Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.68 KB, 74 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.Hệ thống kiểm soát nội bộ với kiểm toán tài chính
1.1.1. Bản chất hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý và về chức năng, về quy
trình quản lý song trong quan hệ với sự tồn tại tất yếu của kiểm tra, kiểm soát
trong quản lý thì vấn đề quản lý được nhìn nhận như sau:
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã
định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá
trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều pha (giai
đoạn): Ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu
cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây
dựng các chương trình, kế hoạch... Sau khi các chương trình, kế hoạch đã
được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Ở giai
đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu,
đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để
điều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan
điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động…
Rõ ràng, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của quản lý
mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Bởi vậy cần
quan niệm kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên, chức năng này
được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào
loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống văn hoá và những điều kiện kinh
tế – xã hội khác của mỗi nơi trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung nhất
thường là phân thành quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Dĩ nhiên trong nhiều
trường hợp, giữa hai cấp quản lý cơ bản nói trên còn có cấp quản lý trung gian
vừa chịu sự quản lý vĩ mô của cấp trên, vừa thực hiện chức năng quản lý đối
1


Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
với đơn vị cấp dưới. Trong mọi trường hợp để đảm bảo hiệu quả hoạt động,
tất yếu mỗi đơn vị cơ sở đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả
các khâu: rà soát các tiềm năng, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định
hướng, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông
tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của
mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc rà
soát này có tên gọi là kiểm soát. Một cách chung nhất, kiểm soát được hiểu là
tổng hợp những phương sách để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách
thể quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu theo nhiều chiều: cấp trên
kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc biện pháp cụ thể; đơn vị này
kiểm soát đơn vị khác thông qua việc chi phối đáng kể về quyền sở hữu và lợi
ích tương ứng; nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và thủ tục
quản lý… Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là kiểm soát nội bộ đơn vị.
Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực hiện
chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở mức trực tiếp
(thông thường với tư cách chủ sở hữu), Nhà nước trực tiếp kiểm tra mục tiêu
chương trình – kế hoạch, kiểm tra các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả
thực hiện các mục tiêu của các đơn vị, kiểm tra tính trung thực của các thông
tin và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ… Với các đối tượng trên,
việc kiểm tra có thể được thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất với
một hoặc nhiều đối tượng. Trong kiểm tra trực tiếp, thường có ngay các kết
luận làm rõ vụ việc được kiểm tra thậm chí có thể có ngay quyết định điều
chỉnh, xử lý gắn với kết luận kiểm tra. Công việc kiểm tra này được gọi là
thanh tra.
Ở mức gián tiếp, Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các
chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua
các chính sách của mình (đặc biệt là chính sách thuế, bảo hiểm, công trái…)

hoặc tham gia đầu tư hay với cương vị là khách hàng của các đơn vị… Dĩ
nhiên, trong lịch sử không bao giờ vai trò kiểm tra của Nhà nước, của các
2
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
chuyên gia, các tổ chức kiểm toán cũng như nhau. Tuy nhiên, từ góc độ đơn
vị cơ sở, kiểm tra của tất cả các tổ chức, chuyên gia bên ngoài đều được gọi là
ngoại kiểm.
Về loại hình hoạt động, cũng có nhiều loại cụ thể khác nhau. Theo mục
tiêu của các hoạt động có thể quy về hai loại hoạt động cơ bản: hoạt động
kinh doanh và hoạt động sự nghiệp. Với hoạt động kinh doanh, lợi nhuận
được coi là mục tiêu và là thước đo chất lượng hoạt động. Do đó, kiểm tra cần
hướng tới hiệu quả của vốn, của lao động, của tài nguyên. Trong khi đó hoạt
động sự nghiệp có mục tiêu chủ yếu là thực hiện tốt nhiệm vụ cụ thể về xã
hội, về quản lý trên cơ sở tiết kiệm kinh phí cho việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Trong trường hợp này, kiểm tra thường xem xét hiệu năng của quản lý thay
cho hiệu quả trong kinh doanh.
Ngay trong bản thân hoạt động kinh doanh cũng rất đa dạng: sản xuất
công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, xây lắp, vận tải, du lịch… Những hoạt
động này tuy đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận song lại khác nhau về lĩnh vực
tạo ra lợi nhuận, về cơ cấu các nguồn sử dụng, về quy trình tạo ra sản phẩm,
dịch vụ và từ đó khác nhau về cơ cấu chi phí, thu nhập… Do vậy, nội dung và
phương pháp cụ thể của kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra nghiệp vụ kinh doanh
cũng có sự khác biệt đáng kể.
Trong quan hệ sở hữu cũng cần chỉ rõ hai hình thức sở hữu cơ bản: sở
hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, các đơn vị thuộc cả hai hình thức
này thông thường đều chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nên đều cần được
kiểm tra kết quả hoạt động theo những chuẩn mực chung. Tuy nhiên, với các
đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, Nhà nước vừa là chủ sở hữu, vừa là người điều

