Tải bản đầy đủ (.doc) (206 trang)

Văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành hậu cần quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.37 KB, 206 trang )

3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng.
Hà Nội, ngày tháng 01 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Văn Ký


4

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học tiêu
biểu đã cơng bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
2.1. Quan niệm văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam


2.2. Nhân tố quy định văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3 THỰC TRẠNG VĂN HĨA CHÍNH TRỊ CỦA SĨ QUAN
TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2. Yếu tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với phát triển văn hóa chính trị
của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
CỦA SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng hướng tới phát triển văn
hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay
4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị thực tiễn của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam để phát triển văn hóa
chính trị của họ
4.3. Xây dựng mơi trường văn hóa chính trị ở đơn vị cơ sở hướng vào
phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay
4.4. Tích cực hóa nhân tố chủ quan trong phát triển văn hóa chính trị của sĩ
quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang


5
9
9
26
30
30
51
76
76
102
121
121
131
139
148
158
160
161
175


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Với tính cách là một bộ phận, một phương diện của văn hóa, văn hóa
chính trị là hệ giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, sáng tạo, có vai trị quan trọng
trong việc điều chỉnh, định hướng quan hệ giữa các chủ thể chính trị, giữa con
người với tổ chức, cộng đồng trong đời sống chính trị và đời sống xã hội sao cho

phù hợp với thể chế chính trị của xã hội. Theo đó, văn hóa chính trị là một phẩm
chất không thể thiếu trong nhân cách của người quân nhân nói chung, sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, góp phần khắc phục
những mặt trái, những ảnh hưởng tiêu cực của môi trường sống, lĩnh vực hoạt
động đến đạo đức, lối sống; đồng thời khơi dậy tính năng động, sáng tạo trong
việc vận dụng cơ hội, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và hoàn thiện nhân
cách của họ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên từng cương vị, chức trách.
Thực tiễn cho thấy, văn hóa chính trị của đa số sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đạt được
những kết quả quan trọng. Đa số sĩ quan trẻ ngành Hậu cần có tri thức chính trị,
tri thức chun ngành, liên ngành tốt và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn công
tác hậu cần quân đội; luôn giữ vững được phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp; chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ…,
góp phần từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác phục vụ bộ đội. Tuy
nhiên, trình độ văn hóa chính trị của một số sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Qn đội
nhân dân Việt Nam có mặt cịn hạn chế: Tri thức, phẩm chất chính trị chưa tồn
diện, thiếu sâu sắc, cịn mang tính lý luận; chưa thực sự gương mẫu về phẩm
chất, đạo đức, lối sống, tinh thần, thái độ phục vụ, ý thức thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, chấp hành pháp luật, kỷ luật; năng lực hoạt động chính trị chưa
linh hoạt, hiệu quả, nhất là trước những sự kiện, tình hình chính trị mới nảy
sinh… Những bất cập, hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó nguyên nhân chủ quan của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam là cơ bản.


6

Trong quân đội, với chủ trương ưu tiên xây dựng một số quân, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, việc đổi mới của phương thức bảo đảm
hậu cần, nhất là việc bảo đảm hậu cần cho đơn vị tác chiến trong điều kiện khó

khăn, ác liệt của chiến tranh công nghệ cao (nếu xảy ra)… đặt ra những yêu cầu
bảo đảm hậu cần đa dạng hơn, phức tạp hơn, cho nhiều lực lượng mới, với khối
lượng lớn và chất lượng cao, đòi hỏi ngành Hậu cần Quân đội phải bảo đảm kịp
thời, đầy đủ các phương tiện, điều kiện vật chất cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu, các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất. Những vấn đề trên đã,
đang và sẽ đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tri thức chuyên ngành, liên ngành;
những phẩm chất đặc trưng và sự linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Qn đội.
Văn hóa chính trị được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong
và ngoài nước với nhiều cơng trình khoa học đã được cơng bố dưới nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu
trực tiếp vấn đề văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học. Từ những lý do trên, tác giả lựa
chọn vấn đề “Văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về văn
hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, trên
cơ sở đó đề xuất giải pháp cơ bản phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ
Tổng quan tình hình nghiên cứu, xác định những vấn đề luận án cần tập
trung giải quyết.
Làm rõ một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam.


7

Đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần

Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng và
những vấn đề đặt ra.
Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng văn hóa chính
trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện đang công
tác ở đơn vị cơ sở bộ binh đủ quân; có tuổi đời từ 35 tuổi trở xuống, quân hàm từ
thiếu úy đến thiếu tá, chức vụ từ trợ lý hậu cần tiểu đoàn đến chủ nhiệm hậu cần
cấp trung đoàn, trung đội trưởng đến đại đội trưởng vận tải và tương đương.
Về không gian: Tập trung nghiên cứu, khảo sát một số đơn vị Quân đội
nhân dân Việt Nam: Quân khu 1, Quân khu 3, Quân khu 4, Quân đoàn 1, Quân
đoàn 2, có sử dụng số liệu một số quân chủng, binh chủng để tham chiếu.
Về thời gian: Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ
năm 2015 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam có liên quan về văn hóa, văn hóa chính trị.
Cơ sở thực tiễn: Thực trạng văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay; những nhận định, đánh giá có liên
quan trong văn kiện, nghị quyết, báo cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước, Bộ
Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Tổng Cục Hậu cần, các đảng bộ cơ sở; số liệu


8


báo cáo của cơ quan chức năng, đơn vị và kết quả điều tra xã hội học, khảo sát
thực tế của tác giả ở một số đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa
học chuyên ngành và liên ngành: Phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc,
lịch sử và lơgic, trừu tượng hóa và khái qt hóa, so sánh, điều tra xã hội học,
trao đổi, phỏng vấn và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Quan niệm và những nhân tố quy định văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam.
Những vấn đề đặt ra đối với phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Giải pháp cơ bản phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khái quát,
bổ sung, phát triển một số vấn đề lý luận khoa học về văn hóa chính trị của sĩ
quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ
khoa học đáp ứng yêu cầu cấp thiết để phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan
trẻ ngành Hậu cần Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Luận án có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy những
nội dung có liên quan trong quân đội nói chung, ngành hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Mở đầu; nội dung gồm 4 chương (10 tiết); kết luận; danh mục các cơng
trình khoa học của tác giả đã được cơng bố có liên quan đến đề tài luận án;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.



