Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Dự án khôi phục kênh Cheonggyecheon (Seoul) bài học kinh nghiệm về tổ chức không gian cảnh quan dọc kênh rạch nội thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 8 trang )

Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

DỰ ÁN KHÔI PHỤC
KÊNH CHEONGGYECHEON (SEOUL)
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC
KHÔNG GIAN CẢNH QUAN DỌC
KÊNH RẠCH NỘI THÀNH
Phạm Trần Hải, Vương Đình Huy và Nguyễn Dương Minh Hồng
Viện nghiên cứu phát triển

Tóm tắt
Sau khi Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) kết thúc, Seoul – thủ đô và là thành phố lớn nhất
của Hàn Quốc – bắt đầu công cuộc tái thiết để khắc phục hậu quả chiến tranh. Từ năm 1953, q
trình phát triển đơ thị của Seoul được chia thành bốn giai đoạn chính: giai đoạn khơi phục và tăng
trưởng (1953-1979) - nhanh chóng khơi phục sau chiến tranh và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
cơ bản nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giai đoạn bùng nổ (1979-1987) – khẩn trương nâng cấp
thành phố để chuẩn bị cho việc đăng cai Thế vận hội Olympic 1988; giai đoạn quá độ (1987-2002) –
bắt đầu chuyển dịch mơ hình phát triển của Seoul từ phát triển nhanh sang phát triển bền vững; giai
đoạn chuyển đổi (từ 2002 đến nay) – tập trung vào các mục tiêu phát triển bền vững nhằm nâng cao
chất lượng sống đô thị. Dự án Khôi phục kênh Cheonggyecheon tại khu vực trung tâm Seoul là một
trường hợp tiêu biểu cho việc tái phát triển hạ tầng đô thị bền vững: từ dịng kênh bị ơ nhiễm nặng trở
thành đường phố (1942-1958) và đường trên cao (từ 1977-2003), và cuối cùng là dòng suối cảnh
quan với đường phố và tuyến phố đi bộ (từ năm 2005 đến nay). Đây là bài học có giá trị về tổ chức
khơng gian cảnh quan dọc kênh rạch nội thành cho Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Seoul, kênh Cheonggyecheon, khơng gian cảnh quan, kênh rạch nội thành.

142


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp


để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

1. Q TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐƠ THỊ CỦA
SEOUL
Trong suốt Chiến tranh Hàn Quốc (19501953), Seoul là một chiến trường chính giữa các
lực lượng Bắc Triều Tiên (do Liên Xô và Trung
Quốc hỗ trợ) và lực lượng Nam Triều Tiên (do
Mỹ hậu thuẫn). Vì vậy, thành phố này bị chiến
tranh tàn phá nặng nề với tổng thiệt hại lên đến
191,000 cơng trình cao tầng, 55.000 nhà dân và
1.000 nhà máy. Tuy nhiên sau chiến tranh, Seoul
– Thủ đô của Hàn Quốc – đã dần bắt đầu được
xây dựng lại và trở thành đô thị lớn nhất của đất
nước này 1.
Định hướng phát triển đô thị của Seoul từ
năm 1953 đến nay có thể được chia thành bốn
giai đoạn (Phạm Trần Hải, 2015), bao gồm:
-

Giai đoạn khôi phục và tăng trưởng
(1953-1979);

-

Giai đoạn bùng nổ (1979-1987);

-

Giai đoạn quá độ (1987-2002);


-

Giai đoạn chuyển đổi (từ năm 2002 đến
nay).

