Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.56 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP
1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ
THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1 Khái quát đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao khi sản xuất
hàng hoá mang tính phổ biến, bản thân sức lao động cũng trở thành hàng hoá, quan
hệ hàng hoá - tiền tệ trở thành hình thức nội tại của sản xuất xã hội. Nói một cách
khác đó là nền kinh tế mà mọi quan hệ kinh tế - xã hội cơ bản được giải quyết
thông qua thị trường và cơ chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường mang những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính tự chủ của các chủ thể trong nền kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế
tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh
doanh của mình. Họ được tự do liên doanh, liên kết tự do tổ chức quá trình sản xuất
kinh doanh theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường.
- Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường rất phong phú và đa dạng.
Người ta tự do mua, bán hàng hoá, người mua chọn người bán, người bán tìm
người mua. Khách hàng giữ một vai trò quan trọng, vì vậy người bán phải tìm cách
khơi dậy nhu cầu của người mua.
- Cạnh tranh là quy luật vốn có của nền kinh tế này. Nó tồn tại trên cơ sở
những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu
cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và
kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn
có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ
thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt,
giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh tồn tại dưới ba hình thức: Cạnh tranh giữa những người bán,
Cạnh tranh giữa những người mua và Cạnh tranh giữa người mua với người bán.
Hình thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục
đích cuối cùng chính là lợi nhuận.
- Tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Tiền tệ là


thước đo hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Quan hệ hàng hoá trở
thành quan hệ quan hệ thống trị tyệt đối.
- Giá cả thị trường là phạm trù trung tâm, là bàn tay vô hình điều tiết và kích
thích nền sản xuất xã hội. Có thể nói rằng cơ chế giá là hệ thống thần kinh của nền
kinh tế thị trường mà trong nó chứa đựng chức năng thông tin, khuyến khích và
phân phối.
- Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế, các Doanh
nghiệp, người tiêu dùng lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, lựa chọn hướng tiêu dùng
và định hướng các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Có thể nói rằng nền kinh tế thị trường có khả năng tự động tập hợp được một
loạt các hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người nhằm hướng tới lợi
ích chung của xã hội đó là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động
và tăng hiệu quả sản xuất. Bên cạnh những mặt tích cực đó chúng ta cũng không
thể phủ nhận được những mặt hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường như
các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích của riêng mình nên các vấn đề
môi trường sinh thái không được quan tâm, bảo vệ đúng mức. Hơn nữa, cạnh tranh
khó tránh khỏi sự lừa gạt, phá sản và thất nghiệp...tất cả đã gây nên tình trạng
không bình thường trong quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định về xã hội. Vì
vậy, xã hội đòi hỏi phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức
đối với sự vận động của cơ chế thị trường. Đó là lý do cần thiết phải thiết lập vai
trò quản lý của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. Ở nước ta,
dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế - xã
hội, sự công bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng
và phát triển với tốc độ cao.
Các Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải tuân theo
các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật Cung - Cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật giá cả...được tự do lựa chọn ngành hàng kinh doanh, mô hình tổ
chức sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp với khả năng của mình, song cũng
không được vượt quá giới hạn cho phép của luật pháp. Do có sự cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế, Doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, phải quan tâm tới

nhu cầu của khách hàng để làm sao cung cấp cho họ những sản phẩm dịch vụ hoàn
hảo nhất cả về mẫu mã, chất lượng, giá cả lẫn phong cách phục vụ, có như vậy
Doanh nghiệp mới nâng cao được doanh số bán ra và đạt được các mục tiêu đã đề
ra.
1.2 Vai trò của hoạt động tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp sản
xuất.
Tiêu thụ thành phẩm là việc đưa thành phẩm từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh
vực lưu thông để thực hiện việc tiêu dùng theo những mục đích đã xác định khi bắt
đầu sản xuất. Quá trình tiêu thụ thành phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị
sử dụng của thành phẩm thông qua quan hệ trao đổi. Thực hiện quan hệ này Doanh
nghiệp chuyển nhượng cho người mua thành phẩm của mình và thu lại ở người
mua số tiền hàng tương ứng với giá trị cuả số thành phẩm đó hay nói cách khác
Doanh nghiệp mất quyền sở hữu về hàng hoá và nắm quyền sở hữu về tiền tệ hoặc
có quyền được đòi tiền ở khách hàng.