tiết hoạt động nên công việc kiểm tra thường do một bộ máy chuyên môn của
Nhà nước tiến hành. Trong khi đó các đơn vị thuộc sở hữu tư nhân theo quy
định của pháp luật cụ thể có quyền lựa chọn đơn vị (cá nhân) làm nhiệm vụ
kiểm tra kết quả hoạt động trên báo cáo tài chính.
3
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Trong quan hệ truyền thống văn hoá và các điều kiện kinh tế – xã hội
khác nhau có ảnh hưởng đến kiểm tra cần đặc biệt chú trọng trình độ kinh tế
và dân trí, trình độ quản lý, tính kỷ cương và truyền thống luật pháp. Những
yếu tố này có ảnh hưởng tới quản lý đồng thời tác động đến sự khác biệt trong
cách thức và tổ chức kiểm tra.
Trong mọi hoạt động của các doanh nghiệp, bộ phận thực hiện chức
năng kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý là hệ thống kiểm soát nội bộ
của doanh nghiệp đó.
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát
luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu
bởi hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Quá trình nhận thức và nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ đã dẫn
đến các định nghĩa khác nhau từ giản đơn đến phức tạp.
Kiểm soát: xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định.
Theo COSO – một Ủy ban thuộc Hội đồng quốc gia Hoa Kỳ chống
gian lận về báo cáo tài chính “Kiểm soát nội bộ là một quá trình do người
quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết
lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu dưới đây:
- Báo cáo tài chính đáng tin cậy.
- Các luật lệ và quy định được tuân thủ.
- Hoạt động hữu hiệu và hiệu quả.”
Trong định nghĩa nêu trên, bốn nội dung cơ bản là quá trình, con người,

sự đảm bảo hợp lý và các mục tiêu. Chúng được hiểu như sau:
Kiểm soát nội bộ là một quá trình: Kiểm soát nội bộ bao gồm một chuỗi
hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp
với nhau thành một thể thống nhất. Quá trình kiểm soát là phương tiện giúp
đơn vị đạt được các mục tiêu của mình.
Con người thiết kế và vận hành kiểm soát nội bộ: Kiểm soát nội bộ bao
gồm chính sách, thủ tục, biểu mẫu… do con người trong tổ chức như Hội
4
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhân viên khác. Chính con người định ra
mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và vận hành chúng.
Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý là các mục tiêu sẽ
được thực hiện, chứ không phải đảm bảo tuyệt đối. Bởi vì khi vận hành hệ
thống kiểm soát, những yếu kém có thể xảy ra do các sai lầm của con người
nên dẫn đến không thực hiện được các mục tiêu. Kiểm soát nội bộ có thể ngăn
chặn và phát hiện những sai phạm nhưng không thể đảm bảo là chúng không
bao giờ xảy ra. Hơn nữa, một nguyên tắc cơ bản trong việc đưa ra quyết định
quản lý là chi phí cho quá trình kiểm soát không thể vượt quá lợi ích mong
đợi từ quá trình kiểm soát đó. Do đó, tuy người quản lý có thể nhận thức đầy
đủ về các rủi ro, nhưng nếu chi phí cho quá trình kiểm soát quá cao thì họ vẫn
không áp dụng các thủ tục kiểm soát rủi ro.
Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ:
Thứ nhất: Đối với báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ phải bảo đảm về
tính trung thực và đáng tin cậy, bởi vì chính người quản lý đơn vị phải
có trách nhiệm lập báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực và chế độ
kế toán hiện hành.
Thứ hai: Đối với tính tuân thủ, kiểm soát nội bộ trước hết phải đảm bảo
hợp lý việc chấp hành luật pháp và các quy định. Điều này xuất phát từ

trách nhiệm của người quản lý đối với những hành vi không tuân thủ
trong đơn vị. Bên cạnh đó, kiểm soát nội bộ còn phải hướng mọi thành
viên trong đơn vị vào việc tuân thủ các chính sách, quy định nội bộ của
đơn vị, qua đó bảo đảm đạt được những mục tiêu của đơn vị.
Thứ ba: Đối với mục tiêu sự hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động,
kiểm soát nội bộ giúp đơn vị bảo vệ và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực , bảo mật thông tin, nâng cao uy tín, mở rộng thị phần, thực hiện
các chiến lược kinh doanh của đơn vị…
5
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Như vậy, các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ rất rộng, chúng
bao trùm lên mọi hoạt động và có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của đơn vị.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm
soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn
vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và
phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm
bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị.”
(6,25)
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (The International Federation of
Accountants - IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách
và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn vị; bảo đảm độ tin
cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý; và bảo đảm
hiệu quả của hoạt động.
Như vậy, các quan niệm khác nhau về HTKSNB của COSO, Chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam, IFAC không mâu thuẫn với nhau mà phản ánh đầy
đủ một hệ thống tiêu chuẩn để giúp các đơn vị có thể đánh giá HTKSNB và