9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến
lý luận về văn hóa chính trị, văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
Quan niệm về văn hóa chính trị
Gabriel Abraham Almond and Sidney Verba (1963), The Civic Culture Political Attitudes and Democracy in Five Nations (Văn hố cơng dân - Những thái
độ chính trị và nền dân chủ ở 5 quốc gia) [159], tiếp cận phạm trù văn hóa chính trị
trong phạm vi quốc gia, dân tộc để xem xét, trên cơ sở đó đưa ra quan niệm: “Văn
hóa chính trị nói về một loại thái độ với hệ thống chính trị và thái độ đối với vai trị
của mình trong hệ thống chính trị đó” [159, tr. 115]. Với phương pháp tiếp cận trên,
khái niệm văn hóa chính trị được tác giả nghiên cứu từ góc độ thái độ của chủ thể
đối với hệ thống chính trị. Theo Gabriel Abraham Almond and Sidney Verba, văn
hóa chính trị là sản phẩm sáng tạo của chủ thể hoạt động chính trị, thái độ của khách
thể chỉ phản ánh một mặt nào đó về văn hóa chính trị của chủ thể.
Lucian Pye (1968), International Encyclopedia of the Social Siences (Bách
khoa thư quốc tế về khoa học xã hội) [161] quan niệm:
Văn hóa chính trị là tập hợp thái độ, niềm tin và tình cảm tạo ra trật tự, ý
nghĩa cho một q trình chính trị và cung cấp các giả định, quy tắc cơ
bản để điều chỉnh hành vi trong hệ thống chính trị. Nó bao gồm lý tưởng
chính trị và chuẩn mực hành vi của một chính thể. văn hóa chính trị và
do đó, là biểu hiện của chiều cạnh tâm lý và chủ quan của chính trị. Mỗi
nền văn hóa chính trị là sản phẩm lịch sử của cả một hệ thống chính trị
lẫn lịch sử của các thành viên trong hệ thống đó. Do đó, nó bắt nguồn từ
các sự kiện cộng đồng lẫn kinh nghiệm cá nhân [161, tr. 218].
Trong quan niệm văn hóa chính trị, Lucian Pye đã tập trung nghiên cứu văn



10

hóa chính trị tổ chức, nhìn nhận văn hóa chính trị là sản phẩm được tạo ra từ hoạt
động của chủ thể chính trị gắn với điều kiện lịch sử nhất định.
Phạm Ngọc Quang (1995), Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay [114], tiếp cận văn hố chính trị với tính cách là
một phương diện, một bộ phận của văn hố dân tộc trong lĩnh vực hoạt động chính
trị nhằm hình thành tình cảm, thái độ, niềm tin của các chủ thể chính trị đối với các
hiện tượng chính trị và điều chỉnh các quan hệ chính trị theo chuẩn mực văn hố
truyền thống dân tộc. Theo đó, tác giả quan niệm:
Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hố; nó nói lên tri thức,
năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên sự nhận thức sâu sắc
các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ
được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của
nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên
phẩm chất và hình thức hoạt động của con người cùng những thiết chế
chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích giai cấp cơ bản của chủ
thể tương ứng [114, tr. 19].
Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên, 2009), Bước đầu tìm hiểu những giá
trị văn hố chính trị truyền thống Việt Nam [62], đã xác định bản chất, nội
dung của văn hóa chính trị; đi sâu tìm hiểu, phân tích những nhân tố hình
thành tư tưởng văn hóa chính trị, khái qt được một số giá trị văn hóa chính
trị truyền thống trong lịch sử chính trị Việt Nam. Về bản chất, nội dung của
văn hóa chính trị, các tác giả quan niệm: văn hóa chính trị là một phương
diện của văn hoá, là nhát bổ dọc lịch sử văn hố theo lĩnh vực hoạt động
chính trị, nên bản chất, tính chất, đặc trưng và kết cấu của văn hố đều có
mặt trong văn hóa chính trị.
Phạm Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Thu Hà (2009), “Văn hóa chính trị và văn

hóa pháp luật Việt Nam - từ lý luận đến thực tiễn” [132], trên cơ sở tiếp cận các
khía cạnh chủ quan của chính trị: Lập trường, cách ứng xử, cách giao tiếp của cá


11

nhân, nhóm xã hội, giai cấp trong các q trình chính trị, hiện tượng chính trị diễn
ra trong đời sống xã hội, quan niệm:
Văn hóa chính trị là tổng thể các giá trị, quan điểm, niềm tin, các khuynh
hướng và các biểu trưng của chúng, được thừa nhận chung, dùng để điều
chỉnh hành vi chính trị của mọi thành viên xã hội. văn hóa chính trị bao gồm
các lý tưởng, các giá trị, các quan điểm chính trị và chuẩn mực hiện hành
của đời sống chính trị. Nó quyết định những hình mẫu, những quy tắc đặc
trưng nhất của hành vi chính trị, của mối quan hệ qua lại giữa chính quyền,
quyền lực chính trị, quyền lực chính trị với cá nhân và xã hội [132, tr. 11].
Hồ Thức Tài (2019), “Bàn về khái niệm văn hóa chính trị” [128], trên cơ sở
nghiên cứu quan niệm văn hóa chính trị của các nhà khoa học trong và ngoài nước,
tác giả quan niệm: “Văn hóa chính trị là hệ thống các giá trị hình thành trong thực
tiễn hoạt động chính trị, thể hiện ở mục đích và cách thức sử dụng quyền lực chính
trị, được kết tinh trong tri thức, lý tưởng, đạo đức, năng lực hoạt động chính trị nhằm
hướng tới sự phát triển của con người và cộng đồng” [128, tr. 93]. Quan niệm trên
cho thấy, tác giả tiếp cận văn hóa chính trị từ góc độ giá trị, bao gồm các giá trị: Tri
thức, lý tưởng, đạo đức, năng lực hoạt động chính trị; đồng thời làm rõ chức năng của
văn hóa chính trị như: Giáo dục, định hướng và kết nối, tập hợp các chủ thể chính trị.
Phương pháp tiếp cận để xây dựng quan niệm văn hóa của tác giả là gợi ý có
giá trị khoa học để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và vận dụng trong quá trình xây
dựng khái niệm trung tâm của luận án.
Trần Đình Thảo, Ngơ Minh Thuận (2011), “Văn hóa chính trị trong việc
hình thành phẩm chất, năng lực của người cán bộ lãnh đạo chính trị” [135] từ góc
độ triết học văn hóa, các tác giả quan niệm:

Văn hóa chính trị là tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần được hình
thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động của
các cá nhân, của các nhà chính trị, góp phần định hướng, đánh giá hoạt
động của các chủ thể chính trị trong việc tham gia vào đời sống chính trị
để phục vụ lợi ích căn bản cho một giai cấp nhất định [135, tr. 22].