Ở giai đoạn đầu (1953-1979), định hướng
phát triển đô thị của Seoul là nhanh chóng phục
hồi sau chiến tranh và xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng cơ bản để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn này, Chính quyền Thủ đơ Seoul
(Seoul Metropolitan Government – SMG) đã huy
động hầu hết các nguồn lực của mình để đầu tư
các dự án cơng có quy mơ lớn (cầu, đường bộ, hệ
thống tàu điện ngầm, khu phức hợp,...). Trong
đó, có thể kể đến một số dự án quan trọng: dự án
Cao tốc Gyeong-bu, dự án Phát triển Yeodo
(1967), dự án Đường hầm Namsan (những năm
thập niên 70), dự án Tàu điện ngầm số 1 (1971 –
1974), dự án Phát triển công nghiệp Thị trấn
Banwol (Ansan), …

đô thị được mở rộng đáng kể và lưu lượng giao
thơng tại Seoul tăng lên nhanh chóng. Sự bùng
nổ trong phát triển đô thị đã dẫn đến nhiều hậu
quả gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của
hàng triệu dân: xung đột xã hội, tình trạng mất
bản sắc dân tộc, sự yếu kém trong bảo tồn di sản
văn hóa – lịch sử, sự thối hóa mơi trường, các
mối đe dọa từ ngành công nghiệp,… (SI, 2014).
Để giải quyết với những vấn đề nêu trên,

trong giai đoạn (1987-2002), SMG bắt đầu thực
hiện chiến lược dịch chuyển mơ hình phát triển
đơ thị từ phát triển nhanh sang phát triển bền
vững. Có thể nói, SMG bắt đầu tạo ra một nền
tảng cơ bản cho phát triển đô thị bền vững cũng
như thiết lập các chương trình cải thiện đơ thị
(cải tạo sơng, giao thông công cộng,...) (Phạm
Trần Hải, 2015).
Trong giai đoạn từ năm 2002 trở đi, định
hướng phát triển chính của Seoul đã hướng vào
mục tiêu phát triển bền vững: cạnh tranh quốc tế,
bảo tồn văn hóa và lịch sử, phục hồi môi trường
tự nhiên, giải quyết các mâu thuẩn xã hội,…
SMG lần lượt triển khai các dự án nghiên cứu về
kích thích phát triển đơ thị, chiến lược thành lập
đơ thị thông minh nhằm cải tạo chất lượng cuộc
sống thông qua kết nối quốc tế, giải quyết các
vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Trong
đó, dự án Khơi phục kênh Cheonggyecheon được
khởi nguồn từ giai đoạn chuyển tiếp đã trở thành
một biểu tượng điển hình cho giai đoạn thay đổi
này.

Bước vào giai đoạn bùng nổ (1979-1987),
định hướng phát triển đô thị của Seoul là khẩn
trương tập trung nâng cấp thành phố để phục vụ
cho việc đăng cai Thế vận hội Olympic 1988 với
những dự án trọng yếu: dự án Phát triển Sông
Hàn (1983 – 1988), dự án Đường Olympic
(1986),… đã góp phần làm GDP bình qn đầu

người của Hàn Quốc tăng nhanh chóng: GDP
bình qn đầu người năm 1990 so với năm 1980
đã tăng lên gấp khoảng 4 lần. Song hành cùng
với tăng trưởng kinh tế, diện tích đất xây dựng
1

/>
143


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

2. DỰ ÁN KHÔI PHỤC KÊNH
CHEONGGYECHEON
Kênh Cheonggyecheon dài 5,8 km chảy
qua khu vực trung tâm Seoul, đổ vào sơng
Jungnangcheon (Hình 1). Đầu những năm 1900,
dịng kênh này được cải tạo với mục đích quân
sự, vệ sinh và kiểm soát lũ lụt. Trong giai đoạn
1937-1942, kênh Cheonggyecheon bị san lấp một
phần (đoạn từ Gwanghwamun đến cầu
Gwanggyo) để làm đường (đường Cheonggye);
giai đoạn 1958-1977, chính phủ đã san lấp toàn
bộ kênh Cheonggyecheon và hoàn thành việc xây
dựng thêm đường trên cao với lưu lượng khoảng
168.000 xe/ngày. Khu vực dọc theo đường
Cheonggye trở thành khu vực thương mại với
đầy đủ các cơ sở công nghiệp và cửa hàng nhỏ;
tuy nhiên, qua thời gian, khu vực này dần xuống