tìm giải pháp để thực hiện.
Theo đó, kiểm soát nội bộ là một chức năng thường xuyên của của các
đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong từng khâu
công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất cả
các mục tiêu đặt ra của đơn vị:
Mục tiêu bảo vệ tài sản của đơn vị: Tài sản của đơn vị bao gồm cả tài
sản hữu hình và tài sản vô hình. Những tài sản này có thể bị đánh cắp, lạm
dụng vào những mục đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không được bảo vệ
bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp.
Mục tiêu bảo đảm độ tin cậy của các thông tin: Thông tin kinh tế, tài
chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là căn cứ quan trọng cho việc hình
thành các quyết định của các nhà quản lý. Như vậy các thông tin cung cấp
6
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
phải đảm bảo tính kịp thời, và độ tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh
đầy đủ và khách quan các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế, tài
chính.
Mục tiêu bảo đảm thực hiện các chế độ pháp lý: Hệ thống kiểm soát nội
bộ được thiết kế trong doanh nghiệp phải đảm bảo các quyết định và chế độ
pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải
được tuân thủ đúng mức. Cụ thể hệ thống kiểm soát nội bộ cần:
* Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến các
hoạt động của doanh nghiệp;
* Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm trong
mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Đảm bảo việc ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác cũng như việc lập
Báo cáo tài chính trung thực và khách quan.
Mục tiêu bảo đảm hiệu quả của hoạt động và nâng cao khả năng quản

lý: Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự
lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và
sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả hoạt
động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế giám sát của hệ thống
kiểm soát nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành
của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Để quá trình quản lý đạt hiệu quả cao, các đơn vị, tổ chức cần xây dựng
và không ngừng củng cố hệ thống kiểm soát nội bộ với bốn yếu tố chính: môi
trường kiểm soát, hệ thống thông tin (hệ thống kế toán), các thủ tục kiểm soát
và kiểm toán nội bộ.
Tổ chức HTKSNB có sự khác biệt đáng kể giữa các đơn vị, nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt động, mục tiêu … của từng
nơi, nhưng bất kỳ HTKSNB nào cũng phải bao gồm những bộ phận cơ bản:
7
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin (hệ thống kế toán), các thủ tục kiểm
soát và kiểm toán nội bộ.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.2.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát là thành phần quan trọng nhất trong bốn thành
phần của hệ thống kiểm soát nội bộ, nếu thiếu môi trường kiểm soát hữu hiệu
thì chắc chắn hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ không có hiệu quả, kể cả khi ba
thành phần khác của hệ thống kiểm soát nội bộ có chất lượng tốt.
Môi trường là nơi xảy ra một hiện tượng hoặc diễn ra một quá trình
trong quan hệ với hiện tượng và quá trình ấy.
Môi trường kiểm soát là thái độ, khả năng, sự nhận biết các hoạt động
kiểm soát của người quản lý, các chính sách, thủ tục kiểm soát, tính trung

thực và giá trị đạo đức, cơ cấu tổ chức, sự phân công trách nhiệm, phân chia
quyền lực, chính sách về nhân sự.
Môi trường kiểm soát bao gồm các hành động, chế độ và thể thức mà
nó phản ánh thái độ chung của Ban quản trị cấp cao, các giám đốc và các chủ
nhân của một tổ chức về quá trình kiểm soát và về tầm quan trọng của nó đối
với tổ chức đó
Trên thực tế, tính hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong các
hoạt động của một tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý tại doanh
nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra, kiểm soát là quan
trọng và không thể thiếu được đối với mọi hoạt động trong đơn vị thì mọi
thành viên của đơn vị dó sẽ có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra,
kiểm soát và tuân thủ mọi quy định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại, nếu
hoạt động kiểm tra, kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn
các quy chế về kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu
quả bởi các thành viên của đơn vị.
8
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Môi trường kiểm soát bao gồm những nhân tố sau: Đặc thù về quản lý,
cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, Ủy ban kiểm soát và
môi trường bên ngoài.
Đặc thù về quản lý đề cập tới các quan điểm khác nhau trong điều hành
hoạt động doanh nghiệp của các nhà quản lý. Các quan điểm đó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến chính sách, chế độ, các quy đinh va cách thức tổ chức kiểm tra,
kiểm soát trong doanh nghiệp. Bởi vì chính các nhà quản lý và đặc biệt là các
nhà quản lý cấp cao nhất sẽ phê chuẩn các quyết định, chính sách và thủ tục
kiểm soát sẽ áp dụng tại doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chứ được xây dựng hợp lý trong doanh nghiệp sẽ góp phần
tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống

xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành các quyết định, triển khai
các quyết định đó cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định
đó trong toàn bộ doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức hợp lý còn góp phần ngăn
ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong hoạt động tài chính kế
toán của doanh nghiệp.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên
toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chồng
chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức năng, bảo
đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát
lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc.
Như vậy để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả, các
nhà quản lý phải tuân theo những nguyên tắc sau:
* Tạo lập mối quan hệ kiểm soát bền vững trong từng phần hành, từng
bộ phận của doanh nghiệp.
* Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng bảo đảm các nguyên
tắc kế toán: xử lý nghiệp vụ, ghi chép sổ và bảo quản tài sản.
Chính sách nhân sự:Sự phát triển của mọi doanh nghiệp luôn gắn liền
với đội ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm
9
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt
động của doanh nghiệp, Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều quá trình
kiểm soát có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu đề
ra của kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, mặc dù doanh nghiệp có thiết kế và vận
hành các chính sách và thủ tục kiểm soát chặt chẽ nhưng với đội ngũ nhân
viên kém năng lực trong công việc và thiếutrung thực về phẩm chất đạo đức
thì hệ thống kiểm soát nội bộ không thể phát huy hiệu quả.
Tóm lại, với những lý do nêu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp cần có

