Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC PHÂN TÍCH TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.33 KB, 28 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC PHÂN TÍCH TRONG KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Lý luận cơ bản về kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm kiểm toán tài chính
Ở Việt nam, thuật ngữ “Kiểm toán” nói chung và kiểm toán tài chính nói
riêng mới xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Trên thế giới,
thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung
thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài
sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế.
Các chuyên gia kinh tế trên thế giới dùng nhiều ngôn từ, cách diễn đạt để
mô tả loại hình dịch vụ này. Song dù cách này hay cách khác đều phản ánh
kiểm toán với những đặc trưng riêng có của nó, “Kiểm toán là xác minh và bày
tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương
pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các
kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ
thống pháp lý có hiệu lực”.
Đối tuợng sơ khai và lâu đời nhất của kiểm toán là các thông tin kinh tế
trong đó quan trọng nhất là các Bảng khai tài chính. Ngày nay kiểm toán không
chỉ giới hạn ở kiểm toán Bảng khai tài chính mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh
vực khác nhau như hiệu quả hoạt động kinh tế, hiệu quả quản lý của xã
hội...Trong đó kiểm toán tài chính vẫn là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm
toán bởi nó chứa đựng đầy đủ “sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời cũng như
trong quá trình phát triển.
Đối tượng của kiểm toán tài chính là Bảng khai tài chính, trong đó bộ phận
quan trọng nhất của những Bảng khai này là các Báo cáo tài chính. Theo định
nghĩa trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam: “Báo cáo tài chính là hệ thống
các báo cáo được lập theo Chuẩn mực và Chế độ kế toán hiện hành` (hoặc
được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn
vị”.
Bảng khai tài chính cũng bao gồm các bảng kê khai có tính chất pháp lý
khác như Bảng kê khai tài sản cá nhân, Bảng kê khai tài sản đặc biệt, các bảng


khai theo yêu cầu riêng của chủ đầu tư...
1.1.2 Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chínhh
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VAS 200), khoản 11 xác định:
“Mục tiêu của kiểm toán tài chính là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra
ý kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản
ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không?”
Ngoài ra, kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ
những tồn tại, sai sót để có thể khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin
tài chính của đơn vị...
Ở đây, các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp pháp được hiểu như sau:
Trung thực: Là thông tin tài chính và tìa liệu kế toán phản ánh đúng sự thật
nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Hợp lý: Là thông tin và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và
phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều ngừoi thừa nhận.
Hợp pháp: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đứng pháp
luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận.
Đó là mục tiêu tổng quát-hay là mục tiêu chung của kiểm toán tài chính.
Mục tiêu hợp lý chung đòi hỏi phải có sự nhạy bén, khả năng phán đoán cùng
với việc tìm hiểu kỹ lưỡng về khách thể kiểm toán của KTV. Nếu KTV không
nhận thấy mục tiêu hợp lý chung đã đạt được thì sẽ phải dùng đến các mục tiêu
chung khác- được xây dựng tương ứng với cam kết hay giải trình của nhà quản
lý. Bao gồm:
Mục tiêu hiệu lực: Xác minh tính có thực của số tiền có trên khoản mục
hay là xác minh bổ sung vào cam kết về sự tồn tại và phát sinh của nhà quản lý.
Mục tiêu trọn vẹn: Hướng xác minh vào sự đầy đủ vào thành phần-nội
dung cấu thành số tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể là liên quan đến tính đầy
đủ của các nghiệp vụ, tài sản và vốn. Đây là phần bổ sung cho xác nhậncủa nhà
quản lý.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ: Xác minh lại quyền sở hữu của tài sản và