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất để thực
hiện giá trị thành phẩm, hàng hoá, lao vụ cho khách hàng, được khách hàng trả tiền
hoặc chấp nhận thanh toán. Nó là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
Doanh nghiệp. Sản phẩm làm ra được tiêu thụ thì tính chất hữu ích của nó mới
được xác định. Nghĩa là khi đó giá trị và giá trị sử dụng mới được thực hiện, lao
động của người sản xuất hàng hoá nói riêng của toàn xã hội nói chung mới được xã
hội thừa nhận.
Hoạt động tiêu thụ thành phẩm trong Doanh nghiệp sản xuất được thực hiện
thông qua hoạt động bán hàng, nhờ đó hàng hoá được chuyển thành tiền thực hiện
vòng chu chuyển vốn trong Doanh nghiệp và chu chuyển tiền tệ trong xã hội đảm
bảo phục vụ cho nhu cầu xã hội. Hoạt động tiêu thụ có ý nghĩa quyết định đối với
việc thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà Doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy
vòng quay của quá trình tái sản xuất xã hội, qua đó mở rộng quy mô kinh doanh,
tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cuả Doanh nghiệp. Hoạt động tiêu
thụ là thước đo để đánh giá sức mạnh và tiềm năng trong sản xuất kinh doanh của

Doanh nghiệp. Khi Doanh nghiệp sản xuất áp dụng những biện pháp tiêu thụ đúng
đắn thì doanh số bán ra sẽ tăng lên từ đó mở rộng thị trường, khẳng định được uy
tín và vị thế của mình trên thương trường đồng thời cũng là nguồn động viên lớn
đối với người lao động giúp họ phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong
công việc trên cơ sở đó tăng năng suất lao động của từng nhân viên.
Mặt khác có tiêu thụ sản phẩm Doanh nghiệp mới có điều kiện để bù đắp
những chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất và tiêu thụ, bảo toàn và phát triển
nguồn vốn kinh doanh. Đồng thời thông qua tiêu thụ sản phẩm Doanh nghiệp mới
có thể thực hiện được giá trị của lao động thặng dư, biểu hiện lợi nhuận thu được
từ các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các Doanh
nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Bởi vì thực hiện tiêu thụ
sản phẩm, hàng hoá là tiền đề cho cân đối sản xuất và tiêu dùng, cân đối tiền hàng
trong lưu thông cũng như cân đối giữa các nghành, các khu vực trong nền kinh tế.
2. Đặc điểm của nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm
2.1. Đối tượng khách hàng và mặt hàng tiêu thụ
2.1.1. Mặt hàng tiêu thụ.
Các mặt hàng tiêu thụ trong Doanh nghiệp sản xuất có thể là thành phẩm,
bán thành phẩm.
Thành phẩm là sản phẩm đã qua tất cả các giai đoạn chế biến trong Doanh
nghiệp được kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn quy định được nhập kho hoặc giao cho
khách hàng.
Thành phẩm là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất trong Doanh nghiệp
nó là tài sản dự trữ cho lưu thông. Những sản phẩm mới qua một số bước chế biến
trong Doanh nghiệp có thể bán ra thị trường hoặc có thể là đối tượng chế biến cho
các giai đoạn khác thì gọi là bán thành phẩm. Thành phẩm và bán thành phẩm đã
giao cho khách hàng và được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì
được gọi là sản phẩm tiêu thụ.
Sản phẩm hàng hoá là sản phẩm đã được bày bán trên thị trường và được
người tiêu dùng chấp nhận. Khi sản phẩm hàng hoá được bán cho khách hàng và

khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì lúc đó sản phẩm hàng hoá
được coi là sản phẩm hàng hoá thực hiện.