những chính sách cụ thể và rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt,
khen thưởng, kỷ luật nhân viên. Việc đào tạo, bố trí cán bộ và đề bạt nhân sự
phải phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức, đồng thời phải
mang tính kế tục và liên tiếp.
Công tác kế hoạch: Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế
hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu chi quỹ, kế hoạch hay dự toán đầu tư, sửa chữa
tài sản cố định, đặc biệt là kế hoạch tài chính gồm những ước tính cân đối tình
hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân chuyển tiền trong tương lai là
những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát. Nếu việc lập và thực
hiện kế hoạch được tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch
và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Vì vậy trong thực
tế các nhà quản lý thường quan tâm xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo
dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn
đề bất thường và xử lý, điều chỉnh kế hoạch kịp thời. Đây cũng là khía cạnh
mà KTV thường quan tâm trong kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp,
đặc biệt trong việc áp dụng các thủ tục phân tích.
Ủy ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao
nhất của đơn vị như thành viên của Hội đồng quản trị nhưng không kiêm
nhiệm các chức vụ quản lý và những chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm
soát. Ủy ban kiểm soát thường có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
 Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty.
10
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
 Kiểm tra và giám sát công việc của KTV nội bộ.
 Giám sát tiến trình lập Báo cáo tài chính.
 Dung hòa những bất đồng (nếu có) giữa Ban Giám đốc và các
KTV bên ngoài.
Môi trường bên ngoài: Môi trường kiểm soát chung của một doanh

nghiệp còn phụ thuộc vào các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố này tuy không
thuộc sự kiểm soát của các nhà quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái
độ, phong cách điều hành của các nhà quản lý cũng như sự thiết kế và vận
hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm các nhân tố này
bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của nhà nước, ảnh hưởng
của các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối phát triển của đất nước...
Như vậy môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ những nhân tố có ảnh
hưởng đến quá trình thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của hệ thống kiểm
soát nội bộ doanh nghiệp, trong đó nhân tố chủ yếu và quan trọng là nhận
thức về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và điều hành hoạt động của các nhà
quản lý doanh nghiệp.
1.1.2.2. Hệ thống kế toán
Kế toán là quá trình ghi sổ, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế
một cách có hệ thống nhằm mục đích cung cấp thông tin tài chính cho quá
trình ra quyết định.
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ
thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng tổng
hợp, cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng
vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của một hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận biết, thu
thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức
đó, thỏa mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ
thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các mục tiêu tổng quát sau đây.
11
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
 Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp
vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị.
 Sự phê chuẩn: đảm bảo mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp


 Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ảnh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh.
 Sự đánh giá: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế toán.
 Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được thực
hiện kịp thời theo quy định.
 Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghi
vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác
trên các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
 Sự phân loại: bảo đảm số liệu được phân loại đúng theo sơ đồ tài khoản
của đơn vị, và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế toán có liên
quan.
Các mục tiêu tổng quát được vận dụng cụ thể trong từng loại hoạt động,
từng loại nghiệp vụ trọng yếu của đơn vị.
Ví dụ về sự triển khai các mục tiêu tổng quát thành những mục tiêu cụ
thể trong nghiệp vụ bán hàng.
Biểu số 01: Các mục tiêu kiểm soát nội bộ trong nghiệp vụ bán hàng
Mục tiêu tổng quát
của KSNB
Mục tiêu kiểm soát cụ thể đối với nghiệp vụ bán hàng
Tính có thực Doanh thu ghi sổ của hàng hoá gởi cho khách hàng là có
thật
Sự phê chuẩn Các nghiệp vụ bán hàng đều được phê chuẩn đúng đắn
Tính đầy đủ Các nghiệp vụ bán hàng phát sinh đều phải được ghi sổ
Sự đánh giá Doanh thu của hàng hoá gởi đi đã tính đúng số tiền, và ghi
sổ chính xác
Tính đúng kỳ Doanh thu ghi sổ đúng thời gian
Sự phân loại Các nghiệp vụ bán hàng được phân loại đúng đắn
12

Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Chuyển sổ và tổng
hợp chính xác
Các nghiệp vụ bán hàng được ghi đúng đắn vào sổ chi tiết,
và tổng hợp chính xác

Mục tiêu kiểm soát nội bộ không trùng với mục tiêu kiểm toán BCTC.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200, Khoản 11 xác định: “Mục tiêu của
kiểm toán BCTC là giúp cho KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác
nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện
hành hoặc được chấp nhận, có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh
trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu hay
không?”.
(6,16)
Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy
rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài
chính của đơn vị.
Ở đây, các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp pháp được hiểu như sau:
Trung thực: là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự
thật nội dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Hợp lý: là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực,
cần thiết và phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người
thừa nhận.
Hợp pháp: là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng pháp
luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận).
1.1.2.3. Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định, để tiến
hành một công việc có tính chất chính thức.