nghĩa vụ pháp lý của các khoản nợ và vốn.
Mục tiêu định giá: Xác minh cách thức và kết quả biểu hiện của tài sản,
vốn và các hoạt động thành tiền.
Mục tiêu phân loại: Xác minh vào tính đúng đẳn trong việc phân loại và
trình bày các thông tin ở trên các BCTC, bổ sung cần thiết vào cam kết về phân
laọi và trình bày.
Mục tiêu kiểm toán chung khi được cụ thể hóa vào từng khoản mục thành các
mục tiêu kiểm toán đặc thủ. Việc nhận diện các mục tiêu kiểm toán đặc thù có ý
nghĩa vô cũng quan trọng làm cơ sở thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp.
1.1.3 Các phương pháp kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Để thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán tài chính
cũng sử dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối
chiếu trực tiếp, đối chiếu logic) và kiểm toán ngoài chứng từ (kiểm kê, thực
nghiệm, điều tra). Tuy nhiên, do kiểm toán tài chính có những đặc trưng về đối
tượng và mối quan hệ chủ thể - khách thể nên phương pháp kiểm toán trong
kiểm toán tài chính cũng có những nét đặc thù riêng.
Một là, xét về khía cạnh thực hiện chức năng chung của kiểm toán, kiểm
toán tài chính hướng tới việc xác minh và bày tỏ ý kiến trên cơ sở các bằng
chứng kiểm toán. Để có được các bằng chứng này, kiểm toán tài chính thực hiện
triển khai các phương pháp cơ bản trên trong từng tình huống cụ thể. Cách thức
kết hợp và trình tự thực hiện các thủ tục này, trong Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 500 gọi là phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán.
Hai là, do đặc điểm về đối tượng cụ thể của kiểm toán BCTC là các báo
cáo kế toán và các bảng tổng hợp tài chính đặc biệt, các báo cáo này vừa chứa
đựng các mối quan hệ kinh tế tổng quát, vừa phản ánh cụ thể từng loại tài sản,
nguồn vốn với những biểu hiện về tài chính, pháp lý được lập theo trình tự và
tuân theo chuẩn mực. Bởi vậy, trong khi thực hiện kiểm toán tài chính, các KTV
phải hình thành các trắc nghiệm, kết hợp với sử dụng liên hoàn các phương
pháp kiểm toán cơ bản để đưa ra được ý kiến đúng đắn về các bảng tổng hợp
này.

Một đặc trưng nổi bật về trình tự kiểm toán tài chính phân biệt với trình tự
kế toán là trình tự ngược với trình tự của kế toán.
Khách thể của kiểm toán vô cùng đa dạng nên phương pháp áp dụng trong
từng trường hợp cũng có những biến thái linh hoạt nhằm đạt được hiệu quả vận
dụng cao nhất. Sự khác biệt đó thể hiện ở việc kết hợp các thử nghiệm kiểm
soát và thử nghiệm cơ bản.
Thủ nghiệm kiểm soát: Bao gồm các thủ tục hướng tới việc đánh giá về
tính hiệu quả của việc thiết kế, duy trì và vận hành có hiệu quả hay không của
HTKSNB. Khi xem xét đánh giá tính hiệu quả của việc thiết kế HTKSNB, KTV
quan tâm tới việc HTKSNB có được thiết kế phù hợp để ngăn ngừa hoặc phát
hiện các sai phạm trọng yếu hay không. Khi KTV hướng tới tính hiệu quả trong
hoạt động của hệ thống này thủ tục kiểm soát được thực hiện nhằm trả lời cho
các câu hỏi: hệ thống này được vận hành như thế nào, có liên tục hay không và
ai là người vận hành hệ thống?...
Để phát hiện các sai phạm trọng yếu trong một tài khoản, một nhóm
nghiệp vụ hay trong việc phân loại trình bày Báo cáo tài chính, các thử nghiệm
cơ bản được thực hiện. Thủ nghiệm cơ bản bao gồm hai loại trắc nghiệm sau
đây:
Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư: hướng tới việc phát hiện các gian
lận và sai sót trong các nghiệp vụ và số dư tài khoản.
Thủ tục phân tích: Tập trung xem xét các mối quan hệ và xu hướng biến
động của các chỉ tiêu kinh tế qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu
lôgic, cân đối..giữa các trị số bằng tiền hoặc các bộ phận cấu thành chỉ tiêu.
1.2 Lý luận cơ bản về vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo
tài chính
1.2.1 Khái niệm về thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính
Thủ tục phân tích (hay quy trình phân tích, trắc nghiệm phân tích) là một
trong những thủ tục kiểm toán quan trọng trong cuộc kiểm toán. Để tìm hiểu sâu
về thủ tục phân tích, trước hết cần hiểu rõ khái niệm về thủ tục phân tích.
Theo từ điển tiếng Việt: “Thủ tục là cách thức tiến hành một công việc với nội