Như vậy, sản phẩm tiêu thụ và sản phẩm hàng hoá thực hiện là những sản
phẩm đã chuyển quyền sở hữu cho khách hàng, chênh lệch giữa giá bán và giá vốn
của bộ phận sản phẩm tiêu thụ là cơ sở tạo ra kết quả của quá trình tiêu thụ sản
phẩm.
2. 1.2 Đối tượng khách hàng.
Đối tượng khách hàng của Doanh nghiệp sản xuất rất phong phú và đa dạng.
Đó có thể là các Doanh nghiệp sản xuất mua các sản phẩm về để tiếp tục sản xuất
sau đó đem bán ra thị trường hoặc cũng có thể là các Doanh nghiệp thương mại
mua về để chuyển bán cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Cũng có khi đối tượng
khách hàng của Doanh nghiệp lại là các Doanh nghiệp hoặc các tổ chức cơ quan
mua về để tiêu dùng nội bộ. Ngoài ra đối tượng khách hàng của Doanh nghiệp còn
là các hộ sản xuất kinh doanh mua về để tiếp tục sản xuất và chuyển bán hoặc bán
lẻ cho các đối tượng cá nhân người tiêu dùng có nhu cầu hoặc là các cá nhân trực
tiếp mua về để tiêu dùng. Với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau Doanh nghiệp
có thể áp dụng các phương thức, hình thức bán, phương thức hình thức thanh toán
khác nhau.
Nói tóm lại đối tượng khách hàng của các Doanh nghiệp sản xuất là các đối
tượng bán buôn, bán lẻ, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của
Doanh nghiệp. Thông thường đối tượng bán chủ yếu của Doanh nghiệp là các
Doanh nghiệp khác. Các Doanh nghiệp này thường mua với khối lượng lớn để làm
nguyên liệu cho sản xuất hoặc sau đó chuyển bán lại cho các đối tượng khách hàng
có nhu cầu hoặc trực tiếp bán lẻ.
2.2 Các phương thức tiêu thụ thành phẩm
2.2.1 Phương thức bán buôn.
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị sản xuất hoặc các đơn vị
thương mại để tiếp tục chuyển bán hay đưa vào quá trình sản xuất chế biến tạo ra
sản phẩm mới để bán. Đặc trưng của phương thức bán buôn là sản phẩm hàng hoá
vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, khối lượng hàng luân chuyển nhiều, việc thanh

toán tiền hàng được tiến hành thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Đối với Doanh nghiệp sản xuất do có những điểm khác biệt so với Doanh
nghiệp thương mại nên phương thức bán buôn của Doanh nghiệp chỉ có hình thức
bán buôn qua kho. Theo phương thức này sản phẩm được đưa từ kho của Doanh
nghiệp bán cho khách hàng. Khi hoàn thành thủ tục giao nhận cho bên mua thì
nghiệp vụ bán buôn coi như kết thúc.
Bán buôn qua kho có 2 hình thức: Bán buôn theo hình thức gửi hàng và Bán
buôn theo hình thức nhận hàng trực tiếp.
- Bán buôn theo hình thức gửi hàng: Theo hình thức này căn cứ vào hơp
đồng đã ký kết, thành phẩm được xuất kho gửi đi cho bên mua theo địa điểm đã
thoả thuận trong hợp đồng. Sản phẩm được chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu
của Doanh nghiệp. Số sản phẩm này được xác nhận là tiêu thụ khi nhận được tiền
do bên mua thanh toán hoặc nhận được giấy báo của bên mua đã nhận được hàng
chấp nhận thanh toán hoặc thanh toán ngay.
- Bán buôn theo hình thức nhận hàng trực tiếp: Theo hình thức này người
mua căn cứ vào hợp đồng mua, bán mà hai bên đã ký kết cử đại diện tới nhận hàng
trực tiếp taị kho của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp xuất kho hàng hoá, giao trực
tiếp cho đại diện của bên mua. Sau khi bên mua nhận đủ hàng, đã thanh toán hoặc
chấp nhận nợ, hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
2.2.2 Phương thức bán lẻ.
Bán lẻ là phương thức mà sản phẩm được cung cấp trực tiếp cho người tiêu
dùng. Trong phương thức này khối lượng hàng hoá giao dịch nhỏ, sản phẩm hàng
hoá tách khỏi lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị của sản phẩm hàng hoá
được thực hiện hoàn toàn. Việc thanh toán tiền hàng thường được thanh toán ngay
bằng tiền mặt. Thông thường các Doanh nghiệp tổ chức bán lẻ thông qua cửa hàng
giới thiệu sản phẩm của Doanh nghiệp.