Thủ tục kiểm soát: là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị
thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ
thể.
Để thực hiện các mục tiêu kiểm soát, các nhà quản lý phải quy định các
thủ tục kiểm soát và chúng được thiết kế tuỳ thuộc vào những nét đặc thù của
13
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
cơ cấu tổ chức, của hoạt động kinh doanh. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ quy định: “KTV phải hiểu biết các
thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng kế hoạch và chương trình kiểm
toán”.
(1,31)

Các thủ tục kiểm soát được thiết lập trong đơn vị dựa trên ba nguyên
tắc cơ bản: nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm
nhiệm; và nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn.
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Theo nguyên tắc này, trách nhiệm
và công việc cần được phân chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều người
trong bộ phận. Việc phân công, phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hóa
trong công việc, sai sót ít xảy ra và khi xảy ra thường dễ phát hiện do có sự
kiểm tra chéo.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm quy định sự cách ly thích hợp về trách
nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và
hành vi lạm dụng quyền hạn. Ví dụ trong tổ chức nhân sự không thể bố trí
kiêm nhiệm các nhiệm vụ phê chuẩn và thực hiện, thực hiện và kiểm soát, ghi
sổ tài sản và bảo quản tài sản…
Ở nước ta, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, Điều 9 - Điều lệ tổ
chức kế toán nhà nước, đã quy định: “Cán bộ kế toán ở các đơn vị quốc

doanh, công ty hợp danh, và các đơn vị có sử dụng kinh phí của Nhà nước
hoặc đoàn thể không được kiêm nhiệm làm thủ kho, thủ quỹ, tiếp liệu và các
công tác vật chất khác. Lãnh đạo đơn vị, kể cả lãnh đạo công tác tài chính, kế
toán của các đơn vị nêu trên không được bố trí những người thân trong gia
đình làm công tác tài chính kế toán, thủ kho, thủ quỹ tại đơn vị mình”.
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn: Theo sự ủy quyền của các nhà quản
lý, các cấp dưới được giao cho quyết định và giải quyết một số công việc
trong một phạm vi nhất định. Quá trình được tiếp tục mở rộng xuống các cấp
thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn
không làm mất tính tập trung của doanh nghiệp.
14
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Bên cạnh đó, để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ
kinh tế phải được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được thực hiện qua hai
loại: phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
Sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các chính
sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ.
Ví dụ việc xây dựng và phê chuẩn bảng giá bán sản phẩm cố định, hạn mức
tín dụng cho khách hàng…
Sự phê chuẩn cụ thể được thực hiện theo từng nghiệp vụ kinh tế riêng.
1.1.2.4. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị
tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản
trị nội bộ đơn vị.
Theo các Chuẩn mực Thực hành về Kiểm toán nội bộ do Viện Kiểm
toán Nội bộ Hoa Kỳ ban hành năm 1978, “Kiểm toán nội bộ là một chức năng
đánh giá độc lập được thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các
hoạt động của tổ chức như là một hoạt động phục vụ cho tổ chức”

(5,85)
. Mục
tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành
trách nhiệm của họ một cách hiệu quả.
Theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC), kiểm toán nội bộ là “một hoạt
động đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ
cho doanh nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp
và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
(5,85)
Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của
doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu
quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội
bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu giúp cho doanh nghiệp có được những
thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong doanh nghiệp, chất
lượng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy
15
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ
phát huy tác dụng nếu:
 Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ
để không giới hạn phạm vi hoạt động của nó, đồng thời phải được giao
một quyền hạn tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với
phòng kế toán và các bộ phận hoạt động được kiểm tra.
 Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân
viên có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các
quy định hiện hành.
1.1.3. Những hạn chế vốn có của hệ thống kiểm soát nội bộ

Khi tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, KTV cần
nhận thức rằng mỗi hệ thống kiểm soát nội bộ dù được thiết kế hoàn hảo đến
đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi sai phạm có thể xảy ra, đó
là những hạn chế vốn cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo Chuẩn mực
Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, những hạn
chế đó được xác định như sau:
 Ban Giám đốc thường yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ
không vượt quá những lợi ích mà hệ thống đó mang lại.
 Phần lớn công tác kiểm tra nội bộ thường tác động đến những
nghiệp vụ lặp đi lặp lại mà không tác động đến những nghiệp vụ bất
thường.
 Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí, sai sót về xét đoán hoặc
do không hiểu rõ yêu cầu công việc.
 Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ do có
sự thông đồng của một người trong Ban Giám đốc hay một nhân
viên với những người khác ở trong hay ngoài đơn vị.
 Khả năng những người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ
lạm dụng đặc quyền của mình.
16
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
 Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc
bị vi phạm.
1.2. Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1. Mục đích đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
KTV có sự hiểu biết và biết cách đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình kiểm toán. Nếu kết quả đánh giá hệ
thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt và có độ tin cậy cao thì có thể thu hẹp
phạm vi, nội dung, khối lượng công việc kiểm toán và tiết kiệm chi phí kiểm