dung, trình tự nhất định theo quy định của cơ quan nhà nước. Phân tích là giảng giải,
nhận xét tỷ mỷ làm sáng tỏ mặt bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng.
Theo đó, thủ tục phân tích được hiểu là cách thức, trình tự tiến hành một
công việc nhất định nhằm làm sáng tỏ mặt bản chất nào đó của sự vật, hiện
tượng.
Trong lĩnh vực kiểm toán, theo Chuẩn mực kiểm toán Hoa Kỳ SAS 56
(AU329): “Thủ tục phân tích được hiểu là sự đánh giá về các thông tin tài chính
dựa trên việc nghiên cứu về các mối liên hệ hợp lý giữa các thông tin tài chính
và thông tin phi tài chính bao gồm các so sánh giữa các số liệu được ghi sổ với
các ước tính của KTV”.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VAS 520: “Thủ tục phân tích hay
quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan
trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, sự biến động và tìm ra những mối quan hệ
có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn với giá
trị đã dự kiến”.
Tựu chung lại, thủ tục phân tích có thể được hiểu là quá trình so sánh, đối
chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác định tính hợp lý của số dư trên các tài
khoản. Các mối quan hệ bao gồm quan hệ giữa các thông tin tài chính với thông
tin phi tài chính và giữa các thông tin tài chính với nhau.
Các khái niệm so sánh, dự đoán, đánh giá được hiểu:
- Dự đoán: Là việc ước đoán về số dư tài khoản, giá trị tỷ suất hoặc xu
hướng liên quan đến các dữ kiện về tài chính và dữ kiện về hoạt động.
- So sánh: Là việc đối chiếu về số liệu trên BCTC với số liệu dự đoán hay
so sánh số liệu trên báo cáo của đơn vị với chỉ số chung của toàn ngành.
- Đánh giá: Là việc phân tích để đưa ra các kết luận về mức chênh lệch và
tìm nguyên nhân của chênh lệch đó nếu chênh lệch là lớn và mang tính trọng yếu.
1.2.2 Các loại phân tích:
Trong kiểm toán BCTC có rất nhiều cách khác nhau để phân loại thủ tục
phân tích, song đơn giản và được chấp nhận rộng rãi nhất, người ta phân chia
thủ tục phân tích thành ba loại:

• Kiểm tra tính hợp lý;
• Phân tích xu hướng;
• Phân tích tỷ suất.
1.2.2.1 Phân tích tính hợp lý:
- Khái niệm:
Kiểm tra tính hợp lý thường bao gồm những so sánh cơ bản như: so sánh
giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, dự toán…Từ kết quả so sánh, nếu có
chênh lệch cần tiến hành điều tra tìm nguyên nhân, phát hiện những sai sót
trong BCTC hoặc các biến động lớn trong tình hình sản xuất kinh doanh của
đơn vị để xem xét tính hợp lý của các chỉ tiêu trên BCTC và đánh giá một cách
sơ bộ về tình hình tài chính của đơn vị.
- Các loại phân tích tính hợp lý:
Các so sánh thường sử dụng trong phân tích tính tính hợp lý:
 So sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán.
Thông qua việc so sánh các chỉ tiêu tài chính giữa số liệu thực tế với số
liệu kế hoạch hoặc dự toán, sẽ giúp cho KTV điều tra phát hiện được những sai
lệch lớn giữa số liệu thực tế và kế hoạch hoặc dự toán. Từ đó có thể cho thấy
những sai sót trong BCTC hoặc những biến động lớn về sản xuất kinh doanh mà
KTV cần xem xét, thẩm định.
 So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong
ngành.
Thông thường, trong phạm vi nhất định thì các chỉ tiêu của đơn vị cá thể
với chỉ tiêu bình quân của ngành có mối quan hệ tương đồng với nhau. (Như
các chỉ tiêu: mức lợi nhuận, hệ số vòng quay vốn, giá thành…). Do vậy, KTV
có thể so sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành, để
phát hiện những sai biệt lớn, không bình thường, không hợp lý. Từ đó sẽ tìm ra
những sai sót hoặc giúp cho KTV tìm hiểu kỹ hơn về hoạt động của doanh
nghiệp.
Khi so sánh giữa chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành cần
lưu ý đến các nhân tố về quy mô cũng như tổ chức quản lý, phương pháp hạch