cấp với các tòa nhà cũ kỹ, đường phố chật hẹp,
điều kiện giao thơng tồi tệ và tình trạng bn bán
bất hợp pháp trên đường phố.
Ý tưởng khôi phục kênh Cheonggyecheon đầu
tiên được khởi xướng vào khoảng cuối thập niên
1990. Khi nhận thức ý tưởng này mang tính khả
thi và cấp thiết, nhà văn nổi tiếng Park Kyung-ri
đã quyết định ủng hộ dự án và lập diễn đàn
“Nghiên cứu khôi phục kênh Cheonggyecheon”.
Ý tưởng này ngày càng được thảo luận mở rộng

và dần trở thành đề tài nghiêm túc trong các hội
thảo, hội nghị chuyên đề. Trong quá trình tranh
cử chức Thị trưởng Seoul, ứng viên Lee Myungbak lúc bấy giờ đã quyết định gắn ý tưởng này
với chiến dịch tranh cử của mình và chính thức
tun bố rằng sẽ phục hồi kênh Cheonggyecheon
nếu thắng cử. Ngay sau khi ông Lee Myung-bak
đắc cử Thị trưởng, dự án được tiến hành nghiên
cứu kỹ lưỡng với sự tham gia của cộng đồng và
vào năm 2002, Dự án Khôi phục kênh
Cheonggyecheon (Cheonggyecheon Restoration
Project – CRP) được phê duyệt. Ơng Lee
Myung-bak tin rằng, việc khơi phục dịng kênh
này sẽ mang lại lợi ích cho Seoul về nhiều mặt:
mở rộng cơ hội phát triển, vực dậy các hoạt
động kinh tế ở khu vực trung tâm và bảo vệ môi
trường, cảnh quan đô thị, ...; đây cũng được coi
là cột mốc quan trọng trong q trình phát triển
đơ thị của Seoul, từ phát triển nhanh sang phát
triển bền vững. Đa số người dân phần lớn ủng hộ

dự án này với hy vọng vấn đề môi trường và
cảnh quan đơ thị sẽ được giải quyết, trong khi
phần cịn lại phản đối với lý do e ngại về vấn đề
giao thơng khi khơng cịn đường cao tốc trên cao,
chi phí cao và các bất tiện trong các hoạt động
sinh hoạt, kinh doanh trong quá trình thực hiện
dự án (tham khảo Bảng 1 và Bảng 2).

Hình 1. Vị trí của Cheonggyecheon tại Khu trung tâm của Seoul – nguồn: Lee & Anderson (2013)

144


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

Sau khi xem xét các yếu tố chính trị một cách thận trọng và thực hiện các nghiên cứu đa lĩnh vực,
SMG chính thức triển khai xây dựng CRP từ năm 2003 với các bước được mơ tả trong Hình 2.

Hình 2. Ý tưởng thiết kế và các bước xây dựng của CRP – nguồn: Keun (2006)

(a)

(b)

(c)

Hình 3. (a) Trước khi thực hiện CRP; (b) Trong q trình triển khai CRP; (c) Hồn thành CRP –
nguồn: truy cập ngày 04/08/2016.


145


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

Bảng 1. Thái độ của người dân đối với CRP – nguồn: SMG (2005:24)
Ủng hộ

Phản đối

Hoàn tồn
đồng ý

Đồng ý

Tổng cộng

Hồn tồn
khơng đồng ý

Khơng đồng ý

Tổng cộng

146 (29.2%)

227 (45.4%)

373 (74.6%)


88 (17.6%)

29 (5.8%)

117 (23.4%)

Bảng 1. Nguyên nhân dẫn đến thái độ của người dân về CRP – nguồn: SMG (2005:24)
Ủng hộ

Phản đối

Môi trường và mỹ quan

233 (46.6%) Liên quan đến giao thông

147 (29.3%)

Cải thiện ô nhiễm nước

141 (28.2%) Chi phí cao

147 (29.3%)

Khơi phục cảnh quan cũ

75 (15.0%) Các bất tiện trong quá trình cải tạo

141 (28.2%)