toán. Nếu đánh giá không đúng về tình hình, độ tin cậy của hệ thống kiểm
soát nội bộ thì KTV có thể sẽ bỏ sót những nội dung trọng yếu và không tránh
khỏi rủi ro kiểm toán.
Mặt khác đánh giá HTKSNB có ảnh hưởng rất lớn đối với công việc
của KTV. Cụ thể là:
 Thông qua tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và các bộ phận, KTV
đánh giá được những điểm mạnh và điểm yếu của hệ thống kiểm soát
nội bộ nói chung, cũng như trong từng bộ phận, từng khoản mục.
 Trên cơ sở hiểu biết về kiểm soát nội bộ, KTV hinh dung về khối lượng
và độ phức tạp của công việc, đánh giá sơ bộ về rủi ro kiểm soát. Từ
đó, KTV sẽ xác định phương hướng và phạm vi kiểm tra, thiết kế các
thủ tục kiểm toán, dự kiến về thời gian và lực lượng nhân sự cần thiết
trong kế hoạch và chương trình kiểm toán.
Đồng thời đánh giá HTKSNB cũng là thể hiện sự tuân thủ chuẩn mực
nghề nghiệp của các KTV khi tiến hành kiểm toán. Vì thế Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ mục 02 – yêu cầu:
“KTV phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán
thích hợp, có hiệu quả…”.
(5,26)
1.2.2. Trình tự đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
1.2.2.1. Sơ đồ khái quát các bước thực hiện đánh giá HTKSNB
17
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, KTV phải đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ và rủi ro kiểm soát không chỉ để xác minh tính hữu hiệu của kiểm
soát nội bộ mà còn làm cơ sở cho việc xác định phạm vi thực hiện các thử
nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ của đơn vị.

Sơ đồ số 01 trình bày khái quát trình tự đánh giá HTKSNB và đánh giá
rủi ro kiểm soát với việc liên hệ kết quả các cuộc khảo sát số dư trên BCTC.
Trong sơ đồ này, các bước (1), (2), (3) là các bước của quá trình thu
thập thông tin về HTKSNB và đánh giá rủi ro kiểm soát trong giai đoạn lập
kế hoạch lập kiểm toán. Các bước còn lại là các bước liên hệ các kết quả của
việc đánh giá đó với các trắc nghiệm kiểm toán.
18
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
Sơ đồ số 01: Khái quát trình tự đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của
khách hàng và quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát trong kiểm toán
Đạt được sự hiểu biết về HTKSNB của khách hàng đủ để lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Đánh giá xem liệu các BCTC có thể kiểm toán được hay không
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Ý kiến “từ chối” hoặc rút ra khỏi hợp đồng
Mức tối đa
Mức được chứng minh bằng sự hiểu biết đã có
Lập kế hoạch và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát
Xác định liệu mức đánh giá về rủi ro kiểm soát có được giảm hơn từ kết quả của các cuộc thử
nghiệm kiểm soát hay không
Mức thấp hơn khả dĩ có thể chứng minh được
Mở rộng sự hiểu biết nếu thấy cần thiết
Rủi ro kiểm soát giảm xuống, rủi ro phát hiện tăng lên và phải lập kế hoạch các trắc nghiệm kiểm
toán để thỏa mãn mức rủi ro phát hiện tăng lên này
Rủi ro kiểm soát tăng hơn so với mức đánh giá ban đầu hoặc ở mức tối đa. Rủi ro phát hiện
giảm xuống và phải lập kế hoạch các trắc nghiệm kiểm toán để thỏa mãn mức rủi ro phát
hiện thấp hơn này
báo cáo tài chính


(1)

(2) Không thể kiểm
toán được

(3)

3 khả năng
19
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
(4)
(5)

(7) (6)
1.2.2.2. Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ
thống kiểm soát nội bộ trên các giấy làm việc:
KTV thu thập hiểu biết về HTKSNB nhằm xác định những trọng điểm
trong quá trình xử lý các nghiệp vụ, xử lý các hiện tượng sai phạm và gian
lận. KTV tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt chủ yếu: thiết
kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ
máy kiểm soát; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiểm soát nội bộ.
Tìm hiểu HTKSNB được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán, trong đó KTV phải tìm hiểu về thiết kế và vận hành của hệ thống kiểm
soát nội bộ của khách hàng theo từng yếu tố cấu thành: Môi trường kiểm soát,
hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.
Thứ nhất: Tìm hiểu về môi trường kiểm soát
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ, quy định: “KTV phải hiểu biết về môi trường kiểm soát của đơn vị để