Có 3 hình thức bán lẻ: Bán lẻ thu tiền tập trung, Bán lẻ thu tiền trực tiếp và
Bán hàng tự phục vụ.
- Bán lẻ thu tiền tập trung: Đây là hình thức bán hàng mà nghiệp vụ thu
tiền và giao hàng tách rời nhau. Nhân viên thu ngân viết hoá đơn và thu tiền hàng.

Nhân viên bán hàng giao hàng cho người mua. Cuối ca, cuối ngày nhân viên thu
ngân phải nộp tiền cho thủ quỹ và nhân viên bán hàng lập báo cáo bán hàng nộp
cho kế toán để tổng hợp xử lý.
- Bán lẻ thu tiền trực tiếp: Đây là hình thức mà nhân viên bán hàng trực
tiếp thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khác. Cuối ca, cuối ngày nhân viên
bán hàng nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ đồng thời kiểm kê hàng hoá tồn quầy để
xác định số lượng hàng đã bán ra trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng.
- Bán hàng tự phục vụ: Đây là hình thức bán hàng phổ biến tại các quốc
gia phát triển và tại Việt Nam thường biểu hiện dưới hình thức bán hàng tại các cửa
hàng tự phục vụ hoặc siêu thị. Đối với Doanh nghiệp sản xuất chủ yếu là cửa hàng
tự phục vụ. Khách hàng tự chọn những hàng hoá cần mua sau đó sẽ đến quầy thu
tiền để thanh toán. Tại đây cửa hàng đã bố trí một nhân viên với hệ thống vi tính đã
được cài đặt mã hàng hoá và số tiền cho nên việc thanh toán diễn ra rất nhanh vì
được tự động hoá. Cuối ngày nhân viên bán hàng chỉ việc tập hợp số tiền cũng như
số lượng hàng hoá bán ra đã có trên máy, lập báo cáo bán hàng và đem nộp tiền
cho thủ quỹ.
2.2.2 Phương thức bán hàng trực tiếp.
- Hình thức bán hàng giao đại lý: Theo hình thức này Doanh nghiệp giao
hàng cho cơ sở nhận đại lý. Bên nhận đại lý sẽ trực tiếp bán hàng và phải thanh
toán tiền hàng cho Doanh nghiệp và nhận được một khoản tiền công gọi là hoa
hồng đại lý. Số hàng gửi đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp và được
xác định là tiêu thụ khi Doanh nghiệp nhận được tiền do bên đaị lý thanh toán hoặc
nhận được giấy báo chấp nhận thanh toán.
- Hình thức bán hàng nhận đại lý: Theo hình thức này Doanh nghiệp sẽ
nhận bán hàng đại lý cho một Doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có trách nhiệm
quản lý số hàng đã nhận, tổ chức bán hàng và thanh toán kịp thời, đầy đủ tiền hàng
cho người giao đại lý khi hàng hoá đã được tiêu thụ. Về quyền lợi, Doanh nghiệp
được hưởng một khoản tiền hoa hồng để bù đắp toàn bộ chi phí và lợi nhuận.
Ngoài các phương thức bán trên hiện nay để đáp ứng nhu cầu của một bộ
phận khách hàng có thu nhập còn hạn chế nhưng muốn có được sản phẩm hàng

hoá thoả mãn nhu cầu của mình, các Doanh nghiệp còn áp dụng hình thức bán
hàng trả góp. Theo hình thức này người mua hàng chỉ phải trả một phần số tiền
hàng lần đầu theo quy định. Số tiền còn lại người mua được phép trả chậm làm
nhiều lần trong một thời hạn nhất định và người mua phải chịu một khoản lãi suất
trên số tiền trả góp. Số tiền trả giữa các kỳ bằng nhau sẽ bao gồm cả tiền gốc và lãi.
