Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số quan điểm phê phán nền giáo dục truyền thống của john dewey và định hướng vận dụng trong cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.62 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

242


HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0045
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 242-254


This paper is available online at


<b>MỘT SỐ QUAN ĐIỂM PHÊ PHÁN NỀN GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG </b>
<b>CỦA JOHN DEWEY VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG </b>


<b>TRONG CẢI CÁCH GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY </b>

Đồn Văn Re



<i>Khoa Lí luận Chính trị, Trường Đại học Tiền Giang </i>


<b>Tóm tắt. Giáo dục và đào tạo của một quốc gia là chỉ số quan trọng nói lên trình độ phát </b>
triển của con người và mức độ chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững của đất
nước. Phát triển giáo dục luôn là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản
cho sự phát triển của xã hội, sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bài viết tập trung
làm rõ sự phê phán của John Dewey đối với nền giáo dục truyền thống thể hiện ở một số
nội dung sau: (1) Nội dung nền giáo dục truyền thống được xem là bất biến và việc truyền
tải được thực hiện một cách nguyên xi, máy móc; (2) Nền giáo dục truyền thống mang tính
áp đặt; (3) Trong nền giáo dục truyền thống, trẻ em là người học thụ động và phải tuân theo
những chuẩn mực đạo đức của người lớn; (4) Nền giáo dục truyền thống xem trọng nội
dung của chương trình học, chưa xem người học giữ vai trò trung tâm; (5) Nền giáo dục
truyền thống xem người thầy giữ vai trò quyền uy, người phân phát nội dung kiến thức cho
người học. Để đánh giá sự phê phán của John Dewey với nền giáo dục truyền thống, tác giả
đã tập trung nghiên cứu các tác phẩm của ông về vấn đề giáo dục. Trên cơ sở đó, bài viết
đưa ra một số giải pháp đối với công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay theo tư
tưởng của John Dewey.



<i><b>Từ khóa: giáo dục truyền thống, cải cách giáo dục, quan điểm phê phán, John Dewey. </b></i>


<b>1. Mở đầu </b>



Không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đều xem giáo dục và đào tạo giữ
một vị trí, vai trị quan trọng. Sinh thời, Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một dân tộc dốt là một
<i>dân tộc yếu” [1, tr.8]. Từ hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khố VIII đến nay, </i>
Đảng ta ln coi “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, là động lực, đòn bẩy thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, “đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội” [2]. Qua 75 năm kể từ sau cách
mạng Tháng Tám năm 1945 và nhất là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khố XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào
tạo, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới, nền giáo dục Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập
từ mục tiêu, phương pháp, chương trình đến cách thức tổ chức quản lí giáo dục, v.v... thậm chí
lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực, mà “nguyên nhân sâu xa của những bất cập này ở chỗ


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

243
nền giáo dục Việt Nam theo lối mịn của nền giáo dục Xơ Viết đã bị từ bỏ, đặc trưng của nó là
mơ hình giáo dục truyền thống mà John Dewey đã phê phán gay gắt và đa số các nước có nền
giáo dục tiên tiến đã vượt qua” [3, tr.100]. Thật vậy, mặc dù đã liên tục cố gắng và đạt được một
số thành tựu nhất định, đổi mới nền giáo dục Việt Nam thời gian qua vẫn thực sự chưa mang
tính hệ thống và căn bản. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải tiến hành một cuộc “cách
mạng” từ tư tưởng đến hành động trong ngành giáo dục, phải triệt để thay đổi gốc rễ của nó.


Triết lí giáo dục dân chủ, thực dụng John Dewey thực sự đã tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh
vực giáo dục của nước Mĩ và châu Âu thế kỉ XX [4]. Chúng đã được vận dụng thành cơng ở các