12

Quan niệm trên cho thấy, các tác giả tiếp cận văn hóa chính trị từ góc độ giá
trị, bao gồm các giá trị vật chất và giá trị tinh thần được hình thành trong thực tiễn
chính trị; đồng thời các tác giả còn làm nổi bật vai trò của các giá trị ấy đối với việc
định hướng, đánh giá kết quả hoạt động của các chủ thể chính trị trong việc tham
gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản cho một giai cấp nhất định.
Về cấu trúc, các nhân tố, yếu tố tác động đến văn hóa chính
trị
Walter A. Rosenbaum (1975), Political Culture (VHCT) [162], chia văn hóa
chính trị thành hai cấp độ: Cá nhân và tập thể. Ở cấp độ cá nhân, văn hóa chính trị tập
trung ở khía cạnh tâm lý; ở cấp độ tập thể, văn hóa chính trị tập trung vào sự định
hướng chính trị của số đơng. Trên cơ sở đó, Ơng chia sự định hướng ấy thành ba loại:
Một là, định hướng về cấu trúc chính quyền (bao gồm: Đối với thể chế và thành tựu
của chính phủ). Hai là, định hướng về các yếu tố khác trong hệ thống chính trị (bản
sắc chính trị, sự tin tưởng trong lĩnh vực chính trị và luật lệ trong sinh hoạt chính trị).
Ba là, định hướng về các hoạt động chính trị của cá nhân (thái độ và cách thức tham
gia cũng như ý thức về tính hiệu quả của sự tham gia vào chính trị). Như vậy, Walter
A. Rosenbaum đã đề cập đến văn hóa chính trị cá nhân, song chỉ tiếp cận ở những
biểu hiện cụ thể của nó trong đời sống chính trị của cá nhân mà chưa làm rõ sự hình
thành, vận động, phát triển và vai trị của nó đối với văn hóa chính trị cộng đồng.
Roland H.Elbe, Raymond Taras, Jame.D.Cochrance (1991), Political Culture
and Foreign Policy in Latin America, New York, State University of New York Presss

(VHCT và chính sách ngoại giao của châu Mỹ Latin) [160], cho rằng: Văn hóa chính
trị được cấu thành từ ba bộ phận là giá trị chính trị; hành vi chính trị và thái độ chính
trị. Theo các tác giả, giá trị chính trị ở đây chỉ một quy phạm của một hệ thống chính
trị thích đáng nên cấu trúc và vận hành lý tưởng hóa như thế nào; thái độ chính trị là
xu hướng người ta lấy việc thực hiện làm cơ sở trong q trình chính trị, nó có lúc
cũng được gọi là văn hóa chính trị “điển hình”; hành vi chính trị là phương thức biểu
hiện giá trị và thái độ chính trị của vài người hoặc đồn thể dưới hình thức cụ thể.


13

Cao Thu Hằng (2017), “Về cấu trúc của văn hóa chính trị” [51], tập trung
xem xét cấu trúc của văn hóa chính trị biểu hiện dưới hai cấp độ cơ bản: Cấp độ ý
thức và hoạt động; phạm vi biểu hiện. Ở cấp độ ý thức và hoạt động, tác giả xem xét
văn hố chính trị dưới góc độ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì văn hóa chính
trị bao gồm ý thức chính trị và thực tiễn chính trị. Ý thức chính trị là sự phản ánh thực
tiễn văn hóa chính trị. Sự phản ánh này được thể hiện ở hai cấp độ: Cảm tính và lý
tính. Thực tiễn chính trị là tồn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bằng ý
thức chính trị, là sự thể hiện của ý thức chính trị thành hành động. Xét từ phạm vi
biểu hiện, văn hóa chính trị bao gồm văn hóa chính trị xã hội, văn hóa chính trị tổ
chức và văn hóa chính trị cá nhân. Với cách tiếp cận này, cấu trúc của văn hóa chính
trị được tiếp cận, nghiên cứu theo hai cấp độ khác nhau. Đặc biệt, ở cấp độ phạm vi
biểu hiện, tác giả đã tập trung luận giải cả văn hóa chính trị tổ chức và văn hóa chính
trị cá nhân cũng như vai trò, mối quan hệ tác động qua lại của các yếu tố với nhau.
Theo tác giả, văn hóa chính trị ở cấp độ cá nhân là biểu hiện của văn hóa chính trị xã
hội trong những cá nhân cụ thể. văn hóa chính trị cá nhân bao gồm những yếu tố cơ
bản: Tri thức, tình cảm và hoạt động thực tiễn. Phương pháp tiếp cận của tác giả, giúp
nghiên cứu sinh có thêm những góc độ nhìn nhận về cấu trúc của văn hóa chính trị;
đồng thời có thể tiếp thu, kế thừa và phát triển trong quá trình viết luận án của mình.
Nguyễn Văn Tặng (2008), “Những nhân tố tác động tới việc nâng cao văn hóa

chính trị cho cán bộ, đảng viên hiện nay” [129], trên quan điểm khách quan, toàn diện,
lịch sử, cụ thể và phát triển, đã khái quát và luận giải sâu sắc những nhân tố tác động và
ảnh hưởng đến việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay, đó là:
Sự kế thừa và tiếp biến những giá trị văn hóa dân tộc; tính chất của thiết chế chính trị;
tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế; tự ý thức và ý thức chính trị của mỗi cán
bộ, đảng viên; trình độ văn hóa, trình độ học vấn của cán bộ, đảng viên; giao lưu văn
hóa và tồn cầu hóa. Các nhân tố trên tác động theo hai chiều, cả thuận lợi và khó khăn
tới việc nâng cao văn hóa chính trị cho cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây là những gợi ý
quan trọng, giúp nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa trong quá trình viết luận án.