20
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
đánh giá nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội
đồng quản trị và Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ.”
KTV tiến hành trao đổi, phỏng vấn người quản lý cấp cao và các nhân viên
quản lý của đơn vị được kiểm toán về các nội dung sau:
 Đối với thái độ của người quản lý: Thể hiện ở quá trình đào tạo và việc
nắm bắt các nội dung kiểm soát. Nếu những người quản lý cao cấp
được đào tạo chính quy, đúng chuyên ngành, kết quả phỏng vấn cho
thấy họ hiểu biết công việc kiểm soát cùng với hệ thống chính sách, thủ
tục kiểm soát được ban hành đầy đủ, đó là biểu hiện của người quản lý
có năng lực, quan tâm và coi trọng công kiểm soát thì HTKSNB hoạt
động có hiệu quả.
 Tính trung thực và giá trị đạo đức: KTV đối chiếu kết quả trao đổi với
người quản lý cấp cao và kết quả trao đổi với nhân viên đồng thời kết
hợp những xem xét, quan sát khác để đánh giá tính trung thực và đạo
đức của người lãnh đạo đơn vị. Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng
đến hành vi ứng xử, tính trung thực của các nhân viên trong công việc
và độ tin cậy của các thông tin thu thập được cũng như độ tin cậy của
HTKSNB và BCTC.
 Chính sách về nhân sự: Khách hàng có chính sách đối đãi, thăng chức
và đào tạo tốt sẽ đảm bảo cho các hoạt động kiểm soát tại đơn vị được
thực hiện nghiêm túc và có hiệu lực.
 KTV thu thập, nghiên cứu các tài liệu, ghi chép có liên quan đến
MTKS bao gồm các chính sách, quy chế, thủ tục về KSNB được thiết
lập: như quy định về quy trình, thủ tục, quan hệ giữa các bộ phận trong
quản lý thu chi, sử dụng và bảo quản tài sản… Một hệ thống các chính
sách, quy chế, thủ tục về KSNB đầy đủ là biểu hiện của một MTKS có

hiệu lực.
KTV không chỉ trao đổi, phỏng vấn với người quản lý cấp cao và các
nhân viên quản lý của đơn vị được kiểm toán mà còn tiến hành quan sát một
21
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
số công việc kiểm soát xuyên suốt mọi hoạt động của đơn vị. Ví dụ: nghiệp
vụ mua vật tư, từ khi lập kế hoạch, phê duyệt, thực hiện, thủ tục kiểm tra chất
lượng hàng nhập kho, bảo quản và xuất dùng.
Thứ hai: Tìm hiểu về hệ thống kế toán:
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ: “KTV phải hiểu biết về hệ thống kế toán và việc thực hiện công việc
kế toán của đơn vị để xác định được:
- Các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
- Nguồn gốc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
- Tổ chức bộ máy kế toán;
- Tổ chức công việc kế toán, gồm: Hệ thống chứng từ kế toán, tài
khoản kế toán, sổ kế toán và hệ thống Báo cáo tài chính;
- Quy trình kế toán các nghiệp vu kinh tế chủ yếu và các sự kiện từ
khi phát sinh đến khi lập và trình bày báo cáo tài chính.”
Thông thường, việc tìm hiểu này được thực hiện bằng cách theo dõi
một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu xuyên suốt hoạt động của đơn vị.
Thứ ba: Tìm hiểu về các thủ tục kiểm soát:
Các KTV có được hiểu biết về môi trường kiểm soát và về hệ thống kế
toán theo một cách tương tự như nhau ở hầu hết các cuộc kiểm toán, nhưng
việc có được một sự hiểu biết về các thể thức kiểm soát thì lại khác nhau đáng
kể. Đối với những khách hàng có quy mô nhỏ hơn KTV thường chỉ nhận diện
được rất ít hoặc thậm chí không có thể thức kiểm soát nào cả vì quá trình
kiểm soát thường không hiệu quả do số lượng nhân viên hạn chế. Trong

trường hợp đó, mức đánh giá cao của rủi ro được sử dụng ở những khách
hàng có các quá trình kiểm soát sâu rộng và KTV tin tưởng là những quá trình
kiểm soát đó có khả năng tuyệt vời, thì việc nhận diện được rất nhiều quá
trình kiểm soát trong suốt giai đoạn tìm hiểu các quá trình kiểm soát là điều
thích hợp ở các cuộc kiểm toán khác. Kiểm toán toán viên vẫn có thể nhận
22
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
diện một số lượng quá trình kiểm soát giới hạn trong giai đoạn này rồi sau đó
nhận diện thêm các quá trình kiểm soát khác khi công việc đang tiến triển.
Mức độ mà theo đó các quá trình kiểm soát được nhận diện là một vấn đề
thuộc về sự phán xét kiểm toán.
KTV tìm hiểu MTKS, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát để:
 Đánh giá độ tin cậy và trung thực của các thông tin được trình bày trên
BCTC
 Nhận diện và đánh giá các sai phạm tiềm tàng.
 Quyết định về mức đánh giá thích hơp của rủi ro kiểm soát ảnh hưởng
đến rủi ro phát hiện từ đó ảnh hưởng đến quyết định số lượng bằng
chứng kiểm toán phải thu thập.
 Có kế hoạch thiết kế các cuộc khảo sát thích hợp.
Các phương pháp KTV thường sử dụng khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng:
♦ KTV dựa vào kinh nghiệm trước đây của KTV với khách hàng: Hầu
hết các cuộc kiểm toán của một công ty được một Công ty kiểm toán thực
hiện hàng năm. Do vậy KTV thường bắt đầu cuộc với một khối lượng lớn
thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đã thu thập từ các cuộc
kiểm toán trước. Bởi vì các hệ thống kiểm soát thường thay đổi thường xuyên
nên thông tin có thể được cập nhật hóa và mang sang năm hiện hành.
♦ KTV thẩm vấn nhân viên của công ty khách hàng: Công việc này