2.3 Các hình thức và phương thức thanh toán tiền hàng
2.3.1 Các phương thức thanh toán tiền hàng
Có nhiều phương thức thanh toán tiền hàng. Thanh toán theo phương thức
nào là tùy thuộc vào sự thoả thuận giữa người mua và người bán hoặc sự tín nhiệm
giữa hai bên. Tuỳ từng trường hợp, từng mối quan hệ mà Doanh nghiệp áp dụng
các phương thức thanh toán khác nhau. Căn cứ vào sự vận động của hàng hoá -
tiền tệ và thời điểm phát sinh nghiệp vụ tiêu thụ trong các Doanh nghiệp có thể áp
dụng 2 phương thức thanh toán sau:
- Thanh toán trực tiếp (thanh toán ngay): Đây là phương thức thanh toán
mà hoạt động bán hàng và thu tiền được diễn ra trong cùng một thời điểm. Sản
phẩm hàng hoá được giao tại thời điểm nào thì số tiền bán hàng được thu ngay tại
thời điểm đó. Thanh toán theo phương thức này đảm bảo khả năng thu tiền nhanh,
tránh được rủi ro trong thanh toán nhưng đối tượng khách hàng dễ bị thu hẹp.
- Thanh toán sau (thanh toán chậm trả): Theo phương thức này thực chất
Doanh nghiệp đã cấp cho khách hàng một khoản tín dụng thương mại, hàng bán và
quá trình thu tiền được diễn ra trong không gian và thời gian khác nhau. Khách
hàng mua hàng và chấp nhận thanh toán sau thời điểm giao hàng một khoảng thời
gian bao lâu là do bên bán và bên mua thoả thuận trong hợp đồng mua, bán. Trong
điều kiện hiện nay thì phương thức thanh toán này được áp dụng một cách phổ
biến bởi vì trên thực tế không một khách hàng nào cũng có một quỹ tiền đủ lớn để
thanh toán ngay tại thời điểm mua hàng. Do đó để nhanh chóng thu hồi tiền hàng
các Doanh nghiệp thường áp dụng nhiều khoản chiết khấu cho các khách hàng.
Phương thức thanh toán này có lợi cho Doanh nghiệp vì thu hút được khách hàng
đồng thời cũng có lợi cho ngưòi mua nhưng sẽ gây bất lợi cho Doanh nghiệp trong
trường hợp nêú khách hàng không có thiện chí thanh toán hoặc đang gặp khó khăn

về tài chính dẫn tới việc thu hồi tiền hàng rất chậm.
2.3.2 Các hình thức thanh toán
Trong quá trình thu hồi tiền bán hàng, tuỳ theo điều khoản đã ký kết trong
hợp đồng hình thức thanh toán có thể khác nhau:
 Thanh toán bằng tiền mặt, ngân phiếu: Là hình thức thanh toán trực tiếp
giữa người mua và người bán. Khi bên bán chuyển giao hàng hoá, dịch vụ sau đó
bên mua xuất tiền, ngân phiếu để trả trực tiếp tương ứng với giá cả mà hai bên đã
thoả thuận.
 Thanh toán bằng hàng đổi hàng: Theo hình thức này khi bên bán chuyển
giao hàng hoá cho bên mua thì bên mua xuất giao cho bên bán một lô hàng có giá
trị tương ứng với giá trị lô hàng đã nhận được từ bên bán. Trong trường hợp này,
người bán đồng thời là người mua, mục đích không phải là thu tiền mà mua một
hàng khác tương đương. Việc giao hàng và thanh toán tiền hàng diễn ra đồng thời
hoặc có một khoảng cách nhất định về thời gian. Nếu còn chênh lệch về giá trị trao
đổi thì có thể dùng tiền để thanh toán nốt phần còn lại.