Việc triển khai CRP sẽ khó trở thành hiện thực nếu khơng có mạng lưới tam giác quản trị được
liên kết chặt chẽ và thống nhất (Seo & Chung, 2012), bao gồm ba thành phần:
Thành phần thứ nhất là Ban quản lý Dự án Khôi phục Kênh Cheonggyecheon
(Cheonggyecheon Restoration Project Headquarters – CRPH). Đây là nguồn lực chính thực hiện dự
án, bao gồm 28 quan chức và 15 trợ lý hành chính có năng lực từ các bộ phận khách nhau của SMG.
Thành phần thứ hai là Công ty tư vấn Nghiên cứu khôi phục Kênh Cheonggyecheon
(Cheonggyecheon Restoration Research Corporation – CRRC) quy tụ nhiều nhà nghiên cứu và
chuyên gia, chủ yếu đến từ Viện Phát triển Seoul 2 (Seoul Development Institute - SDI) thuộc các lĩnh
vực quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện dự án: kiến trúc, sinh thái, thủy văn, quy hoạch đô
thị, kỹ thuật xây dựng, kinh tế, xã hội học và hành chính cơng. CRRC khơng chỉ xây dựng các bản
quy hoạch tổng thể, mà còn nghiên cứu cân nhắc tính hiệu quả của dự án, tính tốn chi phí lợi ích, các
rủi ro tiềm ẩn (kể cả nguy cơ xung đột lợi ích liên quan đến người dân, doanh nghiệp).
Thành phần cuối cùng là Ban đại diện nhân dân về Khôi phục Kênh Cheonggyecheon
(Cheonggyecheon Restoration Citizen’s Committee – CRCC). Tổ chức này đóng vai trị quan trọng
trong việc thúc đẩy sự trao đổi ý tưởng và giữ nhiệm vụ liên kết giữa người dân với chính quyền. Ban
đại diện có 127 thành viên, được chia thành 6 tiểu ban. Mỗi tiểu ban tập trung vào một lĩnh vực cụ
thể: lịch sử - văn hóa, mơi
trường tự nhiên, an tồn
xây dựng, giao thơng, quy
hoạch đơ thị, và quan hệ
công chúng. Tiểu ban
quan hệ công chúng sẽ
giải quyết các mâu thuẫn
liên quan đến dự án bằng
cách giám sát và xử lý các
vấn đề liên quan đến dư
luận xã hội.
Hình 4. Mạng lưới tam
giác quản trị của CRP
(Seo & Chung, 2012)


2

146

Là tiền thân của Viện Seoul


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

3. THẢO LUẬN
Thành công của CRP
CRP đã đạt được những thành tựu chính như sau:
Thứ nhất, CRP đã giúp lưu thơng trong
khu vực thơng thống hơn, dù diện tích dành cho
giao thơng bị cắt giảm. Thực tế cho thấy, khi
CRP đi vào hoạt động, lưu lượng phương tiện cá
nhân vào khu trung tâm giảm rõ rệt (giảm 2,3%)
(Youl & David, 2013). CRP cũng đã giúp tăng số
người sử dụng các phương tiện giao thông công
cộng: năng suất hoạt động của xe buýt và tàu
điện ngầm tăng lên lần lượt là 1,4% và 4,3%,
trung bình 430.000 người tham gia sử dụng
phương tiện công cộng mỗi ngày (Cevero &
Kang, 2011).
Thứ hai, CRP đã giúp tái sinh lại môi
trường cho khu vực Cheonggyecheon vốn trước
đây bị ô nhiễm trầm trọng. Việc giảm phương
tiện giao thông cá nhân đã tác động tích cực đến

