên bản kiểm kê vật tư công cụ sản phẩm, bảng kê mua hàng,
bảng phân bổ nguyên vật liệu công cụ dụng cụ,…
Về tài sản cố định: biên bản giao nhận TSCĐ, Biên bản thanh lý TSCĐ,
biên bản kiểm kê TSCĐ, bảng đăng kí khấu hao TSCĐ, bảng tính và phân bổ
khấu hao TSCĐ,…
Về lao động tiền lương: có các chứng từ: Bảng chấm công, bảng thanh
toán lương, bảng tính và phân bổ các khoản trích theo lương.
2.1.4.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán.
Việc tổ chức bộ máy kế toán tại mỗi công ty phải phù hợp với đặc
điểm sản xuất của công ty đó. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần sợi
Trà Lý dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty và khối lượng công
việc hạch toán của bộ máy kế toán.
Phòng kế toán của công ty được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám
đốc. Đứng đầu là kế toán trưởng được phân công theo dõi và chỉ đạo trực tiếp
12
các nhân viên kế toán trong công ty. Phòng kế toán tài vụ trong công ty có
nhiệm vụ cụ thể:
• Tổ chức mọi công tác kế toán để thực hiện đầy đủ, kịp thời các chứng
từ kế toán của đơn vị

• Giúp giám đốc hướng dẫn các bộ phận trong công ty thực hiện đầy đủ
các ghi chép hàng ngày...phục vụ cho việc điều hành hàng ngày mọi hoạt
động kinh doanh của đơn vị
Ngoài ra bộ phận kế toán còn tham gia công tác kiểm kê tài sản, tổ chức
bảo quản và lưu trữ các hồ sơ, tài liệu kế toán như: kiểm kê hàng tồn kho, sản
phẩm dở dang cuối kì ở các phân xưởng,…
Phòng kế toán gồm 5 nhân viên. Bao gồm một kế toán trưởng và các kế
toán phần hành. Mỗi nhân viên trong phòng tài vụ kế toán đều thực hiện
những công việc nhiệm vụ riêng. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ kế toán,
đảm bảo việc chỉ đạo tập trung thống nhất của kế toán trưởng về chuyên môn,
phục vụ một cách tốt nhất cho giám đốc chỉ đạo sản xuất kinh doanh, đồng
thời căn cứ vào yêu cầu và trình độ hạch toán bộ máy kế toán của công ty
được tổ chức như sau:
Kế toán trưởng
kế toán nguyên vật liệu và TSCĐ
Kế toán thành phẩm kiêm thủ quỹ
Kế toán tổng hợp
kế toán thanh toán
Sơ đồ 10: tổ chức bộ máy kế toán tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
Để phù hợp với yêu cầu quản lý, trình độ của cán bộ kế toán, bộ máy kế
toán của công ty được tổ chức theo hình thức tập trung. Theo hình thức này,
phòng kế toán thực hiện toàn bộ công tác kế toán trong công ty.
13
2.1.4.3.Đặc điểm về tổ chức sổ kế toán.
• Hiện nay công tác hạch toán ở công ty đang áp dụng hình thức nhật kí
chứng từ được ban hành theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC.
Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh phản ánh trong chứng từ gốc để được
phân loại để ghi vào sổ nhật kí chứng từ, cuối tháng tổng hợp số liệu từ các
nhật kí chứng từ để cập nhập vào sổ cái.
Nhật kí chứng từ là sổ kế toán được sử dụng để ghi chép các hoạt động

