Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn “Tiếng Trung Quốc cổ đại” tại Học viện Khoa học Quân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.14 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐỖ TIẾN QUÂN*<sub>; NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO</sub>** </b>
*<sub>Học viện Khoa học Quân sự, </sub><sub></sub><sub> </sub>
**<sub>Học viện Khoa học Quân sự, </sub><sub></sub><sub> </sub>


<i>Ngày nhận bài: 10/5/2019; ngày sửa chữa: 04/6/2019; ngày duyệt đăng: 10/8/2019</i>


<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>


Nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề trung
tâm của hoạt động giảng dạy. Có rất nhiều nhân tố
ảnh hưởng đến mục tiêu giảng dạy, ví dụ như quan
niệm dạy, nội dung dạy, phương pháp dạy, giảng
viên và học viên, sinh viên,… trong đó, phương
pháp dạy là nhân tố ảnh hưởng nổi bật nhất trong
quá trình hồn thành nhiệm vụ giảng dạy, đồng
thời cũng có tác động vô cùng quan trọng đối với
việc bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo cho học
viên, sinh viên.


Là môn kiến thức chuyên ngành ngôn ngữ
Trung Quốc, “Tiếng Trung Quốc cổ đại” nhằm bồi


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG


GIẢNG DẠY MÔN “TIẾNG TRUNG QUỐC CỔ



ĐẠI” TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QN SỰ



<b>TĨM TẮT</b>


Là mơn kiến thức chuyên ngành, “Tiếng Trung Quốc cổ đại” nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng
lực đọc và phân tích văn bản cổ, nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Trung Quốc cổ đại, bổ sung


vốn kiến thức văn hóa thời cổ đại của Trung Quốc cho học viên, sinh viên. Do đó, việc cung cấp
cho người học những kiến thức cơ bản để hiểu đúng môn tiếng Trung Quốc cổ đại, đặt nền móng
vững chắc cho để phát triển các kỹ năng khác trong giai đoạn đại học là vô cùng quan trọng. Bằng
phương pháp thực chứng và phương pháp lịch sử, dựa trên cơ sở thực tiễn, chúng tôi đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn "Tiếng Trung Quốc cổ đại" tại Học viện
Khoa học Quân sự dưới góc độ người dạy.


<i><b>Từ khóa: chất lượng, phương pháp dạy, tiếng Trung Quốc cổ đại </b></i>


dưỡng, nâng cao năng lực đọc và phân tích văn
bản cổ, nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Trung
Quốc cổ đại, bổ sung vốn kiến thức văn hóa thời
cổ đại của Trung Quốc cho học viên, sinh viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

(古代汉语)do Từ Tông Tài, Lí Văn (徐宗
才、李文<sub>) chủ biên, là tài liệu tham khảo hàng </sub>
đầu cho hầu hết các giảng viên trong và ngồi
Trung Quốc khi giảng dạy các kiến thức có liên
quan đối với người nước ngoài học tiếng Trung
Quốc hiện nay. Đối với Học viện Khoa học Quân
sự (HVKHQS) nói riêng và các trường Đại học
có chun ngành ngơn ngữ Trung Quốc của Việt
Nam nói chung, giáo trình này nhìn chung cũng
luôn là lựa chọn số một cho giảng viên đảm trách
môn “Tiếng Trung Quốc cổ đại” tham khảo. Ngồi
ra, căn cứ vào chương trình, mục tiêu, yêu cầu đào
tạo đặc thù, HVKHQS cũng biên soạn, xuất bản
cuốn giáo trình “Tiếng Trung Quốc cổ đại”. Đây
là cuốn giáo trình do giảng viên có kinh nghiệm
lâu năm của Khoa tiếng Trung Quốc, HVKHQS


biên soạn. Do đó, việc lựa chọn hai bộ giáo trình
này vào dạy môn “Tiếng Trung Quốc cổ đại”
cho học viên, sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ
Trung Quốc tại HVKHQS là hồn tồn có cơ sở.


Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, hai bộ
giáo trình trên cịn có những hạn chế nhất định,
như: Tỉ lệ các dạng bài cịn có sự chênh lệch; quy
phạm chưa thống nhất, một số dạng bài có độ khó
tương đối cao, lượng bài quá nhiều và chưa phù
hợp với thời lượng chương trình đào tạo…Ngồi
ra, “Tiếng Trung Quốc cổ đại” là môn học ngôn
ngữ, nội dung học tập và nghiên cứu là ngôn ngữ,
hơn nữa lại là thứ ngôn ngữ có thời gian cách xa
hiện tại. Thêm vào đó là những vấn đề như thời
gian lên lớp của môn học tương đối ít (01 học
phần, 02 đơn vị học trình, 45 tiết), nội dung cần
dạy nhiều, mơi trường giảng dạy cịn bị hạn chế,
người học khơng thích học, hoặc thấy khó học…
Vậy làm thế nào để giải quyết thỏa đáng các vấn
đề trên, đồng thời nâng cao được tính tích cực và
chủ động của học viên, sinh viên, đó đều là những
câu hỏi hiện hữu mà mỗi một giảng viên đảm trách
môn “Tiếng Trung Quốc cổ đại’ phải đối mặt. Điều
này địi hỏi người dạy phải tìm ra phương pháp
phù hợp nhất để mang tới chất lượng đào tạo cao


<b>2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT </b>
<b>LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN “TIẾNG TRUNG </b>
<b>QUỐC CỔ ĐẠI” TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC </b>


<b>QUÂN SỰ</b>


<b>2.1. Lựa chọn nội dung trọng điểm</b>


Theo chương trình chi tiết môn học, “Tiếng
Trung Quốc cổ đại” là môn học nhằm bồi dưỡng,
nâng cao năng lực đọc và phân tích văn bản cổ,
nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Trung Quốc
cổ đại, bổ sung vốn kiến thức văn hóa thời cổ đại
của Trung Quốc cho học viên, sinh viên.


Nội dung gồm: giới thiệu các kiến thức chung
về tiếng Trung Quốc cổ đại, tuyển giảng một số tác
phẩm tiếng Trung Quốc cổ đại, trên cơ sở đó phân
tích cách dùng từ loại(词类), các hiện tượng
ngữ pháp đặc trưng, so sánh sự tương đồng và dị
biệt với tiếng Trung Quốc hiện đại trên các mặt
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

các vấn đề trọng điểm tương ứng, sẽ đáp ứng được
yêu cầu về thời lượng cũng như nội dung cần giải
quyết của học phần.


<b>2.2. Lựa chọn các điểm ngữ pháp nổi bật</b>
Tiếng Trung Quốc là ngôn ngữ đơn lập, từ
khơng có sự thay đổi về hình thái, do đó các hư từ
và trật tự từ cực kỳ quan trọng để thể hiện quan hệ
ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp. Một trong những
điểm nổi bật về sự khác biệt của tiếng Trung Quốc
cổ đại và hiện đại là sự thay đổi trật tự từ giữa dạng


thức nghi vấn, dạng thức phủ định và ngữ điệu.
Đơn cử như trong tiếng Trung Quốc thời Tiên Tần,
đại từ làm tân ngữ trong câu phủ định ln đặt ở
phía trước động từ, và sau từ phủ định, ví dụ:


(1)三岁贯汝,莫我肯顾。(《诗经·魏


风·硕鼠》)<i>(Tam tuế quán nhữ, mạc ngã khẳng </i>
<i>cố/ Bao nhiêu năm nay ta đã nuôi dưỡng ngươi, </i>
<i>nhưng ngươi lại không thèm để ý đến sự sống chết </i>
<i>của ta)</i>


Đại từ nghi vấn làm tân ngữ trong đa số các
trường hợp luôn đứng trước động từ trong câu nghi
vấn, ví dụ:


(<sub>2</sub>)王者孰谓?谓文王也。(《公羊传·


隐公元年》<i>(Vương giả thục vị? vị Văn Vương dã/ </i>
<i>Nói đến quốc vương là nói đến ai? Chính là nói </i>
<i>đến Văn Vương)</i>


Đại từ nghi vấn làm tân ngữ khơng đứng phía
trước chỉ trong một số trường hợp sau:


<i>Một là, khi làm tân ngữ của động từ “</i>云<i><sub>”, </sub></i>
<i>hoặc trong câu có sử dụng động từ“</i>谓<i>”, ví dụ:</i>


(<sub>3</sub>)子夏云何?(《论语·子张》)<i><sub>(Tử </sub></i>
<i>Hạ vân hà?/ Tử Hạ nói gì?)</i>