14

Lê Hường (2016), “Một số nhân tố tác động đến văn hóa chính trị ở Việt
Nam hiện nay” [64], khái qt: Văn hóa chính trị ở Việt Nam được hình thành,
kế thừa và phát triển từ các giá trị văn hóa truyền thống. Hiện nay, văn hóa
chính trị ở Việt Nam đang chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của những
nhân tố: Tồn cầu hóa, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, truyền
thơng hóa… Theo đó, tác giả nhận định:
Trước sự tác động của các nhân tố này, văn hóa chính trị Việt Nam, sản
phẩm của lịch sử dân tộc, đang có sự chuyển biến tích cực theo hướng
xác lập một nền chính trị vì mục tiêu nhân văn, nhân đạo; đồng thời trở
thành một trong những cơng cụ quan trọng giúp chúng ta có thể chọn lọc
và tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp
phát triển bền vững đất nước hiện nay [64, tr. 31].
Về mối quan hệ giữa văn hóa chính trị với ý thức pháp luật,
đạo đức
Bùi Giang Nam (2007), “Ý thức pháp luật với việc nâng cao văn hóa chính
trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay” [105], trên cơ sở phân tích vai trò của ý
thức pháp luật đối với việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên, cho rằng: “Giữa học vấn nói chung, tri thức pháp luật nói riêng và văn hóa
chính trị có mối quan hệ khăng khít” [105, tr. 31]. Quan niệm của tác giả chỉ rõ: Chỉ
có những người có một trình độ nhất định mới có thể tham gia vào đời sống chính
trị một cách đúng đắn. Chính trị và pháp luật có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với
nhau ở cả cấp độ tổ chức và cấp độ cá nhân. Ở cấp độ tổ chức, pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị, thể hiện tương quan lực lượng và sự tiến bộ của mỗi chế
độ xã hội. Pháp luật cũng thể hiện trình độ tổ chức quyền lực và sự phát triển của bộ
máy hành chính, thể hiện mức độ dân chủ trong xã hội… Chính trị và pháp luật còn
gắn kết với nhau ở cấp độ cá nhân. Trình độ, năng lực, sự am hiểu pháp luật của cá
nhân thể hiện qua hành vi trong lĩnh vực dân sự, cao hơn là trong các lĩnh vực chính
trị, cao hơn nữa là vận dụng một cách khơn khéo pháp luật vào chính trị vì pháp luật
là cái “có thể” nhất trong những cái có thể, trở thành nghệ thuật chính trị - “nghệ


15

thuật của những khả năng” (khả năng do luật cho phép).
Đỗ Hồng Ánh (2015), “Mối quan hệ giữa văn hóa chính trị và đạo đức cơng
vụ của cán bộ, cơng chức, viên chức” [1], trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật, khái qt: Văn hóa chính trị và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức
có quan hệ tương tác theo hai chiều. Chiều cạnh thứ nhất, đạo đức cơng vụ đối với văn
hóa chính trị: “Đạo đức công vụ là nguồn năng lượng nội sinh duy trì và tạo động lực
mạnh mẽ cho quá trình đổi mới, hiện đại hóa văn hóa chính trị trong hệ thống chính
trị” [1, tr. 22]. Ở chiều cạnh thứ hai, văn hóa chính trị có tác động tới đạo đức công vụ
trong thực thi công vụ thể hiện trên một số nội dung: Văn hóa chính trị góp phần định
hướng, điều chỉnh hành vi trong các mối quan hệ cơng vụ, nâng cao nhận thức chính trị
cho mỗi cán bộ, cơng chức, viên chức; góp phần quan trọng hình thành nhân cách của
người cán bộ, cơng chức, viên chức và hướng nhân cách đó vào những hoạt động tích
cực nhằm thực hiện những giá trị lý tưởng đã chọn; thúc đẩy cơng chức tích cực trong
các hoạt động chính trị, nâng cao tính chủ động, nhạy bén, sáng tạo trong thực thi cơng

vụ, góp phần đáng kể để tiêu diệt các căn bệnh dễ nảy sinh trong hoạt động cơng quyền
như giáo điều, quan liêu, duy ý chí, thiếu khoa học, tham nhũng…
Về văn hố chính trị của cán bộ ngành hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam
Vũ Hồng Hà (2016), “Giáo dục, rèn luyện ý thức đạo đức cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh cho sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội hiện nay” [49] đã
làm sáng tỏ vai trò của đạo đức cách mạng đối với người cán bộ, đảng viên nói
chung, sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Theo
đó, tác giả tập trung luận giải các nội dung cơ bản ý thức đạo đức cách mạng của
sĩ quan trẻ ngành Hậu cần: Luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tâm với nghề
nghiệp, không phân biệt sang hèn; thực sự tiêu biểu về cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư; hết lịng thương u bộ đội và quên mình vì bộ đội. Các nội dung
cơ bản về ý thức đạo đức cách mạng - giá trị văn hóa trong hoạt động chính trị
cơng tác hậu cần của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần, đóng vai trị quan trọng đối với


16

phát triển đạo đức cách mạng, tạo động lực bên trong thúc đẩy họ hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.
Bùi Nam Hưng (2016), Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ hậu cần ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố giai đoạn hiện nay [63]. Dưới
góc độ khoa học chính trị, tác giả cho rằng: “Đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
hậu cần ở Ban chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố được gắn với một đối tượng cụ thể,
xác định, đó là đạo đức của người cán bộ quân đội và cán bộ hậu cần thực hiện nhiệm
vụ cách mạng trong lĩnh vực hậu cần” [63, tr. 48]. Do đó, đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ hậu cần trước hết là đạo đức của người cán bộ quân đội, song gắn với
những phẩm chất đạo đức riêng của người cán bộ hậu cần quân đội, như: “kiểu mẫu
về cần, kiệm, liêm, chính”; thương yêu đồng chí, đồng đội “như người mẹ, người
chị”, “Lương y như từ mẫu”, “yêu xe như con, quý xăng như máu”;... Những phẩm