kinh tế tài chính theo số phát sinh bên có của từng tài khoản kế toán có quan
hệ đối ứng với bên nợ các tài khoản khác có liên quan.
Bảng phân bổ dùng để phân bổ các chi phí : nguyên vật liệu, nhân công,
khấu hao TSCĐ…
Sổ cái tài khoản.
Sổ kế toán chi tiết.
Việc ghi chép theo hình thức nhật ký chứng từ có thuận lợi là giảm được
1/2 khối lượng ghi sổ. Mặt khác các sổ của hình thức này được thiết kế theo
nguyên tắc bàn cờ nên có tính chất đối chiếu kiểm tra cao. Nhiều chỉ tiêu quản
lí được kết hợp ghi sẵn trên sổ kế toán nhật ký - chứng từ, đảm bảo cung cấp
thông tin kịp thời cho việc quản lí và lập báo cáo. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất
của hình thức sổ này là phức tạp về kết cấu, quy mô lớn, đa dạng nên đòi hỏi
trình độ kế toán cao, khó cho việc vận dụng máy tính vào xử lý số liệu kế
toán.
Trình tự luân chuyển chứng từ và ghi sổ kế toán được khái quát theo sơ
đồ sau:
14
Sơ đồ 11: Quy trình luân chuyển chứng từ và ghi sổ kế toán
tại công ty CP Sợi Trà Lý
chứng từ kế toán và các bảng phân bổ
sổ chi tiết
Bảng kê
Nhật kí chứng từ
bảng tổng hợp chi tiết
sổ cái
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
đối chiếu kiểm tra
Hàng ngày căn cứ vào các chứng từ kế toán đã được kiểm tra lấy số liệu

ghi trực tiếp vào các Nhật kí chứng từ hoặc bảng kê, sổ chi tiết có liên quan.
• Báo cáo kế toán:
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của công ty cổ phần sợi Trà Lý
được thực hiện theo quy định ở chuẩn mực kế toán số 22- “Trình bày báo cáo
tài chính”, tuân thủ các nguyên tắc: trung thực, khách quan , thận trọng, trọng
yếu. Trung thực về tình hình tài chính của công ty, đúng bản chất kinh tế của
các giao dịch , trình bày đầy đủ mọi khía cạnh trọng yếu.
Việc lập báo cáo tài chính căn cứ vào số liệu sau khi khoá sổ kế toán. Báo cáo
được lập đúng nội dung, phương pháp, trình bày nhất quán giữa các kì kế
toán.
Công ty sử dụng hệ thống báo cáo tài chính gồm có:
Báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng cân đối kế toán
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Thuyết minh báo cáo tài chính
15
Cuối mỗi quý, năm công ty cần hoàn tất các báo cáo này để nộp lên:
Hội đồng quản trị của công ty
Tập đoàn dệt may Việt Nam
Cục thuế Thái Bình
Ngoài ra công ty còn lập các báo cáo quản trị cung cấp các thông tin kế toán
phục vụ cho công tác quản lý tại doanh nghiệp :
Báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh
Báo cáo chi phí bán hàng và chi phí quản lý
Báo cáo chi tiết thanh toán
Không chỉ lập các báo cáo,nhân viên kế toán còn tiến hành phân tích
chúng để có những kiến nghị, đề xuất giúp cho ban giám đốc đưa ra được
những quyết định, những giải pháp thích hợp cho việc điều hành, quản lý
doanh nghiệp trong tuơng lai.
2.2. Thực trạng công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản

phẩm tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
2.2.1. Đặc điểm chung của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
2.2.1.1. Về kế toán chi phí sản xuất.
Để thuận lợi cho công tác hạch toán và quản lý, công ty sợi Trà Lý đã
tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Là một công ty có hoạt động sản xuất
kinh doanh với nhiều đối tượng khách hàng: các doanh nghiệp sản xuất, các
doanh nghiệp chế biến, công ty bao bì ở trong và ngoài nước với nhiều sản
phẩm ngày càng phong phú đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng chính
vì thế tiến hành phân loại chi phí sản xuất là một công việc vô cùng quan
trọng và cần thiết. Để phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình
quản lý và kiểm soát được chi phí nhằm đạt hiệu quả kinh tế, công ty sợi Trà
Lý đã lựa chọn cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí.
16
Các khoản mục chi phí của công ty bao gồm :
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (NVLTT): phản ánh toàn bộ chi phí về
nguyên vật liệu chính: sợi đay, đay tơ…nguyên vật liệu phụ: dầu công nghiệp,
dung dịch để ủ mềm sợi đay, thuốc nhuộm,...tham gia vào việc sản xuất và
chế tạo sản phẩm sợi, bao bì,…
- Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): gồm tiền lương, phụ cấp lương, và các
khoản trích theo lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công
đoàn theo tỷ lệ với tiền lương phát sinh.
- Chi phí sản xuất chung (SXC): là những chi phí phát sinh trong phạm vi
phân xưởng sản xuất (trừ chi phí NVLTT và NCTT).
◦ Đối tượng hạch toán chi phí SX.
Do đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất của Công ty sợi Trà Lý là
quy trình sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục, loại hình sản xuất với khối
lượng lớn, các sản phẩm của công ty gồm sợi đay và bao đay đều được hạch
toán như nhau vì thế công ty đã xác định một cách rõ ràng đối tượng hạch
toán chi phí sản xuất của mình là các giai đoạn chế biến, các phân xưởng sản