(<sub>4</sub>)秦伯曰:“国谓君何?”(《左传·


僖公十五年》)<i>(Tần Bá viết: Quốc vị qn hà?/ </i>
<i>Tần Vương nói: “Người trong nước cho rằng quốc </i>
<i>vương của các người sẽ bị đối xử như thế nào?”)</i>


<i>Hai là, khi làm tân ngữ của giới từ “</i> <i>”, ví dụ:</i>


(5)礼起于何也?(《荀子·礼论》)


<i>(Lễ khởi vu hà dã?/ Lễ được sinh ra trong tình </i>
<i>huống như thế nào?)</i>


<i>Ba là, khi “</i>何<i>” độc lập làm tân ngữ của các </i>
<i>động từ “</i>如<i>”, “</i>若<i>”, tạo thành một kết cấu cố định </i>
<i>thì tân ngữ này có thể đứng trước, cũng có thể </i>
<i>đứng sau động từ, ví dụ:</i>


(6)士何如斯可谓之达矣?(《论语·颜


渊》)<i>(Sĩ hà như tư khả vị chi đạt hĩ/ Kẻ sĩ làm </i>
<i>thế nào mới được gọi là đạt?)</i>


(7)古而无死,其乐若何?(《左传·昭


公二十年》)<i>(Cổ nhi vô tử, kỳ lạc nhược hà?/ </i>
<i>Giả dụ cổ nhân không chết, thì có phải vui vẻ biết </i>
<i>bao nhiêu khơng?)</i>



Sau thời Hán, xu thế đặt đại từ nghi vấn làm
tân ngữ không đứng trước động từ trở nên nhiều
hơn, ngồi các tình huống như đã nói ở trên, các
trường hợp khác cũng có thể không cần đặt tân
ngữ trước động từ, ví dụ:


(<sub>8</sub>)汤、武不得已而立,非受命为何?


(《史记·儒林列传》)<i>(Thang, Vũ bất đắc dĩ </i>
<i>nhi lập, phi thọ mệnh vi hà?/ Thành Thang, Chu </i>
<i>Vũ Vương bất đắc dĩ mới tự lên làm thiên tử, đó </i>
<i>khơng phải là theo ý trời thì là gì?)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

diện cho giả thuyết này là Phùng Thắng Lợi; Thứ
tư là giả thuyết về sự lựa chọn phương thức biểu
đạt trọng điểm, đại diện cho giả thuyết này là Từ
Kiệt, Lí Anh Triết,…(刘志刚, 2008).


Chúng tôi cho rằng, cách giải thích của giả
thuyết thứ tư tương đối phù hợp với thực tiễn tiếng
Trung Quốc. Sau khi khảo sát một lượng lớn các
ngôn ngữ, Từ Kiệt phát hiện thấy, các ngôn ngữ
thường áp dụng hai phương thức là “đưa thành
phần trọng điểm lên phía trước” và “thêm vào từ
đánh dấu trọng điểm” để thể hiện trọng điểm biểu
đạt, và cho rằng, trung tâm của phủ định là trọng
điểm của câu(路广,<sub>2004; </sub>刘志刚,<sub>2008). Do </sub>
tiếng Trung Quốc thời kỳ Tiên Tần khơng có từ
phán đoán rõ rệt, cho nên lựa chọn phương thức
thứ nhất, tức là thành phần tân ngữ đưa lên phía


trước, tạo thành kết cấu SOV, nhằm nhấn mạnh ý
nghĩa trọng điểm trong câu. Cùng với sự phát triển
của ngôn ngữ Hán từ văn ngôn sang bạch thoại,
hiện tượng đảo tân ngữ ngày càng ít gặp và cấu
trúc SOV chuyển thành SVO, tuy nhiên khi cần
nhấn mạnh vẫn có thể đưa tân ngữ lên trước. Ví dụ:


(9) 酒喝了,饭也吃了,现在让我回去吧。


Như vậy, nếu giảng viên giảng dạy và phân
tích quy luật ngữ pháp về trật tự từ đặc biệt trên
trong tiếng Trung Quốc thời Tiên Tần như thế, học
viên, sinh viên sẽ hiểu được sâu hơn về nội dung
vấn đề cần học.