chất đạo đức cách mạng trên - giá trị văn hóa trong hoạt động chính trị của đội ngũ
cán bộ hậu cần ở Ban chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, có vai trò quan trọng đối với
chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của họ. Đây là những gợi ý quan trọng để
nghiên cứu sinh kế thừa, phát triển trong viết nội dung cấu trúc văn hóa chính trị của
sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Việt Hà (2018), Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến nhân cách
người cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [47], đã luận giải
những nhân tố quy định ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến nhân cách người cán
bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam: Nhận thức và giải quyết mối quan hệ về lợi
ích của cán bộ hậu cần; mơi trường công tác và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng
chủ thể cán bộ hậu cần; quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn của mỗi cá
nhân. Theo tác giả, những nhân tố quy định sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đến nhân cách người cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam là tất yếu. Tuy nhiên, mức độ, tính chất của q trình ảnh hưởng khơng hồn
tồn phụ thuộc vào điều kiện khách quan là nền kinh tế mà còn phụ thuộc rất lớn vào
nhân tố chủ quan của người cán bộ hậu cần quân đội. Do vậy, tự học tập, tu dưỡng,


17

rèn luyện, hoàn thiện nhân cách, đáp ứng thực tiễn là đòi hỏi khách quan của người
cán bộ hậu cần để họ tồn tại và phát triển trong chính mơi trường công tác và sinh
sống; là vấn đề nội sinh trong quá trình phát triển của cá nhân. Đây là nội dung có giá
trị, giúp nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng khi viết các nhân tố quy định văn hóa
chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Qn đội nhân dân Việt Nam.
1.1.2. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan
đến thực trạng văn hóa chính trị, văn hóa chính trị của sĩ
quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay
Về thực trạng văn hóa chính trị nói chung

Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo
quản lý ở nước ta hiện nay [146], với quan điểm khách quan, toàn diện và phát triển,
tác giả đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta.
Về ưu điểm: Đại bộ phận cán bộ lãnh đạo đã giữ được bản lĩnh chính trị của mình;
trình độ tư duy của người cán bộ lãnh đạo đã được nâng lên rõ rệt; đội ngũ cán bộ
lãnh đạo (đặc biệt là lãnh đạo cấp chiến lược) đã thực hiện được sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Hạn chế, khuyết điểm: Biểu hiện của sự suy thối về chính trị, tư
tưởng là dao động về lý tưởng, nhận thức mơ hồ, lệch lạc, phiến diện chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, hoài nghi
đường lối của Đảng…; biểu hiện của sự yếu kém về năng lực, trình độ của cán bộ
lãnh đạo, như: sự lúng túng trong việc hoạch định các chủ trương, các chương trình
hành động, trong việc tổ chức và thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng và
chính sách của Nhà nước; về đạo đức, lối sống hiện nay có thể nói rằng, khơng ít cán
bộ lãnh đạo khơng đủ uy tín để thuyết phục và lãnh đạo quần chúng.
Nguyễn Ngọc Hà (2013), “Tư tưởng thượng tôn pháp luật trong văn hóa
chính trị Việt Nam hiện nay” [44], nhận định:
Tư tưởng thượng tơn pháp luật trong văn hóa chính trị Việt Nam đã có
lịch sử hơn 70 năm. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều người vẫn chưa quán


18

triệt tư tưởng này, họ coi thường pháp luật và vi phạm pháp luật. Ở nước
nào cũng có một số người vi phạm pháp luật, nghĩa là khơng có tư tưởng
thượng tôn pháp luật. Tuy nhiên, ở Việt Nam, số người khơng có tư
tưởng thượng tơn pháp luật cịn nhiều; tình trạng vi phạm pháp luật khá
phổ biến; biểu hiện của sự vi phạm pháp luật rất đa dạng. [44, tr. 9].
Theo tác giả, những hạn chế trên có nhiều ngun nhân, trong đó có các
ngun nhân chính sau: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, lịch sử phát triển của
Nhà nước pháp quyền chưa lâu dài; tư tưởng đức trị vẫn có ảnh hưởng lớn trong xã

hội; tình trạng Đảng làm thay Nhà nước còn tồn tại ở một số cơ quan; độ hiểu biết
pháp luật của một số người dân chưa cao. Thực trạng tư tưởng thượng tôn pháp luật
trong văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay, nhất là những hạn chế mà tác giả chỉ ra là
những nội dung có giá trị khoa học quan trọng giúp nghiên cứu sinh kế thừa, vận
dụng trong đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Bùi Đình Phong (2013), Chính trị của văn hóa và văn hóa chính trị [111],
đánh giá thực trạng vận dụng một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa
chính trị ở cả cấp độ tổ chức và cấp độ cá nhân. Đặc biệt, ở cấp độ cá nhân, theo
đánh giá của tác giả:
Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về đạo đức,
lối sống, chạy chức, mua ghế… nhưng lại khơng có một chút hiểu biết gì về
văn hóa chính trị. Họ thích làm chính trị mà thiếu văn hóa lãnh đạo. Họ say
mê quyền lực mà khơng có văn hóa lãnh đạo. Họ ở cương vị quản lý mà
thiếu văn hóa quản lý. Tóm lại, họ thiếu văn hóa chính trị [111, tr. 29 - 30].
Đánh giá thực trạng vận dụng một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về
văn hóa chính trị ở cấp độ cá nhân của tác giả là cơ sở để nghiên cứu sinh tham
khảo, vận dụng khi viết phần thực trạng quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất, năng lực hoạt động thực tiễn chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần.
Nguyễn Văn Sơn (2014), “Văn hóa chính trị trong sự hình thành thể chế dân
chủ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” [125], đã nhận định: “Trong thời kỳ đổi