nước có nền giáo dục đạt trình độ tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Hà
Lan, Phần Lan, Nhật, Hàn Quốc, Singapore,… Triết lí này chú trọng phát triển con người với
phương châm nhân bản, dân chủ và hiệu quả. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1941, Vũ Đình
H (chủ nhiệm tạp chí Văn chương, chính trị và kinh tế Thanh Nghị, sau này là Bộ trưởng Bộ
Quốc gia Giáo dục từ ngày 28/8/1945 đến ngày 2/3/1946) trong bài “Giáo dục thanh niên và nền
sơ học ở nước ngồi” có những đánh giá về ưu và hạn chế nền giáo dục của các nước [5]. Khi
đề cập đến nền giáo dục Mỹ, ông đã đề cập đến phương pháp dạy học mới, một lối dạy học theo
cá tính, thường áp dụng ở các trường công của Mỹ là phương pháp của John Dewey. Mục đích
của phương pháp này khơng phải “để dạy nghề mà để mở mang trí thức về thực tế và công việc
trong xã hội”; “Theo lối dạy ấy, trẻ con trong lúc học cảm thấy đã làm những cơng việc có ích
và để hết tâm hồn vào đấy. Sự chung đụng với cuộc đời lại còn làm cho chúng yêu quý trường
học và cảm thấy yêu thích trong sự học”. Có thể nói, những ngun lí giáo dục của John Dewey
hiện nay vẫn như ngọn cờ dẫn đường cho giáo dục ở Hoa Kỳ - nền giáo dục phát triển hàng đầu
trên thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những ngun lí giáo dục
của ơng là cần thiết.


<b>2. Nội dung nghiên cứu </b>



<b>2.1. Một số quan điểm phê phán của John Dewey đối với nền giáo dục truyền thống </b>


Ngay từ thế kỉ IV TCN, Platon là người đầu tiên chủ tâm giảng giải cho nhân loại biết thế
nào là giáo dục: Một xã hội ổn định khi mỗi cá nhân làm công việc phù hợp với những năng
khiếu tự nhiên theo cách anh ta có ích cho những người khác và nhiệm vụ của nền giáo dục là
phát triển những năng khiếu tự nhiên này và huấn luyện chúng dần dần cho mục đích xã hội.
Đến giữa thế kỉ XVIII, J.J.Rútxô đã đưa ra ý tưởng mới mang tính cách mạng: Con người sinh
ra là thiện, mọi xã hội đều có xu hướng làm hỏng cái thiện có sẵn ấy trong con người; và vì vậy
sứ mạng chủ yếu của giáo dục là làm cho cái bản tính tốt đẹp tự nhiên của con người được duy
trì và phát triển, chứ khơng phải là đào tạo con người theo lợi ích của xã hội. Muộn hơn một
chút, vào cuối thế kỉ XVIII, I.Kant lại có một cách nhìn nhận khác hẳn: Nhân loại bắt đầu lịch
sử của mình trong tình trạng bị tự nhiên khống chế - chứ không phải với tư cách con người là
một sinh vật có lí trí, trong khi đó tự nhiên chỉ cung cấp bản năng và lòng ham muốn. Cuối thế

kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cùng với sự xuất hiện trào lưu thực dụng luận (Pragmatism) trào lưu tân
giáo dục đã ra đời ở Mỹ mà người khởi xướng là John Dewey. Ở thời đại của John Dewey, cứu
cánh của giáo dục có lẽ khơng khác mấy so với một thế kỉ trước: Hoàn thiện con người và phục
vụ xã hội. Các nguyên lí cơ bản về phương châm, phương pháp giáo dục của John Dewey thực
sự đã làm nên một cuộc cách mạng mới trong giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

244


thâm nhập vào Nhật Bản và Trung Quốc. Tại Việt Nam, năm 1940, Vũ Đình Hịe đã giới thiệu
John Dewey trên báo Thanh Nghị.


Thông qua nghiên cứu một số tác phẩm của John Dewey, chúng tôi nhận thấy một số quan
điểm phê phán nền giáo dục truyền thống như sau:


<i>Thứ nhất, nội dung nền giáo dục truyền thống được xem là bất biến và việc truyền tải được </i>
<i>thực hiện một cách nguyên xi, máy móc </i>