<b>2.3. Chú trọng giảng dạy từ vựng</b>


Khi tìm hiểu nghĩa của các văn bản, điều quan
trọng nhất là tìm hiểu nghĩa của từ vựng, do đó,
phải đưa từ vựng trở thành một trong những trọng
điểm của việc giảng dạy. Việc giảng dạy chữ Hán
cổ cũng nên chỉ là phần phụ trợ cho phần giảng
dạy từ vựng. Trọng điểm của giảng dạy từ vựng là
làm cho học viên, sinh viên nắm được cách dùng
những từ thông dụng. Bởi vì trong sự biến đổi và
phát triển của các yếu tố ngơn ngữ, yếu tố từ vựng
có sự biến đổi và phát triển nhanh nhất, sự khác
biệt giữa tiếng Trung Quốc cổ đại và tiếng Trung


thường dùng cũng rõ rệt nhất. Như liên từ “所以”


biểu thị mối quan hệ nhân quả trong tiếng Trung
Quốc hiện đại, thế nhưng trong tiếng Trung Quốc
cổ đại, “所以” không phải là một từ, mà là một kết
cấu gồm đại từ “所<sub>” và giới từ “</sub>以<sub>”, biểu thị nơi </sub>
chốn, địa điểm xảy ra hành động; phương thức,
phương pháp mà hành động áp dụng; nguyên nhân
xảy ra một hành động, hành vi nào đó. Ví dụ:


(10)夏曰校,殷曰序,周曰庠;学则


三 代 共 之 , 皆 所 以 明 人 伦 也 。 《 孟 子<sub>.</sub>滕 文
公下》 <i>(Hạ viết Hiệu, Thương viết Tự, Chu viết </i>
<i>Tường; học tắc tam đại cộng chi, giai sở dĩ minh </i>
<i>nhân luân dã/ Thời Hạ gọi là “Hiệu”, thời Thương </i>
<i>gọi là “Tự”, thời Chu gọi là “Tường”, cịn đối với </i>
<i>nội dung học, thì ba thời này đều giống nhau, đều </i>
<i>là nơi làm cho con người hiểu được luân thường </i>
<i>đạo lý)</i> (Biểu thị địa điểm dạy con người hiểu được
quan hệ luân thường đạo lý).


(<sub>11</sub>)大官、大邑所以庇身也,我远而慢


之。《左传.襄公三十一年》。<i>(Đại quan, đại </i>
<i>ấp sở dĩ tý thân dã, ngã viễn nhi mạn chi/ Quan </i>
<i>lớn, đất lớn để dùng bảo vệ cho bản thân mình, tơi </i>
<i>lại khơng màng đến và coi thường điều đó)</i> (Biểu
thị phương thức bảo vệ bản thân);


(<sub>12</sub>)计者,所以定事也,不可不察也。



《韩非子.存韩第二》<i>(Kế giả, sở dĩ định sự dã, </i>
<i>bất khả bất sát dã/ Mưu kế là phương pháp quyết </i>
<i>định sự thành bại của cơng việc, khơng thể khơng </i>
<i>tính tốn kỹ)</i>(Biểu thị phương pháp quyết định
sự việc);


(<sub>13</sub>)儒以文乱法,侠以武犯禁,而人主


兼礼之,此所以乱也。《韩非子.五蠹》<i>(Nho </i>
<i>dĩ văn loạn pháp, hiệp dĩ vũ phạm cấm, nhi nhân </i>
<i>chủ kiêm lễ chi, thử sở dĩ loạn dã/ Nho giáo dùng </i>
<i>văn để loạn pháp, kẻ võ hiệp thì dùng vũ lực để vi </i>
<i>phạm lệnh cấm, mà chúa công lại dùng lễ để đối </i>
<i>đãi, đó là nguồn gốc của bạo loạn quốc gia) </i>(Biểu
thị nguyên nhân sản sinh sự hỗn loạn).


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

quả. Giai đoạn diễn biến của nó kéo dài trong suốt
thời kỳ Nam Bắc triều, cho đến nửa đầu thế kỷ thứ
8 thì hồn tất, lúc này “所以” hoàn toàn trở thành
một liên từ biểu thị quan hệ nhân quả trong khẩu
ngữ tiếng Trung Quốc, cách dùng của nó khơng
khác gì so với “所以” trong tiếng Trung Quốc hiện
đại (汪维辉,<sub>2002</sub>,<sub>tr. 31).</sub>


Xét tiếp ví dụ sau, tương đương với từ “eye”
trong tiếng Anh, tiếng Trung Quốc cổ đại dùng từ
“目”:


(14)螓首蛾眉,巧笑倩兮,美目盼兮。



《诗经.国风.卫风》<i>(Tần thủ nga mi, xảo tiếu sai </i>
<i>hề, mỹ mục phán hề/ Trán rộng mày nhỏ cong tinh </i>
<i>tế, nụ cười má lúm đồng tiền, đơi mắt đẹp đầy tình ý)</i>


(<sub>15</sub>)使者目动而言肆,惧我也,将遁


矣。《左传.文公十二年》<i>(Sứ giả mục động nhi </i>
<i>ngôn tứ, cụ ngã dã, tướng độn hĩ/ Sứ giả tròng mắt </i>
<i>chuyển động liên hồi, ngôn ngữ bất thường, chứng </i>
<i>tỏ đang sợ chúng ta, và sắp tháo chạy đến nơi)</i>


Thời Chiến Quốc xuất hiện từ “眼<sub>”, thế nhưng </sub>
trước thời Tây Hán, từ “眼<sub>” và từ “</sub>目<sub>” có sự khác </sub>
biệt về ngữ nghĩa, từ “眼” đa số dùng để chỉ nhãn
cầu, ví dụ:


(16)比干剖心,子胥抉眼,忠之祸也。


《庄子.盗跖》<i>(Tỉ Can phẫu tâm, Tử Tư quyết </i>
<i>nhãn, trung chi họa dã/ Tỉ Can bị moi tim, Tử Tư </i>
<i>bị móc mắt, đó đều là tai họa do chữ Trung).</i>


(17)抉吾眼,置之吴东门,以观越之灭


吴也。《史记.吴世家》<i>(Quyết ngơ nhãn, chí chi </i>
<i>Ngôn đông môn, dĩ quan Việt chi diệt Ngô dã/ Hãy </i>
<i>móc mắt ta treo trên cửa Đơng thành nước Ngô, </i>
<i>để ta chứng kiến ngày nước Việt diệt nước Ngô).</i>


Theo nghiên cứu của Uông Duy Huy, sau thời


Đơng Hán, khơng cịn sự khác biệt về ngữ nghĩa
của “眼” và “目”, cuối thời Hán, “眼” đã thay thế
“目” trong khẩu ngữ, sau thời Lục Triều, sự thay
thế này đã hồn tất trong ngơn ngữ viết. Thế nhưng
sau đó “目<sub>” khơng hoàn toàn biến mất khỏi hệ </sub>
thống từ vựng văn viết văn ngôn. Thời Đường bắt
đầu nói “ ”, tiếng Trung Quốc hiện đại thường


dùng “眼睛”, cũng có lúc chỉ dùng “眼”.(汪维
辉,2000,tr. 31)


Hoặc xét trường hợp từ “谁” trong tác phẩm
“Sử ký” của Tư Mã Thiên.“谁” là từ hay xuất hiện
trong tiếng Trung Quốc cổ đại, trong “Sử ký” cũng
vậy. Theo thống kê, từ “谁” được Tư Mã Thiên
dùng tổng cộng 79 lần, trong đó có 66 lần dùng
đơn, có 5 lần dùng trong từ phức, 8 lần dùng trong
các kết cấu cố định khác.


Trong 66 trường hợp dùng đơn lẻ, nếu xét theo
ngữ nghĩa, có 7 trường hợp biểu thị sự lựa chọn,
ví dụ:


(18)天下谁最爱我者乎?<i>(Thiên hạn thùy tối </i>
<i>ái ngã giả hồ?/ Trong thiên hạ ai là người yêu quý </i>
<i>ta nhất?</i>)


(19)三子之才能,谁最贤哉?<sub>(</sub><i>tam tử chi tài </i>
<i>năng, thùy tối hiền tai?/ Tài năng của ba người </i>
<i>này, ai là người hiền minh nhất?</i>)



Xét về ý nghĩa, có 78 trường hợp “谁” dùng
để chỉ người, và chỉ có 1 câu dùng để chỉ vật (tên
người), đó là:


(<sub>20</sub>)诏召问所为治病死生验者几何人


也,主名为谁。<i>(Chiếu triệu vấn sở vi trị bệnh </i>
<i>tử sinh nghiệm giả kỷ nhân dã, chủ danh vi thùy/ </i>
<i>Hoàng đế hạ chiếu thư hỏi ông đã chữa trị bệnh, </i>
<i>cứu sống hoặc làm chết bao nhiêu người, tên của </i>
<i>họ là gì).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

“谁”, đều dùng để chỉ người, có 16 lượt dùng “孰”,
số lượng này nhiều hơn 2 lần so với “谁” (Đỗ
Tiến Quân, 2017, tr. 95).