19

mới, Đảng ta đã thể hiện trình độ phát triển cao về văn hóa chính trị, nhưng việc thực
hiện văn hóa chính trị này cịn tồn tại những hạn chế nhất định, như thực trạng tha hóa,
biến chất đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên” [125, tr. 8]. Theo tác giả,
nguyên nhân của những hạn chế này khơng phải ở vấn đề văn hóa chính trị mà là ở
chỗ, một số cán bộ, đảng viên nói và làm khơng thống nhất với nhau. Họ nói theo nghị

quyết nhưng lại làm theo quan điểm và lợi ích cá nhân. Điều đó khiến cho niềm tin của
quần chúng nhân dân đối với số cán bộ, đảng viên này nói riêng, đối với vai trị lãnh
đạo của Đảng nói chung bị giảm sút. Đây là những gợi ý, giúp nghiên cứu sinh kế
thừa, vận dụng trong đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Vũ Văn Trí (2015), “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp quận, huyện” [142], theo tác giả:
Trong những năm vừa qua, văn hóa chính trị ở nước ta đã xác lập được
những giá trị căn bản làm nền tảng, là tiền đề văn hóa và là động lực
mạnh mẽ của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, nhân
dân còn xem nhẹ định hướng chính trị trong các hoạt động kinh tế, bên
cạnh đó là vấn đề đẳng cấp văn hóa chính trị vẫn cịn chưa có sự bình
đẳng; một số giá trị có nguy cơ mai một dần, các giá trị mới được xác lập
chưa thực sự vững chắc, chưa mang tính xã hội phổ biến… [142, tr. 39].
Phương pháp đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp quận, huyện, đặc biệt những hạn chế về các giá trị văn hóa chính trị là những
gợi ý quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa, phát triển trong quá trình viết luận án.
Nguyễn Minh Khoa (2016), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây
dựng văn hóa chính trị Việt Nam [68], trên quan điểm khách quan, toàn diện, cụ
thể, đã đánh giá thực trạng văn hóa chính trị Việt Nam từ đổi mới đến nay: văn hóa
chính trị Việt Nam bên cạnh những mặt tích cực cịn có những hạn chế nhất định:
Nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên và nhân dân cịn hạn chế; văn hóa đạo đức, văn hóa lãnh đạo, quản lý


20

chưa đạt chất lượng khoa học cách mạng của nền chính trị hiện đại; hệ thống chính
trị, thiết chế chính trị, cơ chế hoạt động chính trị của nền chính trị Việt Nam cịn
nhiều hạn chế… Từ thực trạng đó, tác giả chỉ ra một số nguyên nhân của hạn chế:

Văn hóa chính trị Việt Nam cịn chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa
chính trị chưa rõ ràng, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa có sự thơng suốt ở
các ngành, các cấp để trở thành chương trình, kế hoạch cụ thể; cơng tác cán bộ cịn
thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức, quy hoạch chưa thực hiệu quả, thậm chí có
nơi, có lúc chưa đúng quy trình nên chưa đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới; công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo
đức, lối sống cịn mang nặng tính hình thức, chạy theo thành tích, thiếu chiều sâu,
chưa phù hợp thực tế; công tác tuyên truyền vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa được tiến hành rộng rãi.
Về thực trạng văn hóa chính trị trong qn đội nói chung,
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng
Nguyễn Thái Sinh (2010), Phát triển văn hóa chính trị người sĩ quan Biên
phịng trong tình hình mới [124], trên cơ sở nghiên cứu văn hóa chính trị của người
sĩ quan Biên phịng - văn hóa chính trị cá nhân - chủ thể hoạt động quân sự, đã đánh
giá thực trạng phát triển văn hóa chính trị của họ:
Bộ đội Biên phịng nói chung, người sĩ quan Biên phịng nói riêng đã
tích cực tham mưu, chuẩn bị nội dung, tham gia cùng Đảng, Nhà nước
đàm phán, thúc đẩy tiến trình phân định, cắm mốc, giải quyết các vấn đề
tồn đọng về biên giới trên bộ, vùng biển với các nước láng giềng; đấu
tranh, kiên quyết, khôn khéo, mềm dẻo... [124, tr. 76 - 77].
Tuy nhiên, phát triển văn hóa chính trị của người sĩ quan Biên phòng vẫn còn
bộc lộ những hạn chế gắn với đặc thù công việc của họ:
Một bộ phận khơng nhỏ sĩ quan Biên phịng hồi nghi, dao động về lập


21

trường tư tưởng chính trị, chưa hồn tồn tin tưởng tuyệt đối vào con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt, khơng ít sĩ quan Biên phịng suy

thối đạo đức, lối sống… ; trình độ và năng lực của một bộ phận không nhỏ
sĩ quan Biên phịng chưa có bước phát triển tương ứng [124, tr. 77 - 78].
Nội dung, phương pháp đánh giá thực trạng phát triển văn hóa chính trị người
sĩ quan Biên phịng trong tình hình mới của tác giả là những gợi ý quan trọng, có giá
trị, nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng và phát triển trong viết thực trạng văn hóa
chính trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Qn đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Phạm Ngọc Nhân (2018), Phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [110], đánh giá thực trạng phát triển nguồn
lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam theo các yếu tố cấu
thành, bao gồm: Số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần. Trên mỗi phương diện, tác giả đã chỉ ra cả những ưu điểm, hạn chế cũng như
nguyên nhân của thực trạng đó. Đánh giá về chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần, theo tác giả: “Chất lượng nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần đã có sự
phát triển khá tồn diện và vững chắc; nó được thể hiện ở cả dạng tiềm năng và hiện
hữu; cả ở phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống đến trình độ học vấn, năng lực
chuyên môn và thể lực” [110, tr. 73]. Tuy nhiên, “sự phát triển về mặt chất lượng
nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
bảo đảm hậu cần trong tình hình mới” [110, tr. 84]. Những ưu, khuyết điểm về sự
phát triển chất lượng nguồn nhân lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần mà tác giả đánh giá
trong luận án là những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng có hiệu
quả trong nội dung đánh giá thực trạng phẩm chất, năng lực hoạt động chính trị của sĩ
quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1.1.3. Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan
đến giải pháp phát triển văn hóa chính trị, văn hóa chính
trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
Về giải pháp phát triển văn hóa chính trị nói chung