Trong lĩnh vực giáo dục, John Dewey xây dựng một lí thuyết mới và thể nghiệm nó bằng
thực nghiệm. Ơng đã thơng qua sự xem xét tổng thể và nghiên cứu của mình để đi đến quan
điểm về giáo dục khác với những quan điểm trước đó. Dewey chỉ ra rằng, trong nền giáo dục
truyền thống, nội dung giảng dạy bao gồm những chủ đề hoặc các mơn học, chúng có xuất xứ từ
“quá khứ”, là một tập hợp gồm nhiều dữ kiện, khái niệm, mệnh đề và lí thuyết được tổ chức một
cách hợp lơgíc, và được sắp xếp theo một trình tự phức tạp dần trong một bộ sách giáo khoa.
Mỗi môn học được coi là riêng biệt và người ta có khuynh hướng coi chủ đề, được tổ chức theo
cách truyền thống như là bất khả xâm phạm: “Nội dung của giáo dục gồm rất nhiều kiến thức và
kĩ năng đã được phát triển trong quá khứ; vì thế nhiệm vụ chủ yếu của nhà trường là truyền dạy
chúng cho thế hệ sau” [6, tr.33], “mục đích hoặc mục tiêu chính của nhà trường là chuẩn bị cho
trẻ những trách nhiệm tương lai và cho sự thành đạt trong cuộc đời, để làm điều ấy học sinh
phải học rất nhiều kiến thức được tổ chức sẵn và những hình thái kĩ năng được chuẩn bị sẵn, tức
tất cả những gì bao hàm vật liệu của dạy học” [6, tr.34]. Như vậy, nội dung của nền giáo dục


truyền thống được đóng trong một “bộ khung” và trong trạng thái “tĩnh”, bất biến.


Theo John Dewey, nội dung giáo dục “bao gồm các sự kiện được quan sát thấy, hồi tưởng,
đọc, được bàn tới, và những ý niệm được gợi ý trong q trình diễn biến của một tình huống có
mục đích” [7, tr.217]. Tức nội dung giáo dục là cái mà ta thu được trong diễn biến của một tình
huống có mục đích cụ thể. Nội dung giáo dục theo ông phải là một khái niệm “động”, được mô
tả như là những điều mà người học thực sự dùng đến khi hành động trong một tình huống có
mục đích. Thay vì sử dụng chủ đề theo cách giúp người học học bằng cách tổ chức lại nó, theo
Dewey thì nền giáo dục truyền thống lại tìm cách “truyền” dạy chủ đề dưới hình thức nguyên
vẹn, những sự kiện “đã chết” hoặc bằng phương pháp kỉ luật mạnh mẽ hay bằng cách “bọc
đường cho viên thuốc đắng để nó trở nên ngon lành hơn”.


Trên cơ sở đó, Dewey đưa ra nội dung giáo dục kết hợp lí thuyết và thực hành. Bởi vì, việc
dạy kiến thức lí thuyết ở các mơn học cụ thể như là những lát cắt lịch đại của tri thức loài người
sẽ chỉ làm mất đi sự linh hoạt của tư duy và sự đa dạng của những năng lực tiềm tàng của trẻ
em. Ẩn sâu trong tư tưởng giáo dục mới ấy là những suy tư của bản thân triết gia về thế giới và
con người, về tự nhiên và xã hội, về cộng đồng và cá nhân. Bên cạnh đó, John Dewey cịn cho
rằng nội dung giáo dục không chỉ đơn thuần là cung cấp cho người học kiến thức, mà còn là kĩ
năng cho người học. Người thầy nên quan tâm tới mối quan hệ tương giao giữa nội dung và các
nhu cầu và năng khiếu hiện có của học sinh.


Theo đó, nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản tồn diện, thiết thực và có hệ thống.
Muốn chuẩn bị một thế hệ tương lai tốt thì việc giáo dục phải thật sự có chất lượng. Ơng cho
rằng nội dung giáo dục toàn diện sẽ giúp người học tự rèn luyện mình. Từ việc đề cao nhu cầu,
lợi ích của người học, ơng khơng đi theo xu hướng truyền thống thiết kế chương trình giảng dạy
lấy lơgíc nội dung mơn học làm trung tâm mà thiết kế chương trình học tập phải trong mối liên
hệ với chính bản thân người học. Nói cách khác, chương trình học của nhà trường phải tính đến
việc làm cho các môn học phù hợp với các nhu cầu của đời sống cộng đồng hiện hữu.


<i>Thứ hai, nền giáo dục truyền thống mang tính áp đặt </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

245
nghiệm chứ khơng phải mang tính áp đặt. Giáo dục giúp tăng trưởng kinh nghiệm đồng nghĩa
với việc giáo dục giúp lượng kinh nghiệm tăng lên, biến đổi đặc tính kinh nghiệm theo từng giai
đoạn cụ thể của đời người để làm kinh nghiệm phong phú hơn.