chất lượng khơng khí của khu vực. Theo kết quả
ghi nhận tại 5 điểm khảo sát khác nhau trong khu
vực lân cận, các tác nhân gây ô nhiễm khơng khí
đã giảm đáng kể. Bên cạnh đó, nhiệt độ trung
bình của khu vực cũng thấp hơn; trước khi thực
hiện dự án, nhiệt độ trung bình của khu vực
Cheonggyecheon thường cao hơn khoảng 5°C so
với nhiệt độ trung bình của Seoul (SMG, 2005).
Việc đối lưu khơng khí tự nhiên và mật độ giao
thơng được cải thiện đã góp phần làm tăng tốc độ
gió trong khu vực (từ 2,2% lên 7,8%), điều này
đã góp phần làm giảm nhiệt độ trung bình tại khu
vực từ 30,0°C xuống cịn 26,6°C, tạo cho khu
vực một môi trường sống dễ chịu và lành mạnh.
Thứ ba, CRP là một trường hợp thành
cơng điển hình khi áp dụng mơ hình “Mạng lưới
tam giác quản trị” trong việc cải tạo và nâng cấp
đô thị của Seoul. Mô hình này khuyến khích sự
tham gia và hỗ trợ của các thành phần xã hội
nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo tiến độ và sự
linh hoạt cho dự án; về thực chất, đây là một mơ
hình đối tác cơng - tư. Trong mơ hình này, các
thành phần đã liên kết chặt chẽ và thống nhất với
nhau tạo sự thành công cho CRP; cụ thể:
- CRPH đóng vai trị cánh tay thực hiện chính;
- CRRC phục vụ như một bộ não;
- CRCC là “tai” và “mắt” để quan sát và nhìn
nhận vấn đề liên quan đến cộng đồng dân cư
và các tiểu thương.


chứng cho sự thành cơng mơ hình dự án phát
triển đô thị nhân văn, lấy cộng đồng dân cư làm
trung tâm. Cộng đồng dân cư và tiểu thương địa
phương đã tham gia tích cực vào q trình lập dự
án. Tuy trong giai đoạn chuẩn bị dự án, có những
nghi ngờ về tính khả thi và hiệu quả của CRP,
tuy nhiên, sau dự án hoàn thành và đi vào hoạt
động, kênh Cheonggyecheon đã được nhìn nhận
là niềm tự hào và biểu tượng mới của Seoul.
Thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng, câu chuyện về CRP đã đến gần hơn với
cơng chúng, nhờ đó, người dân có thể hiểu được
vai trò của CRP đối với cuộc sống của họ, và
quan trọng hơn, người dân tin tưởng hơn vào
SMG và tự tin rằng, chính bản thân họ, bằng
những suy nghĩ đổi mới và tiến bộ thay thế lối tư
duy theo nếp cũ, có thể xây dựng Seoul trở thành
một đơ thị nhân văn.
Câu chuyện về CRP đã được đăng tải trên
nhiều phương tiện truyền thông nổi tiếng trên thế
giới (The International Herald Tribune, The
Asian Wall Street Journal, BBC News, The
Financial Times, CNBC, Asahi Shimbun, The
Sankei, The Yomiuri…) và đạt một số giải
thưởng quốc tế có uy tín (của Biennale di
Venezia và Tổ chức Y tế Thế giới). Sự thành
công của CRP đã kích thích việc triển khai các
dự án phát triển đơ thị khác của Seoul: hình
thành các tuyến phố đi bộ mới, định hướng
thương mại mật độ cao kết hợp phát triển giao

thông công cộng, tháo dỡ các tuyến đường cao
tốc không hiệu quả, triển khai nghiên cứu khôi
phục những dịng kênh khác tại Seoul… Hơn thế
nữa, có hơn 11 thành phố khác của Hàn Quốc
cũng học tập mơ hình CRP và đang xem xét triển
khai những dự án phát triển đô thị tương tự.

Thứ tư, thành tựu lớn nhất mà CRP đạt
được không chỉ là sự cải thiện điều kiện giao
thông và môi trường, mà là cách CRP đã minh

