Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đơn vị tiến hoá cơ sở và hiện tượng tiến hoá cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143 KB, 9 trang )


Đơn vị tiến hoá cơ sở và hiện
tượng tiến hoá cơ sở


Theo N.V. Timôphêep Rixôpxki (1977)
đơn vị tiến hoá cơ sở phải thoả mãn 3
điều kiện là (i) có tính toàn vẹn trong
không gian và thời gian, (ii) biến đổi có
cơ cấu di truyền qua các thế hệ và(iii) tồn
tại trong tự nhiên.
Chỉ có quần thể cùng một lúc thoả mãn
cả 3 điều kiện trên. Cá thể không là đơn
vị tiến hoá cơ sở bởi vì kiểu gen của cá
thể hầu như không có thay đổi lớn trong
suốt quá trình sống. Hơn nữa, thời gian
sống của cá thể ngắn, vì vậy những biến
đổi di truyền ở cá thể không được nhân
lên trong quần thể thì sẽ không đóng góp
vào quátrình tiến hoá.
Loài cũng không phải là đơn vị tiến hoá
vì loài là hệ thống di truyền kín, nghĩa là
cáchly sinh sản với các loài khác,do đó
hạn chế khả năng cải biến thànhphần
kiểu gen của nó.
Quần thể là tổ chức có thực, là đơn vị tồn
tai, đơn vị sinh sản của loài trong tự
nhiên, được hình thànhtrong lịch sử. Tuy
đa hìnhvề kiểu gen và kiều hình nhưng
quần thể vẫn có tính toàn vẹn về mặt di
truyền, phân biệt với các quần thể khác


trong loài bởi những dấu hiệu đặc trưng.
Tuy cách ly một cách tương đối với các
quần thể lân cận nhưng giữa các quần thể
trong loài vẫn có khả năng trao đổi gen.
Bởi vậy, quần thể được xem là đơn vị
tiến hoá cơ sở.
Hiện tượng tiến hoá cơ sở bắt đầu bằng
những biến đổi di truyền trong đơn vị
tiếnhoá cơ sở, biểu hiện ở biến đổi tần số
tương đối của các diễn ở một số gen tiêu
biểucủa quầnthể, diễn ra theo hướngxác
định qua nhiều thế hệ.
Những biến đổi di truyền trong quần thể
có thể xảy ra theo hai chiều thuận nghịch,
lặp lại nhiều lần, không dẫn tới hình
thành loài mới. Sự biến đổi đó có thể xảy
ra theo một chiều,tích luỹ qua thời gian
dài, làm cho quần thể trở thành một hệ
gen kín, cách ly với quần thể khác trong
loài, nghĩa là hình thành một loài mới.
Như vậy, hiện tượng tiến hoá cơ sở là
nền tảng, là giai đoạn đầu của quá trình
hình thành loài mới, nhưng khôngphải là
giai đoạn tất yếudẫnđếnsự xuất hiện loài
mới.
Quần thể - Đơn vị tiến hoá cơ sở
THứ BA, 23 THÁNG 2 2010 13:05

Trong thiên nhiên, các cá thể cùng loài
rất ít khi sống đơn độc, mà thường quần

tụ thành nhóm, đàn cư trú trên một vùng
xác định, có điều kiện thuận lợi, dựa vào
nhau trong cuộc sống thể hiện qua các
tập tính hoạt động kiếm ăn, tự vệ, sinh
sản, chống chọi các yếu tố ngoại cảnh bất
lợi,...
Đơn vị tổ chức của loài như thế gọi là
quần thể địa phương (local population).
Quần thể địa phương là một nhóm cá thể
cùng loài chung sống trong một khu vực.
Thực tế, việc xác định ranh giới giữa các
quần thể địa phương là một công việc
không dễ dàng, bởi vì trong mỗi quần thể
địa phương các cá thể có thể phân bố
không đồng đều, hình thành những nhóm
nhỏ hơn mang tính gián đoạn của chính
quần thể đó. Hơn nữa các loài động vật
thường có hiện tượng di chuyển một
phần lớn hoặc toàn bộ các cá thể từ quần
thể này sang quần thể khác, ở thực vật
cũng như vậy, thường có sự phát tán hạt
phấn, quả, hạt,...giữa các quần thể, gọi là
hiện tượng di nhập gen. Do đó làm cho
quần thể địa phương không phải là một
tổ chức độc lập. Chính vì lẽ đó, người ta
thường dùng thuật ngữ quần thể di truyền
(genetic population) hay quần thể
Menden (Mendelian population).
Phối hợp hai dấu hiệu khu vực phân bố
và quan hệ sinh sản, có thể định nghĩa

×