Theo Dewey, “kiểu giáo dục truyền thống về bản chất là sự áp đặt từ bên trên và từ bên
ngồi. Nó áp đặt những chuẩn mực, nội dung và phương pháp của người lớn cho những người
chỉ mới đang trưởng thành dần dần” [6, tr.35]. Chính sự áp đặt này làm cho giữa nền giáo dục
và trẻ em có một khoảng cách nhất định và nằm ngoài tầm với của các em: “Hố cách biệt lớn
đến nỗi nội dung, phương pháp học và phương pháp ứng xử mà nhà trường ấy đòi hỏi thảy điều
xa lạ với những khả năng hiện hữu của trẻ em. Chúng nằm ngoài phạm vi kinh nghiệm vốn có ở
<i>người học nhỏ tuổi” [6, tr.35]. Sự áp đặt này cịn mang ý chí chủ quan của cấp quản lí và chưa </i>
dựa vào đặc điểm tâm sinh lí cũng như sở thích của đối tượng người học.


Bên cạnh đó, Dewey cịn cho rằng, bản chất của giáo dục chính là cuộc sống, thay vì giáo
dục như việc đặt ra các quy tắc để học sinh thực hiện theo, mang tính áp đặt thì giáo dục phải có
chương trình giáo dục riêng cho mọi người, khi xây dựng giáo dục phải dựa trên quan niệm về
“bản tính người” mà bản tính con người bao giờ cũng mang tính chủ thể, cái mà để phân biệt
mình với người khác. Đặc biệt trong quan niệm coi giáo dục là sự tái kiến tạo hoặc tổ chức lại
kinh nghiệm mang tính liên tục điều này cũng đã khẳng định kinh nghiệm đó mang cả tính xã
hội và tính cá nhân chứ khơng phải là sự tuyệt đối hóa mặt xã hội hoặc ngược lại là mặt cá nhân
của kinh nghiệm.


Cũng theo ông, sai lầm của phương pháp giáo dục truyền thống là người thầy thường yêu
cầu người học tự tư duy để tìm ra cách giải quyết vấn đề như thể người học có thể lấy chúng ra
từ trong đầu vậy. Trong khi đó, việc giải quyết khó khăn cần có sẵn những dữ kiện trợ giúp suy
nghĩ cần thiết. Chất liệu của tư duy là hành động, sự việc, sự kiện, các mối quan hệ của sự việc
chứ không phải là suy nghĩ. Bởi vậy, để tư duy hiệu quả, người ta phải đã hoặc đang có những
kinh nghiệm dùng làm nguồn lực giải quyết khó khăn trước mắt.



<i>Thứ ba, trong nền giáo dục truyền thống, trẻ em là người học thụ động và phải tuân theo </i>
<i>những chuẩn mực đạo đức của người lớn </i>


Theo Dewey, “vì nội dung và các chuẩn mực ứng xử thích hợp được truyền lại từ quá khứ,
vì thế thái độ ứng xử của học sinh, nói chung, phải là thái độ ngoan ngoãn, thu động và vâng
lời”, “rèn luyện đạo đức cốt ở việc hình thành những thói quen hành động phù hợp với những
nguyên tắc và chuẩn mực này” [6, tr.33]. Trong tiểu luận “Trẻ em và chương trình học” được
đăng lần đầu tiên dưới dạng sách mỏng do University of Chicago Press ấn hành năm 1902,
Dewey cho rằng, nền giáo dục truyền thống xem “trẻ em đơn thuần là một sinh vật non nớt cần
được làm cho trưởng thành; trẻ em là một sinh vật hời hợt cần được làm cho sâu sắc; kinh
nghiệm của trẻ còn hạn hẹp nên cần được mở rộng. Trẻ em có bổn phận phải tiếp nhận, chấp
nhận. Trẻ hồn thành bổn phận của mình khi nó ngoan ngoãn và vâng lời” [8, tr.447].


John Dewey thường phản đối quá trình học tập trong sự phớt lờ và tách biệt của cá nhân
khác trong cộng đồng. Bởi vì, một cá nhân bị cơ lập với những cá nhân khác sẽ luôn bộc lộ ra
những phản ứng tiêu cực ngăn cản quá trình phát triển của chính cá nhân đó cũng như những
người xung quanh. Ngồi ra, ơng cịn đề cao vai trị của gia đình và nhà trường. Đây được xem
là hai nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình và tăng trưởng tính cách, cảm xúc, trí tuệ và
đạo đức cá nhân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

246


chừng nào mà những mối kích thích hành vi vẫn mang tính thiên vị, bởi các cá nhân phải sống
trong một nhóm mà sự biệt lập đã ngăn chặn rất nhiều mối hứng thú” [7, tr.114].