xuất. Như vậy công ty xác định giới hạn tập hợp chi phí là các phân xưởng,
nơi phát sinh chi phí và nơi chịu các chi phí cũng chính là các phân xưởng.
◦ Phương pháp hạch toán CPSX.
Chi phí sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu phát sinh từ hai phân
xưởng sợi và dệt. Mỗi phân xưởng đều sản xuất ra những thành phẩm. Hai
phân xưởng này có mối quan hệ mật thiết với nhau: phân xưởng sợi khi sản
xuất ra sản phẩm là các loại sợi đơn, sợi se,… có thể nhập kho thành phẩm để
bán hoặc chuyển đến phân xưởng dệt, là đầu vào của phân xưởng dệt. Vì vậy
công ty đã áp dụng phương pháp tập hợp chi phí theo từng khoản mục chi phí
tại các phân xưởng. Công ty hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê
17
khai thường xuyên do đó chi phí sản xuất cũng được hạch toán theo phương
pháp kê khai thường xuyên.
2.2.1.2. Về kế toán tính giá thành sản phẩm.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt
hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát
sinh (trong kỳ hoặc kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên
quan tới khối lượng sản phẩm, lao vụ và dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo
nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Ở công ty cổ phần sợi Trà Lý, giá thành được
phân theo phạm vi phát sinh chi phí thành 2 loại: giá thành sản xuất và giá
thành tiêu thụ
Giá thành sản xuất phản ánh những chi phí phát sinh liên quan tới việc sản
xuất chế tạo đơn vị sản phẩm gồm: chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí
SX.
Giá thành tiêu thụ gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan tới việc sản xuất và
tiêu thụ bao gồm: chi phí NVLTT, chi phí NCTT, chi phí SXC, chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
◦ . Đối tượng tính giá thành.
Công ty sản xuất theo các phân xưởng ứng với các giai đoạn chính của
quy trình công nghệ, kết quả sản xuất ở phân xưởng sợi là các loại sợi đơn,