22


Đặng Khắc Ánh (2014), “Văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa với đạo đức
công vụ trong nền kinh tế thị trường” [2] cho rằng: Trong bối cảnh chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cần áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ với những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, tập trung
vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sâu, rộng cho
mọi đối tượng. Hai là, nâng cao chất lượng các quy phạm pháp luật về đạo đức
công vụ. Ba là, đổi mới và cải cách công tác quản lý cán bộ công chức ở tất cả các
khâu từ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí sử dụng, đánh giá và giải
quyết các chính sách, chế độ cho cán bộ công chức theo đúng các quy định của
pháp luật. Bốn là, tăng cường khả năng kiểm sốt đối với hoạt động cơng vụ của
cán bộ cơng chức. Năm là, thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng đối với cán
bộ công chức, nêu cao đạo đức công vụ, khen thưởng, động viên kịp thời gương
cán bộ công chức mẫn cán với công vụ.
Lâm Quốc Tuấn, Nguyễn Thắng Lợi (2017), “Một số giải pháp chủ yếu
nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo hiện nay” [149], đã đề xuất một số
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ
lãnh đạo chính trị nước ta hiện nay. Một là, nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ
lãnh đạo gắn liền với nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hai là, nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nắm
vững Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Ba là, nâng cao văn hóa chính trị
của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học
chính trị và khoa học lãnh đạo. Bốn là, nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh
đạo gắn liền với việc rèn luyện đạo đức, lối sống và phát huy tính tích cực chính trị.
Năm là, nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với việc nâng cao
văn hóa chính trị của quần chúng nhân dân lao động. Sáu là, nâng cao văn hóa
chính trị của cán bộ lãnh đạo gắn liền với đổi mới công tác cán bộ của Đảng.
Đào Thị Thu Trang, Hoàng Thị Thu Trang (2018), “Giáo dục lối sống



23

văn hóa, đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” [141], đề xuất một số giải
pháp cơ bản giáo dục lối sống văn hóa, đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện
nay, giúp thanh niên nhận thức được sâu sắc những chân giá trị để họ tự giáo
dục, bồi đắp mình trở thành những cơng dân có ích, sống có ý nghĩa, khơng chỉ
mang lại lợi ích cho bản thân mà cịn cả cho gia đình và xã hội. Các giải pháp
về giáo dục lối sống nhân văn, bao gồm: Giáo dục lịng nhân ái, bao dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý; giáo dục tinh thần sáng tạo vì dân tộc, vì con người;
giáo dục phẩm chất tự ý thức, tự trọng phẩm giá con người - cá nhân; giáo dục
ý thức văn hóa lối sống; giáo dục hoạt động văn hóa lối sống; giáo dục mơi
trường văn hóa lối sống. Các giải pháp về giáo dục chuẩn mực đạo đức, bao
gồm: Giáo dục lối sống đạo đức trong các quan hệ cụ thể trong nhà trường;
giáo dục đạo đức nghề nghiệp; giáo dục lối sống đạo đức trong các đoàn thể tổ chức; giáo dục lối sống đạo đức trong các quan hệ xã hội; giáo dục lối sống
đạo đức trong quan hệ gia đình.
Về giải pháp phát triển văn hóa chính trị trong qn đội nói
chung, ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng
Khuất Trọng Nam (2018), “Nâng cao văn hóa chính trị cho học viên đào tạo
cán bộ chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị” [106], đã đề xuất
những giải pháp cơ bản nhằm nâng văn hóa chính trị cho học viên đào tạo cán bộ
chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Chính trị: Một là, tăng cường công
tác giáo dục, nâng cao nhận thức về văn hóa chính trị cho học viên đào tạo cán bộ
chính trị cấp chiến thuật, chiến dịch. Hai là, phát huy vai trò của các chủ thể trong
nâng cao văn hóa chính trị cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp chiến thuật,
chiến dịch. Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học tập, bồi dưỡng,
nâng cao văn hóa chính trị cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp chiến thuật,
chiến dịch. Bốn là, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm, nhận thức sai trái, biểu
hiện phi văn hóa, phản văn hóa.



24

Lê Xuân Thanh (2018), Phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [131], dựa trên khung lý luận và đánh giá
thực trạng, tác giả đề xuất giải pháp cơ bản phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan
trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Một là, đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục pháp luật của các chủ thể và nâng cao chất lượng tự
giáo dục pháp luật của sĩ quan trẻ. Hai là, nâng cao chất lượng rèn luyện sĩ quan trẻ
sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Ba là, xây
dựng “điểm sáng văn hoá” về tổ chức thực tiễn sống, làm việc của sĩ quan trẻ theo
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội. Các giải pháp cơ bản
phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay mà tác giả đề xuất đã luận giải cả khách quan và nhân tố chủ quan. Đây là
những nội dung quan trọng và có giá trị để nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng và
phát triển trong viết phần giải pháp phát triển văn hóa chính trị của sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Hữu Lập (Chủ biên, 2019), Xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí
Minh cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay
[71], trên cơ sở luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và đánh giá thực trạng, các
tác giả đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội hiện nay: Một là, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay; hai là,
giáo dục, rèn luyện phẩm chất, nhân cách của đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn
vị cơ sở trong quân đội theo chuẩn mực văn hóa chính trị Hồ Chí Minh; ba là, xây
dựng mơi trường văn hóa chính trị mẫu mực trong quân đội và sớm hệ thống hóa
các tri thức về văn hóa chính trị Hồ Chí Minh thành sách, giáo trình, tài liệu tham
khảo để chính ủy, chính trị viên học tập, làm theo; bốn là, phát huy vai trò của các

tổ chức, lực lượng ở đơn vị cơ sở trong xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh
cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên; năm là, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng văn
hóa chính trị Hồ Chí Minh với chủ động phịng ngừa những biểu hiện “tự diễn


25

biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ chính ủy, chính trị viên ở đơn vị cơ sở. Đây là
những gợi ý quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng đề xuất giải pháp xây
dựng mơi trường văn hóa chính trị ở đơn vị cơ sở nhằm phát triển văn hóa chính trị
của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Phạm Ngọc Nhân và Nguyễn Trọng Tiến (2016), “Sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần quân đội thấm nhuần quan điểm “Phục vụ bộ đội” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh” [109], đã luận giải những nội dung cơ bản trong quan điểm “Phục
vụ bộ đội” của Chủ tịch Hồ Chí Minh”; vai trị của sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam đối với việc bảo đảm hậu cần cho quân đội
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu trong mọi tình huống. Theo đó,
để hồn thành tốt chức trách nhiệm vụ, sĩ quan trẻ ngành Hậu cần quân đội
cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau: Một là, sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần quán triệt sâu sắc quan điểm “Phục vụ bộ đội”; hai là, sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần thường xuyên giáo dục cho nhân viên, chiến sĩ làm công tác hậu
cần thuộc quyền nắm chắc và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao;
ba là, sĩ quan trẻ ngành Hậu cần tích cực học tập nâng cao trình độ chun
mơn, phẩm chất đạo đức, lối sống, thực sự là tấm gương sáng để mọi người
noi theo; bốn là, sĩ quan trẻ ngành Hậu cần kiên quyết đấu tranh với nhận
thức, hành động trái với quan điểm “Phục vụ bộ đội”. Đó là những nội dung
có giá trị để nghiên cứu sinh xem xét, vận dụng trong viết phần giải pháp
của luận án, đặc biệt là đề xuất các biện pháp đấu tranh chống phản văn hóa,
phản giá trị hiện nay.
Nguyễn Thanh Minh (2017), Phát huy nhân tố chủ quan của chủ nhiệm hậu