Nhấn mạnh vai trò đặc biệt về tầm quan trọng của nhà trường và giáo dục nhà trường trong
tiến trình phát triển xã hội, John Dewey khẳng định, nhà trường phải là nơi trẻ em được tập dượt
cuộc sống của một xã hội dân chủ với lí tưởng đề cao tự do và phẩm giá của con người, tính đa
dạng trong cá tính và năng lực cá nhân nhằm hòa nhập tốt hơn vào nền văn hóa chung của nhân


loại. Những trải nghiệm giáo dục xuất phát từ quan niệm về dân chủ trong giáo dục sẽ giúp các
cá nhân trở thành những cơng dân tích cực của xã hội, tham gia đóng góp tài năng và sức lực
của mình vào sự nghiệp xây dựng một đất nước, đồng thời chủ động trong đời sống của riêng
mình. Đây là điều mà thế hệ trẻ Việt Nam rất cần học tập và trang bị cho bản thân.


<i>Thứ tư, nền giáo dục truyền thống xem trọng nội dung của chương trình học, chưa xem </i>
<i>người học giữ vai trò trung tâm </i>


John Dewey phê phán gay gắt, chỉ ra hạn chế lớn nhất của phương pháp giáo dục trong nhà
trường truyền thống là đã bắt người học giải quyết những vấn đề đặt ra bởi người thầy giáo chứ
không phải là những vấn đề với tư cách một con người: đó là những vấn đề bản thân người học
đặt ra hoặc những vấn đề cuộc sống thường ngày đặt ra cho chúng. Phương pháp giáo dục
truyền thống với việc giải quyết những vấn đề đặt ra bởi thầy giáo sẽ dần đến tình trạng khiến
người học chỉ hướng tới đi tìm những điều thầy giáo mong muốn, điều làm thầy giáo hài lịng vì
sự thuộc bài, sự kiểm tra và thái độ ứng xử bên ngoài, việc này làm cho mối quan hệ của người
học với nội dung học tập khơng cịn trực tiếp. Mục tiêu học tập lúc này là những quy ước và tiêu
chuẩn của nhà trường mà người học thi hành hệ thống đó. Những phương pháp quen thuộc này
của nhà trường sẽ cho kết quả trong tình huống tốt nhất thì tư duy được gợi ra cũng chỉ là phiến
diện, giả tạo, còn tình huống xấu nhất thì người học chỉ cần làm ra vẻ hoặc đủ gần đáp ứng yêu
cầu là được. Phương pháp như vậy tạo ra ở học sinh năng lực phán đốn nhưng khơng có sự bổ
sung mong muốn vào tính cách. Phương pháp “thử và sai” đưa ra nhằm khắc phục những
phương pháp quen thuộc của nhà trường nhằm đánh thức tư duy của người học chứ không phải
bắt học thực hiện những khn mẫu sẵn có. Ơng cho rằng nhà trường phải tạo ra các tình huống
có vấn đề trong q trình dạy học nhằm kích thích tư duy và phương pháp thẩm tra cá nhân.


<i>Bên cạnh đó, theo ơng nền giáo dục truyền thống chú trọng giáo dục nhiều kiến thức và kĩ </i>
<i>năng đã được phát triển trong quá khứ, trong đó “sách vở, nhất là sách giáo khoa là đại diện </i>
quan trọng nhất của toàn bộ sự hiểu biết” [6, tr.34], “các môn học này giới thiệu một thế giới
được sắp đặt trên cơ sở của chân lí vĩnh cửu và phổ quát; một thế giới tất cả ở đó đều được đo
lường và được định nghĩa. Do đó đạo đức là: hãy phớt lờ và hạ thấp những đặc tính riêng biệt


của trẻ, những suy nghĩ bất thường và những kinh nghiệm của trẻ” [8, tr.446-447]. Chính vì vậy,
các nhà giáo dục truyền thống nói chung trong đó có các nhà giáo dục của Việt Nam nói riêng
hầu như vẫn chỉ chú trọng đến việc thiết kế nội dung môn học, sách giáo khoa hay nhấn mạnh
vai trị của người thầy thay vì chú ý vào đặc điểm của chủ thể giáo dục. Điều này đồng nghĩa
với việc chưa xem người học là trung tâm của giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