sợi se,… các loại sợi này có thể được bán thẳng ra ngoài hoặc có thể chuyển
tới kho gia công là đầu vào cho phân xưởng dệt, kết quả sản xuất ở phân
xưởng dệt là các loại bao bì. Do đó, công ty đã xác định đối tượng tính giá
thành là thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng và là bán thành phẩm ở giai đoạn
chế biến trước.
Việc xác định đối tượng tính giá thành như trên đã tính được giá thành bán
thành phẩm ở mỗi giai đoạn, thuận tiện cho việc hạch toán bán thành phẩm
18
nhập kho, tăng cường hạch toán kinh tế nội bộ ở các phân xưởng và xác định
được kết quả ở bán thành phẩm bán ra.
Kỳ tính giá thành ở công ty cổ phần sợi Trà Lý là tháng.
◦ Phương pháp tính giá thành.
Cũng như mọi doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên
tục, quy trình công nghệ gồm nhiều bước nối tiếp nhau theo một trình tự nhất
định, mỗi bước tạo ra những bán thành phẩm, công ty cổ phần sợi Trà Lý đã
áp dụng phương pháp hạch toán theo bước chế biến (giai đoạn công nghệ):
Bước 1: Tính giá thành sợi đơn và sợi se.
Bước 2: Tính giá thành của bao dệt thành phẩm.
Theo phương pháp này chi phí sản xuất phát sinh ở giai đoạn nào sẽ
được tập hợp cho giai đoạn đó. Đối với chi phí sản xuất chung, kế toán tập
hợp chi phí cho từng phân xưởng, sau đó mới phân bổ cho các bước theo tiêu
thức thích hợp.
Ở từng bước tính giá thành đều có đánh giá sản phẩm dở dang.
Do có quy trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục, công ty áp dụng
phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp vì vậy sản phẩm dở dang khi tính giá thành sợi đơn, sợi se tính theo
nguyên vật liệu trực tiếp còn ở giai đoạn công nghệ sau tính theo chi phí của
bán thành phẩm bước trước chuyển sang.
Trong phân xưởng Sợi, sản phẩm dở dang ở khâu này thường là sợi con
chưa hoàn thành còn nằm trên máy chải, máy ghép hoặc sợi trên các búp.

Công ty coi toàn bộ sản phẩm làm dở là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
2.2.2. Công tác hạch toán chi phí sản xuất tại công ty cổ phần sợi Trà Lý.
2.2.2.1. Công tác hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu gồm: chi phí NVLC và chi phí NVL phụ.
- NVL chính dùng để sản xuất trực tiếp là đay tơ được chọn từ nhà kho. Do
19
công ty chỉ gồm hai phân xưởng sợi và phân xưởng dệt mà thành phẩm ở
phân xưởng sợi là bán thành phẩm ở phân xưởng nên đay tơ chỉ được sử dụng
chủ yếu ở phân xưởng sợi. Đay tơ là nguyên vật liệu chính được xuất dùng
cho việc chế tạo sản phẩm sợi, bao bì. Nó chiếm một vị trí quan trọng trong
việc sản xuất sản phẩm đồng thời chi phí về NVL chính chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng giá thành sản phẩm (>50%). Vì vậy hạch toán chi phí NVL
một cách chính xác và đầy đủ giúp cho việc tính tổng chi phí sản xuất, tính
giá thành sản phẩm một cách chính xác, tránh lãng phí tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Đay tơ chỉ sử dụng cho phân xưởng sợi nên việc tổng hợp chi phí NVL chính
dùng cho sản xuất theo phương pháp tập hợp trực tiếp.
- Chi phí vật liệu phụ: Ngoài nguyên liệu chính là đay tơ, công ty còn sử dụng
các loại vật liệu phụ dùng cho sản xuất:
Ở phân xưởng sợi: vật liệu phụ là các loại dầu công nghiệp, dầu thực
vật nấu hỗn hợp để tạo thành một dung dịch để ủ mềm đay. Chi phí nguyên
vật liệu phụ chiếm 3 – 4% tổng giá thành.
Ở phân xưởng dệt: thuốc nhuộm các sợi đơn để dệt thành bao bì.
Để theo dõi hạch toán chi phí NVLTT, kế toán đã sử dụng tài khoản
621” chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết cho
từng phân xưởng.
Khi có yêu cầu về nguyên vật liệu từ các phân xưởng, phòng kinh
doanh tiến hành viết phiếu xuất kho nguyên vật liệu thành 3 liên: liên 1 lưu tại
phòng nghiệp vụ kinh doanh, liên 2 chuyển cho kế toán nguyên vật liệu, liên 3
giao cho thủ kho. Phiếu xuất kho là căn cứ để thủ kho xuất kho NVL, kế toán

ghi sổ. Khi xuất kho NVL thủ kho và nhân viên kinh tế của phân xưởng theo
dõi trên sổ giao nhận vật tư có ký nhận chéo nhau. Cuối tháng kế toán NVL
cùng thủ kho đối chiếu, kiểm kê lại sổ sách từ đó kế toán dựa vào sổ chi tiết

×