147


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

Hạn chế của CRP
Bên cạnh những thành cơng, CRP cũng có
những hạn chế diễn ra trong các giai đoạn tiền dự
án, giai đoạn triển khai dự án và giai đoạn đi vào
hoạt động (Lee & Anderson, 2013), bao gồm:
- Tồn tại sự đối lập giữa chính quyền với
các tiểu thương địa phương, các tổ chức môi
trường;
- Tồn tại nghi vấn về vai trị thực chất và
tính dân chủ trong hoạt động của CRCC.
Liên quan đến hạn chế thứ nhất, sự phản
đối của dự án chủ yếu đến từ các tiểu thương
kinh doanh tại khu vực lân cận do sự di dời cơ sở

kinh doanh cùng với nguy cơ ảnh hưởng đến việc
kinh doanh. Kết quả khảo sát trên 3.265 hộ kinh
doanh, tiểu thương, doanh nghiệp cho thấy có
95,75% số người được hỏi ý kiến đã phản đối
CRP. Trong đó, Hiệp hội Bảo vệ khu vực kinh
doanh
Cheonggyecheon
(Cheonggyecheon
Business Area Defenders United - CBADU) và
Hiệp hội Cửa hàng quần áo (The Clothes Stores
Association - CSA) là hai nhóm có sự phản
kháng mạnh nhất. Các nhóm phản đối yêu cầu
được bồi thường trực tiếp; ngoài ra, họ cũng yêu
cầu được nói chuyện trực tiếp với Thị trưởng, tập
hợp các kiến nghị gửi đến Hội đồng thành phố,
các đảng chính trị, các phương tiện truyền thông
đại chúng. Đây được xem là một thách thức lớn
trong quá trình đàm phán để triển khia thực hiện
CRP.
Bên cạnh đó, các quan điểm phản đối cịn
đến từ các tổ chức mơi trường. Theo các nhà bảo
vệ môi trường, dự án CRP như một sự xung đột
giữa quản lý mơi trường và hệ sinh thái, vì việc
triển khai dự án sẽ làm cho môi trường không
được nguyên vẹn thay vì là hệ sinh thái tự nhiên
như trước, làm phát sinh các khoản kinh phí bảo
trì đáng kể.
Điểm hạn chế thứ hai liên quan đến sự nghi ngờ
về vai trị thực chất và tính dân chủ trong hoạt
động của CRCC. Trên thực tế, như đã nêu,

CRCC đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy các cuộc họp giữa SMG với các bên liên
quan. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự nghi ngờ
trên:
- Một số thành viên của CRCC từ chức sau
đưa ra đề xuất (được cho là có thể gây trì hỗn
dự án) và các đề xuất này bị bác bỏ; điều này tạo
ra sự nghi ngờ về việc CRCC bị kiểm sốt và
khơng có tiếng nói phản biện.

148

- Các cư dân địa phương, các tiểu thương,
các tổ chức phi chính phủ liên quan khơng có vị
trí trong CRCC; do đó, câu hỏi về giá trị dân chủ
của CRCC được đặt ra và nhiều ý kiến cho rằng,
CRCC này không thực sự đại diện cho người
dân.
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống
kênh rạch nội thành dày đặc, có tính kết nối; hệ
thống kênh rạch này đóng vai trị quan trọng về
giao thông, môi trường, cảnh quan xuyên suốt
các giai đoạn lịch sử của đơ thị Sài Gịn – Chợ
Lớn – Gia Định. Gần đây, trong q trình phát
triển đơ thị, nhiều kênh rạch đã bị san lấp để
nhường chỗ cho các dự án phát triển đô thị, đặc
biệt là ở các quận nội thành phát triển (Quận 2,
Quận 4, Quận 7, Quận 9, Quận Thủ Đức, …).
Việc san lấp kênh rạch có những tác động tiêu

cực:
- Chức năng thốt nước của kênh rạch
không được hệ thống cống hộp thay thế một cách
tương xứng;
- Chức năng chứa nước tạm thời của kênh
rạch khi có mưa lớn hoặc triều cường mất đi;
- Chức năng tạo cảnh quan, mơi trường và
điều tiết vi khí hậu của kênh rạch cũng khơng
cịn nữa.
Trong thời gian gần đây, Thành phố Hồ
Chí Minh đã phải hứng chịu hậu quả của việc san
lấp kênh rạch, đó là tình trạng ngập lụt, ô nhiễm
môi trường, chất lượng sống kém, giảm tính hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư – nhất là trong lĩnh
vực bất động sản, … Vì vậy, việc tổ chức không
gian cảnh quan dọc kênh rạch nội thành là một
giải pháp quan trọng trong định hướng phát triển
đô thị bền vững của Thành phố Hồ Chí Minh.
Thơng qua việc phân tích về trường hợp
CRP, có thể rút ra các bài học có tính tham khảo
phục vụ cho cơng tác quản lý phát triển đô thị
của Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
- Một là, CRP là dự án có tính biểu tượng,
mang thơng điệp của chính quyền về sự thay đổi
định hướng phát triển đô thị, từ phát triển nhanh
sang phát triển bền vững; thể hiện tầm vai trị và
quan trọng của các nhà lãnh đạo chính trị trong
việc nâng cao chất lượng sống đô thị.
- Hai là, “mạng lưới tam giác quản trị” của
CRP, bao gồm đại diện chính quyền (CRPH),