toán khác nhau giữa các đơn vị trong ngành.
 So sánh số liệu của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến của KTV.
Theo cách so sánh này, KTV ước tính số dư của một tài khoản nào đó bằng
cách dựa vào số liệu liên quan của một hoặc một số tài khoản có mối liên hệ với
chỉ tiêu ước tính, sau đó KTV so sánh số liệu thực tế trên sổ kế toán của doanh
nghiệp với số liệu ước tính đó. Nếu có sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước tính
với số liệu thực tế, KTV cần điều tra xem xét để xác định nguyên nhân cụ thể.
 Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài
chính.
Các thông tin không có tính chất tài chính là các dữ kiện kinh tế kỹ thuật
do các hệ thống hạch toán cung cấp. Thí dụ như: số lượng công nhân viên, số
lượng phòng, giá phòng, hiệu suất phòng của một khách sạn, hoặc diện tích kho
chứa hàng của doanh nghiệp… Mặc dù, những thông tin này không có tính chất
tài chính, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu tài chính. Chẳng
hạn, khi xem xét, thẩm tra quỹ lương, mức lương bình quân, KTV sẽ xem xét
trong mối quan hệ của nó với số lượng công nhân viên của doanh nghiệp, đơn
giá tiền lương, cấp bậc nhân viên…
1.2.2.2 Phân tích xu hướng:
- Khái niệm:
Phân tích xu hướng (hay còn gọi là phân tích ngang) là sự phân tích dựa
trên cơ sở so sánh các chỉ số của cùng một chỉ tiêu trên BCTC. Phân tích xu
hướng thường được KTV sử dụng qua so sánh thông tin tài chính kỳ này với kỳ
trước, hay so sánh giữa các tháng trong kỳ, hoặc so sánh số dư (số phát sinh)
của các tài khoản cần xem xét giữa các kỳ nhằm phát hiện biến động bất thường
để tập trung kiểm tra, xem xét. Đồng thời thông qua phân tích sự biến động của
một số dư tài khoản hay khoản mục giữa các kỳ kế toán trước, KTV có thể đưa
ra dự kiến của kỳ hiện tại.
- Các loại phân tích xu hướng:
Có thể chia thủ tục phân tích xu hướng ra thành hai dạng là phân tích xu
hướng giản đơn và phân tích hồi quy.

 Phân tích xu hướng giản đơn: là xác định con số ước tính dựa trên
số dư tài khoản của kỳ trước.
Thí dụ, tỷ suất giá vốn hàng bán trên doanh thu của đơn vị không tăng so
với năm trước có thể do giá cả thị trường ổn định nhưng cũng có thể do đơn vị
cố tình điều chỉnh cho hợp lý với tỷ suất của ngành…
 Phân tích hồi quy: là sử dụng phương pháp toán học trong phân
tích tài chính để biểu hiện và đánh giá mối quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu
kinh tế. Phương pháp này xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự
biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Phân tích hồi quy là phương pháp sử dụng
phổ biến vì có tính chính xác cao hơn so với phân tích xu hướng giản đơn vì nó
phản ánh được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích.
Thí dụ, khi phân tích doanh thu của đơn vị thì KTV có thể phân chia doanh
thu theo từng loại sản phẩm tiêu thụ hoặc theo thị trường…Trên cơ sở đó sẽ
đánh giá được biến động của doanh thu là do biến động tiêu thụ của sản phẩm
nào hoặc của thị trường nào…
1.2.2.3 Phân tích tỷ suất:
- Khái niệm:
Phân tích tỷ suất là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương
quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên BCTC. Đây là loại thủ tục
phân tích phổ biến thứ hai trong các thủ tục phân tích. Nếu phân tích xu hướng
Tổng tài sản lưu động
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời
tập trung vào một tài khoản cụ thể và không đi vào phân tích mối quan hệ về số
dư các tài khoản thì phân tích tỷ suất lại tập trung vào phân tích mối quan hệ
này. Phân tích tỷ suất chủ yếu áp dụng đối với BCĐKT và BCKQKD. Tuy
nhiên, phân tích tỷ suất đối với các tài khoản trong BCĐKT thường không đem
lại hiệu quả cao do số dư các tài khoản trên BCĐKT được đưa ra tại một thời
điểm. Trong khi đó, phân tích tỷ suất giữa số dư các tài khoản trên
BCKQHĐKD lại hiệu quả do nó phản ánh sự biến động kết quả hoạt động kinh