Với cách giảng dạy những từ thường dùng xuất
phát từ góc độ lịch sử và so sánh như vậy, giảng
viên có thể giúp học viên, sinh viên có kiến thức
tương đối rõ ràng về diễn biễn ngữ nghĩa của các
từ thơng dụng, từ đó có thể đọc, hiểu một cách
chính xác hơn các văn bản cổ, tiếp thu vốn văn hóa
cổ Trung Quốc một các tốt hơn.


Ngồi ra, đối với các bài văn dài, như bài số
2 “Tơ Tần dĩ liên hồng thuyết Tần” (苏秦以连
横说秦<sub>), phải lựa chọn một số đoạn tiêu biểu để </sub>
giảng dạy, các đoạn còn lại được giải quyết qua các
buổi thảo luận, buổi tự học ngồi giờ chính khóa.


Đối với các bài có liên quan đến thơ ca, như bài
17 “Quy viên điền cư”(归园田居), có thể lược
giảng phần văn trích, chú trọng giảng giải phần
luật thơ, luật từ, luật khúc. Phần thường thức về
văn hóa cổ đại có thể làm tài liệu tham khảo, yêu
cầu học viên, sinh viên tự nghiên cứu.


Nói tóm lại, trong q trình giảng dạy, giảng
viên đảm trách mơn phải chú trọng lựa chọn nội
dung trọng điểm để giảng dạy, áp dụng phương
pháp giảng dạy linh hoạt, phù hợp với từng nội
dung cụ thể, chú trọng đến nguyên tắc kết hợp giữa
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, dẫn dắt và
giúp học viên, sinh viên tổng hợp những tri thức
tản mát, phi hệ thống về tiếng Trung Quốc cổ đại
trước đây trở thành một vốn tri thức mang tính hệ
thống, đồng thời cũng cần phải chú ý gợi mở cho
học viên, sinh viên từ góc độ lịch sử, bồi dưỡng
quan niệm lịch sử về ngôn ngữ cho người học.


<b>2.4. Phối kết hợp với các môn học khác</b>
Trong chương trình đào tạo cử nhân ngoại
ngữ ngành ngôn ngữ Trung Quốc, các môn học
về cơ bản đã có tính liên kết và bổ trợ chặt chẽ
cho nhau. Vì thế, việc phối kết hợp với các mơn
học khác trong q trình giảng dạy môn “Tiếng
Trung Quốc cổ đại” là điều phải được các giảng


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Quốc cổ đại” sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian
hơn, chú trọng hơn về những phần trọng điểm như


từ vựng, sự khác biệt về ngữ pháp…


<b>2.5. Sử dụng các phương pháp giảng dạy </b>
<b>hiện đại</b>


Sự bùng nổ của công nghệ thông tin nói riêng
và khoa học cơng nghệ nói chung đang tác động
mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành
trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, để cơng
tác giảng dạy mơn “Tiếng Trung Quốc cổ đại” đáp
ứng được đòi hỏi cấp thiết của công tác giáo dục
trong thời đại mới, chúng ta cần cải cách phương
pháp giảng dạy môn học này theo hướng vận dụng
công nghệ thông tin, phương tiện truyền thông đa
phương tiện và các trang thiết bị dạy học hiện đại
phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực
hành để nâng cao chất lượng dạy học.


Theo chương trình đào tạo, chỉ có 45 tiết dành
cho mơn “Tiếng Trung Quốc cổ đại, nhưng giáo
trình “Tiếng Trung Quốc cổ đại” của HVKHQS
lại gồm 20 bài, giáo trình “Tiếng Trung Quốc cổ
đại” dùng để bổ trợ của Từ Tơng Tài, Lí Văn gồm
25 bài. Như thế, thời gian giảng viên giảng các
nội dung chính và thời gian mà học viên, sinh
viên suy nghĩ để tiếp thu kiến thức đã học sẽ là
quá ít. Cứ như thế, giảng viên luôn thấy rằng thời
gian dạy quá gấp gáp, học viên, sinh viên thì cho
rằng nội dung học quá nhiều. Nếu được trang bị
các phương tiện giảng dạy hiện đại, như đưa vào