247
Phải thật sự xem người học là trung tâm của giáo dục, bởi theo Dewey, nền dân chủ được
thúc đẩy bởi những cá nhân sáng tạo vì thế sự đóng góp của giáo dục cho xã hội cốt ở sự phát
triển những cá nhân tự do, có trí tưởng tượng và có óc sáng tạo. Tương tự quá trình giáo dục
được khuyến khích và duy trì bằng lực thúc đẩy của ham muốn hứng thú và mục đích của học sinh.


<i>Thứ năm, nền giáo dục truyền thống xem người thầy là giữ vai trò quyền uy, người phân </i>
<i>phát nội dung kiến thức cho người học </i>


John Dewey cho rằng theo cách học truyền thống thì mối quan hệ giữa người dạy và người
học ăn sâu vào trong tiềm thức và nghiễm nhiên trở thành quan hệ “trên - dưới”, đây là một điều
cấm kị trong giáo dục hiện đại. Tư duy cần phải được thay đổi một cách căn bản trước tiên là về
mối quan hệ giữa người dạy và người học, trong hoạt động giáo dục thì người thầy đồng thời
hốn đổi vị trí của mình trở thành người học và tạo thành mối quan hệ giữa người học với người
học. Thay vì cung cấp nội dung làm sẵn và người học làm lại chính xác nội dung ấy thì người
học và người dạy cùng tham gia chia sẻ một hành động (chứ không phải kiến thức). Lúc này
người dạy cũng là một người học, người chia sẻ và ngược lại người học cũng vậy.


Đi liền với nền giáo dục truyền thống xem nội dung giáo dục là bất biến, là chân lí tuyệt
đối và sách giáo khoa là đại diện quan trọng nhất của toàn bộ sự hiểu biết, nền giáo dục truyền
thống xem người thầy là “phương tiện giúp học sinh có được mối liên hệ hiệu quả với vật liệu
đó. Người thầy là người trung gian qua đó thi trức và kĩ năng được truyền đạt và các nguyên tắc
ứng xử được ban hành” [5, tr.34-35]. Người thầy giữ một “quyền uy” rất lớn, là hình mẫu để
ứng xử, “khơng thầy đố mày làm nên”; “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”.



Theo John Dewey, người thầy không phải là quyền uy phân phát những khái niệm để học
sinh hấp thu, mà người thầy là một hướng dẫn viên, một sự kích thích và tác nhân giúp học sinh
tự mình tạo ra những mối quan hệ và những mối liên hệ, những khái niệm của riêng chúng. Ông
cho rằng vấn đề của việc dạy học là: “tìm ra vật liệu lơi cuốn một người tham gia vào các hoạt
động cụ thể có mục tiêu hoặc mục đích có ý nghĩa và gây hứng thú cho người đó” [7, tr.162]. Vì
vậy, “vai trị của nhà sư phạm trong hoạt động giáo dục là, cung cấp mơi trường đủ kích thích
các phản ứng và điều khiển quá trình của người học” [7, tr.217], “Người thầy không nên bận
tâm tới bản thân nội dung, mà nên quan tâm tới mối quan hệ tương giao giữa nội dung với các
nhu cầu và năng khiếu hiện có của học sinh” [7, tr.220].


Ngoài ra, người thầy phải là một chuyên gia được đào tạo tốt, có kiến thức chun mơn
vững vàng, kiến thức tổng quát rộng rãi, phải có một nền tảng vững chắc về lí luận giáo dục để
có thể hiểu được cơ sở triết học, tâm lí học và xã hội học của giáo dục, phải thấy mối quan hệ
lẫn nhau giữa lí thuyết và thực hành. Người thầy đóng vai trị là tác nhân quan trọng bậc nhất
cho sự khai phóng của người học.