doanh trong mối quan hệ với các khoản mục khác trong một thời kỳ nhất định.
- Các loại phân tích tỷ suất:
KTV thường sử dụng ba nhóm tỷ suất là nhóm tỷ suất khả năng thanh toán,
nhóm tỷ suất khả năng sinh lời, nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính để thực hiện
thủ tục phân tích.
 Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán, gồm có:
 Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời:
Công thức tính:
Tỷ suất này đo lường khả năng thanh toán, xem tổng tài sản lưu động gấp
bao nhiêu lần nợ ngắn hạn phải trả. Khi tỷ suất này bằng 1, nghĩa là tài sản lưu
động vừa đủ để thanh toán nợ ngắn hạn. Để đảm bảo vốn vừa thanh toán đủ nợ
ngắn hạn, vừa tiếp tục hoạt động được, tỷ suất bằng 2 được xem là hợp lý, tỷ
suất cao hơn 2 có thể xem là đầu tư thừa tài sản lưu động.
 Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh.
Công thức tính:
Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh
Vốn bằng tiền
Đầu tư tài chính ngắn hạn
Các khoản phải thu
Tổng số nợ ngắn hạn
Số vòng thu hồi nợ
Doanh thu bán chịu (thuần)
Số dư các khoản phải thu bình quân
Số vòng luân chuyển hàng tồn kho
Giá vốn hàng bán
Số dư tồn kho bình quân
Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh mô tả khả năng thanh toán tức thời với tiền
và các phương tiện có thể chuyển hoá ngay thành tiền.
Tỷ số này bằng 1 là thoả đáng, càng lớn hơn 1 thể hiện doanh nghiệp càng
có khả năng thanh toán nhanh, nếu càng nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp càng khó

khăn trong thanh toán công nợ ngắn hạn.
 Số vòng thu hồi nợ.
Công thức tính:
Số vòng thu hồi nợ thể hiện số vòng thu hồi nợ trong một niên độ, có nghĩa
là số dư nợ khách hàng thu được vào quỹ mấy lần. Số vòng thu hồi nợ càng
nhiều, thời gian thu hồi nợ càng ngắn.
 Số vòng luân chuyển HTK.
Một vòng luân chuyển HTK được tính từ lúc xuất tiền mua hàng cho đến
khi bán hàng thu lại được tiền. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cho biết mỗi
năm hàng hoá luân chuyển được mấy lần. Số vòng luân chuyển càng nhiều, thời
gian luân chuyển một vòng càng ngắn.
Công thức tính:
 Nhóm tỷ suất khả năng sinh lời, gồm:
Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản
Lãi kinh doanh trước thuế
Chi phí tiền lãi
Tổng giá trị tài sản bình quân
Tỷ suất hiệu quả kinh doanh
Tổng lãi kinh doanh trước thuế
Tổng doanh thu bán hàng thuần
Tỷ suất đầu tư
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tổng số tài sản
 Tỷ suất khả năng sinh lời của tài sản.
Công thức tính:
Tỷ suất này dùng để đo lường tiền lãi do một đồng tài sản mang lại.
 Tỷ suất hiệu quả kinh doanh.
Công thức tính:
Tỷ suất này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần mang lại bao nhiêu tiền lãi
cho doanh nghiệp.

Ngoài 2 tỷ suất chủ yếu nói trên, đối với các công ty cổ phần, KTV còn có
thể sử dụng thêm các tỷ suất vốn cổ phần thường, tỷ suất cổ tức…để phân tích,
đánh giá thêm.
 Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính:
Thông qua nhóm tỷ suất này, ngoài việc phân tích sự bất thường, KTV còn
có thể nhìn nhận những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu và
có thể dẫn dắt các nhà quản lý đến sai phạm. Đồng thời, có thể xem xét thêm
khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp. Thuộc nhóm này có:
 Tỷ suất đầu tư.
Công thức tính:

×