doanh nghiệp (CRRC), đại diện người dân


Quy hoạch và phát triển kè bờ sơng Sài Gịn và sơng, kênh nội thành và các giải pháp
để hồn thành cơ bản kè sơng Sài Gịn, sơng và kênh nội thành vào năm 2025

(CRCC) đã tạo sự đồng thuận và hỗ trợ từ các
thành phần xã hội, mang lại hiệu quả khi triển
khai các dự án phát triển đô thị có quy mơ lớn và
liên quan đến nhiều thành phần xã hội.

Tài Liệu Tham Khảo

- Ba là, sự thành công của CRP đã minh
chứng rằng, phát triển đô thị bền vững, bên cạnh
việc mang lại những hiệu quả về môi trường và
xã hội, đã tạo ra giá trị gia tăng cho thị trường
bất động sản, kích thích các hoạt động thương
mại, dịch vụ, du lịch; có nghĩa là, phát triển đô
thị bền vững không mâu thuẫn và cản trở tăng
trưởng kinh tế.

2. Cervero R. & Kang C. D., 2011. Bus Rapid
Transit Impacts on Land Uses and Land Values in
Seoul, Korea, Transport Policy, 18(1), 102-116.

Hy vọng rằng, bài học từ trường hợp CRP
sẽ tạo cảm hứng, động lực và niềm tin cho Thành
phố Hồ Chí Minh trong việc tổ chức không gian
cảnh quan dọc kênh rạch nội thành, hướng tới

phát triển đô thị bền vững./.

1. Mariarinaldi B., 2007. Landscapes of Metropolitan
Hedonism The Cheonggyecheon Linear Park in
Seoul, Journal of Landscape Architecture, 2(2), 60-73.

3. Gon H. S. & Ho H. J., 2008. Estimate of The Heat
Island and Building Cooling Load Changes Due to
The Restored Stream in Seoul, Korea, International
Journal of Urban Science, 12(2), 129-145.
4. Youl L. J. & David A. C., 2013. The Restored
Cheonggyecheon and The Quality of Life in Seoul,
Journal of Urban Technology, 20(5), 3-22.
5. Keun L. I., 2006. Cheong Gye Cheon Restoration
Project: A Revolution in Seoul. Available online at
/>LEEInKeun_Seoul_-_River_Project.pdf.
6. Wook S. J. & Soyoon C., 2012. Impact of
Entrepreneurship in The Public Sector: Cheonggye
Stream Restoration Project in The Seoul
Metropolitan, Asia Pacific Journal of Public
Administration, 34(1), 71-93.
7. Pham Tran Hai, 2015. Redirect Urban
Development in Ho Chi Minh City: Lessons Learnt
from Seoul City after
8. Korean War, paper presented at International
Conference on Modeling The Future of Ho Chi Minh
City Metropolitan Area organized in 25th September
2015 in Binh Duong Province, Viet Nam, 68-75.
9. Seoul Institute - SI, 2014. A Historic City’s
Downtown Plan, paper presented at International

Conference on Experience in Urban Planning and
Development of Ho Chi Minh City and Seoul City
organized in 28th March 2014, Ho Chi Minh City,
Vietnam.
10. Seoul Metropolitan Government - SMG, 2005.
The Cheonggyecheon White Paper for The Citizens.

149



×