giúp cho KTV thu thập được các thông tin ban đầu (đối với khách hàng mới)
hoặc nắm bắt được những thay đổi trong hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng (đối với khách hàng thường niên) để cập nhật thông tin cho cuộc kiểm
toán ở năm hiện hành.
♦ KTV xem xét các sổ tay về thủ tục và chế độ của công ty khách
hàng: Qua việc nghiên cứu và thảo luận với khách hàng về tài liệu này KTV
có thể hiểu rõ được các thủ tục và chế độ liên quan đến hệ thống kiểm soát
nội bộ đang được áp dụng ở công ty khách hàng.
23
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
♦ KTV kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất: Thông qua việc
kiểm tra này, KTV có thể thấy được việc vận dụng các thủ tục và chế độ trên
tại công ty khách hàng.
♦ KTV quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của công ty
khách hàng: Công việc này củng cố thêm sự hiểu biết và kiến thức về thực tế
sử dụng các thủ tục và chính sách kiểm soát nội bộ tại công ty khách hàng.
Tài liệu mô tả HTKSNB nói chung và mô tả về KSNB trong từng khoản
mục hay từng bộ phận, là bằng chứng chứng minh rằng KTV đã tìm hiểu về
HTKSNB, KTV có thể mô tả bằng những công cụ là: Lưu đồ, Bảng câu hỏi
về kiểm soát nội bộ; Bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ.
Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ: Bảng này đưa ra các câu hỏi
theo các mục tiêu chi tiết của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với từng lĩnh vực
được kiểm toán. Các câu hỏi được thiết kế dưới dạng trả lời “có” hoặc
“không” và các câu trả lời không sẽ cho thấy nhược điểm của kiểm soát nội
bộ.
Ưu điểm của công cụ này là được lập sẵn nên KTV có thể tiến hành
nhanh chóng và không bỏ sót các vấn đề quan trọng. Nhưng do được thiết kế
chung, nên Bảng câu hỏi đó có thể không được phù hợp với mọi loại hình

doanh nghiệp.
Bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ là sự mô tả bằng văn bản về cơ
cấu kiểm soát nội bộ của khách hàng. Bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ
cung cấp thêm sự phân tích về cơ cấu kiểm soát giúp KTV hiểu biết đầy đủ
hơn về hệ thống kiểm soát nội bộ.
Lưu đồ: là sự trình bày toàn bộ các quá trình kiểm soát áp dụng cũng
như mô tả các chứng từ, tài liệu kế toán cùng quá trình vận động và luân
chuyển chúng bằng các ký hiệu và biểu đồ. Lưu đồ về kiểm soát nội bộ giúp
KTV nhận xét chính xác hơn về các thủ tục kiểm soát áp dụng đối với các
hoạt động và dễ dàng chỉ ra các thủ tục kiểm soát cần bổ sung. Cách thức mô
tả hệ thống kiểm soát nội bộ qua lưu đồ thường được đánh giá cao hơn so với
24
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: GS.TS. Nguyễn Quang
Quynh
mô tả HTKSNB bằng bảng câu hỏi và bảng tường thuật vì theo dõi một lưu
đồ thường dễ dàng hơn việc đọc một bảng tường thuật. Tuy nhiên, việc mô tả
qua lưu đồ thường tốn nhiều thời gian và nhiều khi không xác định được
điểm yếu của KSNB.
Việc sử dụng kết hợp Bảng câu hỏi với Lưu đồ hoặc với Bảng tường
thuật sẽ giúp KTV hiểu biết tốt hơn về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng. Trong thực tế, các KTV thường sử dụng kết hợp các hình thức này để
cung cấp cho KTV hình ảnh rõ nét nhất về hệ thống kiểm soát nội bộ .
1.2.2.3. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho từng khoản
mục.
Sau khi hiểu được hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ, KTV phải thực
hiện đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát theo các cơ sở dẫn liệu cho số dư
của mỗi tài khoản trọng yếu.
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát bao gồm việc đánh giá tính hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa, phát hiện và sửa

chữa các sai phạm trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp.
Như vậy, sau khi thu thập được một sự hiểu biết về cách thiết kế và sự
vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV sẽ đưa ra đánh giá ban đầu về
rủi ro kiểm soát cho từng mục tiêu kiểm soát chi tiết. Nếu hệ thống kiểm soát
nội bộ được thiết kế và vận hành hữu hiệu thì rủi ro kiểm soát được đánh giá
thấp và ngược lại. Công việc này được làm riêng rẽ cho từng loại nghiệp vụ
kinh tế chủ yếu trong từng chu trình nghiệp vụ theo các bước sau đây:
 Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận
dụng: KTV sẽ vận dụng các mục tiêu kiểm soát nội bộ cụ thể cho từng
loại nghiệp vụ chủ yếu của công ty mà theo đó có thể đánh giá rủi ro
kiểm soát đối với từng khoản mục.
 Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù: KTV không cần thiết xem
xét mọi quá trình kiểm soát mà chỉ nhận diện và phân tích các quá trình
25
Kiểm toán 43B SVTH: Phạm Thị Minh Hạnh

×