 Thanh toán qua Ngân hàng: Là hình thức thanh toán được thực hiện bằng
cách trích chuyển ở tài khoản tiền gửi hoặc tiền vay của Doanh nghiệp, hoặc bù trừ
giữa hai bên thông qua các tổ chức kinh tế trung gian thường là Ngân hàng. Ngân
hàng là tổ chức trung gian thanh toán, nó giúp cho việc thanh toán giữa người mua
và người bán được thực hiện đầy đủ, nhanh chóng và đúng luật. Tuỳ vào từng
thương vụ từng đối tượng khách hàng, khi thanh toán tiền bán hàng thu được có
thể dưới những hình thức sau:
- Thanh toán bằng séc: Séc là tờ lệnh trả tiền của người chủ tài khoản được
lập trên mẫu in sẵn do Ngân hàng Nhà nước quy định, yêu cầu Ngân hàng trích
một số tiền từ tài khoản của mình (tài khoản tiền gửi hay tài khoản tiền vay) để trả
cho người thụ hưởng có tên ghi trên tờ séc hay người cầm séc.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Thực chất là sử dụng giấy uỷ nhiệm của
chủ tài khoản để yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản của mình
một số tiền để thanh toán cho người thụ hưởng. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi
được thực hiện với tốc độ tương đối nhanh nhưng nếu người mua trả chậm thì sẽ

gây thiệt hại cho người bán.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Là hình thức thanh toán trong đó người
bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua thì sẽ lập uỷ thác thu,
yêu cầu Ngân hàng thu hộ số tiền từ người mua.
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi thường áp dụng đối với các
Doanh nghiệp có quan hệ làm ăn thường xuyên và tín nhiệm lẫn nhau hay dưới
hình thức liên doanh, giữa công ty mẹ và công ty con.
- Thanh toán bằng thư tín dụng: Là hình thức thanh toán trong đó bên mua
yêu cầu Ngân hàng của mình mở thư tín dụng tiến hành trả tiền cho bên bán nếu
bên bán xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các nội dung đã ghi
trong thư tín dụng. Đây là hình thức thanh toán được áp dụng rất phổ biến đặc biệt
trong kinh doanh xuất nhập khẩu, trong trường hợp bên mua và bên bán chưa có
mối quan hệ tín nhiệm lẫn nhau. Trong hình thức thanh toán này, Ngân hàng giữ
vai trò quan trọng là người đứng ra cam kết thanh toán vì vậy khả năng thu hồi tiền
bán hàng được đảm bảo, tránh rủi ro trong thanh toán.
- Thanh toán bằng thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh
toán do Ngân hàng phát hành bán cho đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân để thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hay các quầy
trả tiền mặt tự động của Ngân hàng.
Hiện nay việc thanh toán không trực tiếp được áp dụng không phổ biến
trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Phương thức thanh toán này có ý
nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân vì nó tiết kiệm chi phí trong việc in
ấn, lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự an toàn về vốn bằng tiền của Doanh nghiệp,
chống lạm phát, ổn định giá cả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy vậy việc phát
huy thế mạnh của phương thức thanh toán này còn phụ thuộc rất lớn vào sự phát
triển của hệ thống Ngân hàng, đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia.
2.4. Giá bán của thành phẩm.
Trong cơ chế thị trường hiện nay sự cạnh tranh ngày càng gay gắt do đó đòi
hỏi các Doanh nghiệp sản xuất cần phải có những đổi mơí nhất định vơí những
chiến lược kinh doanh phù hợp thì mới có thể tồn tại và phát triển được. Trong

chiến lược kinh doanh thì chiến lược giá cả là rất quan trọng bởi vì giá cả là một vũ
khí cạnh tranh hữu hiệu đồng thời nó cũng có vai trò quyết định đến tốc độ tiêu thụ
hàng hoá cuả mỗi Doanh nghiệp.
Việc xác định giá cả hàng bán phải thoả mãn yêu cầu bù đắp được các khoản
chi phí và đem lại cho Doanh nghiệp một khoản lơị nhuận, nhưng đồng thời nó
cũng phải được người mua chấp nhận. Trên thực tế giá bán của sản phẩm trên thị
trường là sự thoả thuận giữa Doanh nghiệp với người bán nhưng dựa trên cơ sở giá
bán chuẩn đã được xác định.