<b>2.2. Một số thực trạng và giải pháp đối với việc cải cách giáo dục Việt Nam hiện </b>


<b>nay theo tư tưởng của John Dewey </b>



<b>2.2.1. Một số nhận định về thực trạng giáo dục ở Việt Nam hiện nay </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

248


<i>Thứ nhất, quá chú trọng trang bị kiến thức chuyên môn. Nội dung, chương trình, phương </i>
pháp giáo dục cịn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội
và lao động nghề nghiệp; chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh
viên. Các chương trình đào tạo từ phổ thông đến đại học, sau đại học đều dày đặc các kiến thức
cụ thể. Với lượng tri thức mới được sản sinh ngày càng nhiều và liên tục được cập nhật vào
chương trình thì tình trạng quá tải là không thể khắc phục. Nội dung giáo dục bất cập về mặt


khoa học, rất nặng nề về thời lượng và nhiều nội dung không thiết thực, nặng về giáo dục lí
thuyết, trong đó phần lí thuyết cũng đặt nặng về giáo dục chính trị và nhẹ về thực hành. Công
việc giảng dạy và học tập bị chi phối nặng nề bởi tâm lí khoa cử, chưa coi trọng mục đích học
tập đúng đắn. Phương pháp giáo dục nặng về áp đặt, thường khuyến khích tiếp thu kiến thức
một cách máy móc, chưa khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người học, chưa coi trọng
bồi dưỡng học sinh, sinh viên tư duy và năng lực thực hành. Bên cạnh đó, ở Việt Nam, mặc dù
chúng ta thường yêu cầu phải chuyển trọng tâm sang người học nhưng trong các hoạt động dạy
và học hiện nay vẫn chưa có nhiều chuyển biến thiết thực, vai trò của người học vẫn chưa được
phát huy.


<i>Thứ hai, một hạn chế lớn của giáo dục và đào tạo nước ta là việc dạy và học không gắn </i>
<i>chặt với thực tiễn. Đa phần các chương trình đào tạo hiện nay là những gì nhà trường và các </i>
thầy cô đem áp đặt cho người học, chứ chưa phải là những cái xã hội cần. Có một nguyên nhân
quan trọng là ở nước ta trong một thời gian dài, cung và cầu của giáo dục đại học mất cân đối
nghiêm trọng.


<i>Thứ ba, tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước </i>
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học giáo dục chưa được
quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.


<i>Thứ tư, nền giáo dục của nước ta tương đối khép kín. Mặc dù số lượng cán bộ của ngành </i>
giáo dục (bao gồm cả quản lí và tham gia giảng dạy) có cơ hội đi tham quan nước ngoài rất
nhiều, nhưng dường như việc học tập nước ngồi chưa có một chương trình thật bài bản với
những mục tiêu xác định nên kết quả không như mong muốn.


<i>Thứ năm, sự thiếu thốn, nghèo nàn về cơ sở vật chất, là chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng </i>
đối với đội ngũ những người làm giáo dục. Có thể nói trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
đã có những cố gắng lớn trong đầu tư cho giáo dục.


Đối với những hạn chế mà chúng ta mắc phải có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách


quan khác nhau, nhưng những nguyên nhân chủ quan nên cần phải khắc phục. Con người với tư
cách vừa là mục đích, vừa là chủ nhân vừa là người tổ chức và thực hiện các quá trình phát triển
đang ngày càng chứng minh là trung tâm của mọi sự phát triển. Để phát triển kinh tế - xã hội,
mỗi dân tộc khơng cịn con đường nào khác là bắt đầu từ chính con người. Một nền giáo dục tốt
là một nền giáo dục phong phú, gần cuộc sống và ln thích ứng với những địi hỏi của cuộc
sống của con người.


Vì vậy, từ thực trạng trên, việc cải cách giáo dục là một việc làm cần thiết trong bối cảnh
hiện đại như ngày nay. Trong đó, cần có sự cải cách về tồn diện về giáo dục vì nếu khơng có
cuộc cách mạng trong việc đổi mới về giáo dục thì sự học mang tính thụ động đương nhiên sẽ
sản sinh ra những tri thức mang tính thụ động, điều đó về trước mắt có thể chưa dẫn tới những
hậu quả mang tính xã hội nhưng khi nó tồn tại lâu dài sẽ kéo lùi sự phát triển của đất nước.
Vì vậy việc cải cách giáo dục càng trở nên cấp thiết.


<b>2.2.2. Một số giải pháp đối với việc cải cách giáo dục Việt Nam hiện nay theo tư tưởng của </b>
<b>John Dewey </b>


</div>

<!--links-->

×