cần trung đồn trong cơng tác hậu cần hiện nay [104], trên cơ sở luận giải những
vấn đề lý luận và thực tiễn phát huy nhân tố chủ quan của chủ nhiệm hậu cần trung
đồn trong cơng tác hậu cần; tác giả đề xuất bốn giải pháp phát huy nhân tố chủ
quan của chủ nhiệm hậu cần trung đồn trong cơng tác hậu cần. Một là, nâng cao
nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể đối với phát huy nhân tố chủ quan
của chủ nhiệm hậu cần trung đoàn trong công tác hậu cần hiện nay. Hai là, nâng


26

cao chất lượng hoạt động thực tiễn tổ chức bảo đảm hậu cần của chủ nhiệm hậu cần
trung đoàn hiện nay. Ba là, gắn kết đào tạo với bồi dưỡng, nâng cao tính tự giác
trong tự tu dưỡng, rèn luyện của chủ nhiệm hậu cần trung đoàn hiện nay. Bốn là,
hồn thiện và thực hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực để chủ nhiệm hậu cần
trung đoàn phát huy tốt hơn nữa nhân tố chủ quan trong công tác hậu cần hiện nay.
Các giải pháp phát huy nhân tố chủ quan của chủ nhiệm hậu cần trung đoàn trong
công tác hậu cần hiện nay trong luận án mà tác giả đề xuất là những gợi ý quan
trọng để nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng viết giải pháp nhân tố chủ quan của sĩ
quan trẻ ngành Hậu Quân đội nhân dân Việt Nam.
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học tiêu biểu đã cơng bố và những vấn đề luận án
tập trung giải quyết
1.2.1. Khái qt kết quả nghiên cứu của các cơng
trình khoa học tiêu biểu đã cơng bố có liên quan đến luận
án
Một là, các cơng trình khoa học tiêu biểu ở nước ngoài và trong nước liên
quan đến luận án đã luận giải một số vấn đề lý luận về văn hóa chính trị và văn hóa
chính trị trong Qn đội nói chung, ngành Hậu cần Quân đội nói riêng. Ở nước
ngồi, nhất là phương Tây, văn hóa chính trị được quan niệm theo các góc độ tiếp
cận khác nhau, thể hiện tính đa dạng, phong phú trong hoạt động chính trị. Cấu trúc

văn hóa chính trị, được các tác giả tiếp cận, luận giải ở cả cấp độ cá nhân và tập thể
trên các khía cạnh khác nhau.
Ở trong nước, luận giải quan niệm về văn hóa chính trị theo các góc độ, lát
cắt khác nhau, nhưng về cơ bản đều có chung nhận định: Văn hóa chính trị là một
bộ phận, một phương diện của văn hóa; là động lực và mục tiêu hoạt động chính trị;
đều đề cao tính nhân văn, nhân đạo, dân chủ, trí tuệ, sáng tạo và mục đích cuối cùng
là giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động chính trị của các chủ thể. Dưới góc độ
nghiên cứu của khoa học Chính trị học và bằng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc,


27

phương pháp liệt kê, tiếp cận giá trị, các tác giả đã đưa ra cấu trúc của văn hóa
chính trị ở cả cấp độ tập thể và cá nhân. Một số cơng trình luận giải các nhân tố, yếu
tố tác động đến văn hóa chính trị, nâng cao văn hóa chính trị, cả nhân tố tác động từ
bên ngồi và những yếu tố bên trong cấu thành văn hóa chính trị của các chủ thể
chính trị; phân tích mối quan hệ giữa văn hóa chính trị với văn hóa đạo đức, văn
hóa pháp luật. Lý luận về văn hóa chính trị trong quân đội và ngành hậu cần Quân
đội nhân dân Việt Nam được tiếp cận, luận giải ở cấp độ văn hóa chính trị cá nhân chủ thể hoạt động quân sự, trên các vấn đề: Quan niệm về nguồn lực, vai trò của
đạo đức cách mạng đối với sĩ quan trẻ ngành Hậu cần; những nhân tố quy định ảnh
hưởng của kinh tế thị trường đến nhân cách người cán bộ hậu cần Quân đội…
Hai là, các công trình khoa học có liên quan đến luận án đã đánh giá
tương đối khái quát và sâu sắc một số vấn đề về thực trạng văn hóa chính trị;
nâng cao, phát triển văn hóa chính trị với những nội dung rất phong phú, đa
dạng khơng chỉ văn hóa chính trị Việt Nam với tính cách nền văn hóa chính trị
của một Quốc gia, mà còn là thực trạng sinh động về văn hóa chính trị của từng
lớp khách thể cụ thể gắn với những nét bản sắc riêng về văn hóa chính trị. Thực
trạng phát triển văn hóa chính trị trong quân đội nói chung, ngành Hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng được các tác giả đánh giá trên các
phương diện: Qúa trình tự thân vận động tiến lên của văn hóa chính trị cá nhân;

là hoạt động tự giác, có mục đích của các chủ thể cải tạo khách thể; các yếu tố
cấu thành văn hóa chính trị của chủ thể. Các cơng trình đều đánh giá một cách
cụ thể cả mặt tích cực và hạn chế về văn hóa chính trị, về nâng cao và phát
triển văn hóa chính trị; đồng thời chỉ ra những ngun nhân của thực trạng đó.
Ba là, các cơng trình khoa học có liên quan đến luận án đã đề xuất hệ thống
giải pháp nhằm xây dựng, phát triển, nâng cao văn hóa chính trị của các chủ thể chính
trị. Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa chính trị, các
cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài dưới góc độ tiếp cận chuyên biệt của


×