Các Doanh nghiệp khi định giá bán chuẩn có thể dựa trên cơ sở giá vốn và
thặng số thương maị.
- Giá vốn hàng bán là toàn bộ các chi phí phát sinh liên quan đến quá trình
sản xuất kinh doanh cuả Doanh nghiệp bao gồm: giá vốn hàng xuất kho, chi phí
bán hàng và chi phí quản lý Doanh nghiệp.
- Thặng số thương mại là một khoản thu nhập dùng để bù đắp chi phí và
đảm bảo có lãi cho Doanh nghiệp.
Khi đó giá bán thành phẩm được xác định bằng giá vốn hàng bán cộng với
thặng số thương maị. Nó có thể được biểu diễn dưới công thức sau:
Giá bán = Giá vốn hàng bán + Thặng số thương mại
Trong đó:
Thặng số thương mại = Giá vốn hàng bán × Tỉ lệ % thặng số thương mại
Theo quy định tài chính hiện hành nếu Doanh nghiệp áp dụng tính thuế
GTGT theo phương thức trực tiếp thì giá bán trong công thức trên là giá đã bao
gồm cả thuế GTGT. Còn đối với những Doanh nghiệp tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thì giá bán trên không bao gồm thuế GTGT.
2.5 Một số trường hợp phát sinh trong quá trình tiêu thụ thành phẩm
 Trường hợp giảm giá hàng bán.
Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho khách hàng tính trên giá bán sản
phẩm để khuyến mại. Trên thực tế giảm giá hàng bán có 2 hình thức:
- Bớt giá: Là khoản giảm trừ trên giá bán thông thường với mỗi một hợp
đồng thực hiện khi khách hàng mua với khối lượng lớn trong một lần mua hàng.

- Giảm giá đặc biệt: Là sự chấp nhận giảm giá với một tỉ lệ đặc biệt tính
trên giá bán thông thường vì lý do sản phẩm của Doanh nghiệp sai quy cách hoặc
chất lượng kém.
 Chiết khấu bán hàng
Chiết khấu bán hàng được hiểu là số tiền chấp nhận giảm cho khách hàng
tính cho số tiền mà họ trả nợ trước thời hạn quy định hoặc vì một lý do ưu đãi
khác. Chiết khấu bán hàng được tính toán trên cơ sở tỷ lệ và các điều kiện chiết
khấu ghi trên các hợp đồng mua, bán hoặc các cam kết thanh toán.
 Hàng bán bị trả lại
Đây là trường hợp sản phẩm của Doanh nghiệp đã bán cho khách
hàng nhưng kém phẩm chất, sai quy cách, không đúng chủng loại, mà vẫn trong
thời hạn quy định thì khách hàng có thể trả lại hàng cho Doanh nghiệp.
 Hàng thừa, thiếu trong quá trình tiêu thụ
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm khi áp dụng các phương thức bán khác
nhau, Doanh nghiệp không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình vận
chuyển. Số lượng hàng vận chuyển đến với khách hàng thừa so với hợp đồng thì sẽ
xảy ra 2 khả năng: Thứ nhất, khách hàng chấp nhận mua số sản phẩm thừa thì coi
như số lượng hàng đó được xác định là tiêu thụ và đồng thời ghi nhận doanh thu.
Thứ hai, nếu khách hàng không chấp nhận mua số sản phẩm thừa thì lượng hàng
đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Doanh nghiệp, hàng được coi là gửi bán hộ hoặc
khách hàng có quyền chuyển trả số hàng thừa về cho Doanh nghiệp hoặc khi sản
phẩm đưa đến khách hàng kiểm tra phát hiện bị thiếu và từ chối thanh toán, Doanh
nghiệp cần phải tìm hiểu nguyên nhân để xử lý hàng thiếu. Doanh thu được ghi
nhận là số hàng đúng với số lượng hàng mà khách hàng chấp nhận thanh toán.
3. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành
phẩm.
3.1 Phạm vi và thời điểm xác định hàng bán
 Phạm vi xác định hàng bán
Trong Doanh nghiệp sản xuất thành phẩm được coi là tiêu thụ khi nó đảm
bảo được các điều kiện sau:

- Phải thông qua một hình thức mua, bán và phương thức thanh toán nhất
định.
- Với tư cách là người bán sẽ bị mất quyền sở hữu về hàng hoá và được
quyền sở hữu về tiền tệ hoặc được quyền đòi tiền.
- Phải là những hàng hoá, thành phẩm sản xuất ra để bán hoặc gia công chế
biến để bán ra.
Ngoài ra còn một số trường hợp khác thành phẩm cũng được coi là
hàng bán:
+ Thành phẩm xuất dùng nội bộ hoặc để sửa chữa lớn tài sản cố định
+ Thành phẩm xuất để trả lương
+ Thành phẩm xuất để đổi lấy hàng khác hoặc để biếu tặng
+ Thành phẩm xuất dùng để thanh toán tiền mua hàng
+ Thành phẩm hao hụt, tổn thất trong khâu bán theo hợp đồng bên mua
chịu.
 Thời điểm xác định hàng bán
Với mỗi phương thức tiêu thụ thành phẩm thời điểm để xác định thành phẩm
đã được tiêu thụ là khác nhau. Do đó thời điểm xác định hàng bán được quy định
cụ thể theo từng phương thức như sau:
- Đối với phương thức bán buôn qua kho theo hình thức gửi hàng thì thời
điểm xác định hàng bán là khi thu được tiền của bên mua, hoặc bên mua xác nhận
đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
- Đối với phương thức bán buôn qua kho theo hình thức nhận hàng trực
tiếp thì sau khi bên mua nhận đủ hàng đã thanh toán tiền, hoặc chấp nhận nợ hàng
được xác định là tiêu thụ.
- Đối với phương thức bán lẻ thời điểm xác định hàng bán là khi nhận
được báo cáo bán hàng của nhân viên bán hàng.
- Đối với phương thức gửi đại lý bán thời điểm xác định hàng bán là khi
nhận được tiền do cơ sở đại lý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Việc xác định đúng đắn phạm vi, thời điểm ghi chép hàng bán có ý nghĩa rất
quan trọng trong công tác quản lý tiêu thụ thành phẩm. Đó chính là cơ sở để xác

định chính xác số lượng thành phẩm bán ra, doanh số, số tiền thuế phải nộp cho
ngân sách Nhà nước, xác định đúng các chỉ tiêu phản ánh sức mua của xã hội đồng
thời đánh giá được khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Nó giúp cho các nhà
Doanh nghiệp xác định được khoản đầu tư cho tương lai, xác định đúng hiệu quả
kinh tế qua đó để tính chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt
được.
3.2. Các phương pháp xác định giá vốn thành phẩm tiêu thụ .
Thành phẩm trong các Doanh nghiệp sản xuất thường rất đa dạng và phong
phú để tổ chức tốt công tác kế toán thành phẩm cần phân loại chúng theo những
tiêu thức nhất định và phù hợp. Trong kỳ hạch toán, thành phẩm thường được nhập
kho nhiều lần với số lượng và giá thành mỗi lần là khác nhau, nên khi xuất kho
thành phẩm tiêu thụ Doanh nghiệp phải hạch toán trị giá hàng xuất theo một
phương pháp thích hợp nhằm hạch toán được chính xác giá vốn của thành phẩm tiêu
thụ. Để xác định giá vốn thực tế của khối lượng thành phẩm xuất kho, có thể áp dụng
một trong những phương pháp sau đây:
3.2.1. Phương pháp tính giá theo giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp này hàng hoá xuất kho thuộc lô hàng nào thì sẽ được tính
theo đơn giá thực tế của lô hàng đó. Chính vì vậy nó phản ánh rất chính xác giá của
từng lô hàng xuất bán, nhưng công việc ghi sổ sách khá phức tạp và đòi hỏi người

×