sử dụng máy chiếu, màn hình cảm ứng, các phần
mềm hỗ trợ,… ở khắp các tiết học, đưa các nội
dung trọng điểm, khung bài giảng và lượng lớn
các ví dụ bổ sung thành PPT cho học viên, sinh
viên quan sát trên màn hình lớn, sẽ khơng chỉ tiết
kiệm được thời gian viết bảng, làm nổi bật được
nội dung giảng dạy, mà cịn có thể cung cấp một
môi trường đọc văn bản cổ cho học viên, sinh viên.
Ví dụ như trong phần trên, khi giảng dạy đến trật
tự từ trong tiếng Trung Quốc cổ đại, giảng các từ
ngữ “所以<sub>”, “</sub>眼<sub>”, “</sub>目<sub>” và các ví dụ có liên quan, </sub>
giảng viên có thể đưa đầy đủ lịch sử diễn biến của
từ, ngữ nghĩa, cách dùng và các ví dụ vào PPT để
chiếu cho học viên, sinh viên quan sát, dẫn dắt gợi
mở cho họ dùng phương pháp quy nạp, so sánh đối


chiếu để rút ra kết luận, thời gian ghi chép thường
nhật sẽ được dùng để suy nghĩ thực hiện các thao
tác thực tế.


Kỹ thuật đa phương tiện là công nghệ hiện đại
kết hợp chữ viết, âm thanh, hình ảnh thành một
khối thống nhất, nếu biết tận dụng đầy đủ điều này,
có thể đạt được hiệu quả cao đến không ngờ. Các
tác phẩm thời trước Tần thường xuất hiện các đồ
vật như đỉnh (鼎<sub>), cái đỉnh lớn (</sub>鼐<sub>), chén (</sub>爵<sub>), bát </sub>
(豆<sub>), bát làm bằng trúc (</sub>笾<sub>),... nếu chỉ dựa vào sự </sub>
miêu tả qua ngơn ngữ, thì rất dễ nghe nhầm, hiểu
nhầm, thế nhưng khi đưa hình ảnh những đồ vật
đó lên màn hình, cùng với ngữ nghĩa từ vựng được


giải thích một cách ngắn gọn ngay ở phía dưới,
người học sẽ có nhận thức sâu sắc hơn về hình
dáng, kích thước, cơng dụng của chúng, hiểu rõ
hơn về nghĩa của từ. Ví dụ như cung (宫), thương
(商<sub>), giác (</sub>角<sub>), chủy (</sub>徵<sub>), vũ (</sub>羽<sub>) là cách gọi của </sub>
người Trung Quốc cổ đại đối với ngũ âm, nếu chỉ
dựa vào sự miêu tả bằng ngơn ngữ thì học viên,
sinh viên sẽ thấy q khó hiểu, mơng lung, mơ hồ,
nhưng nếu giảng viên có thể dùng âm thanh kết
hợp với hình ảnh diễn tả chữ và nghĩa bằng phầm
mềm để miêu tả ý nghĩa của 5 từ này, học viên,
sinh viên sẽ dễ dàng lĩnh hội được ngữ nghĩa của
chúng, đồng thời cũng làm tăng hứng thú học tập.


Khi giảng đến các văn bản thư tịch cổ, vì
khơng thể có điều kiện cho học viên, sinh viên tiếp
xúc trực tiếp với bản gốc, nếu có điều kiện, giảng
viên nên tìm kiếm, tổng hợp và trình chiếu các
hình ảnh, băng đĩa tư liệu về các văn bản thư tịch
cổ này trên lớp, điều này giúp học viên, sinh viên
quan sát được hình ảnh gốc của văn bản, thư tịch
cổ, từ đó nảy sinh hứng thú tìm hiểu những kiến
thức trong văn bản, thư tịch cổ đó, điều quan trọng
là trong các thư tịch cổ này, các câu chưa được
đánh dấu câu và phân chia một cách rõ rệt, học
viên, sinh viên có thể tận dụng điều đó để luyện
tập đọc và phân tích câu, góp phần nâng cao kỹ
năng đọc và khả năng tìm hiểu văn bản, thư tịch cổ
của bản thân.



</div>

<!--links-->

×