Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Truyền thuyết vũ thành và lễ hội đền hả lục ngạn - bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




TRẦN DUY PHƯƠNG




TRUYỀN THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI
ĐỀN HẢ LỤC NGẠN - BẮC GIANG








LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN












THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




TRẦN DUY PHƯƠNG





TRUYỀN THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI
ĐỀN HẢ LỤC NGẠN - BẮC GIANG


Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.34





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ ANH TUẤN



THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC ẢNH

Ảnh 1. Sơ đồ khu di tích Đền Hả .................................................................. 111
Ảnh 2. Cổng Đền Hả ..................................................................................... 111
Ảnh 3. Toàn cảnh khu di tích Đền Hả ........................................................... 112
Ảnh 4. Đền Hả ............................................................................................... 112
Ảnh 5. Ban thờ trong đền Hả ........................................................................ 113
Ảnh 6. Ban thờ Vũ Thành (Thân Cảnh Phúc) ............................................... 113
Ảnh 7. Một trong 21 Sắc phong còn lưu giữ ............................................... 114
Ảnh 8. Bằng công nhân di tích lịch sử văn hoá Đền thờ Thân Cảnh Phúc... 114
Ảnh 9. GS. Phan Huy Lê và Đảng uỷ, UBND xã Hồng Giang, đại biểu hội
đồng thân tộc Việt Nam tại Đền Hả .................................................. 115
Ảnh 10. Nhân dân đến với lễ hội Đền Hả ..................................................... 115
Ảnh 11,12,13,14. Công tác chuẩn bị cho đoàn rước ............................ 116 - 117
Ảnh 15,16,17. Trên đường rước ra bãi Dược....................................... 118 - 119
Ảnh 18. Tế lễ tại bãi Dược ............................................................................ 119
Ảnh 19. Trò chơi dân gian ............................................................................ 120
Ảnh 20. Cây đa quán Hả ............................................................................... 120
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp thực
hiện cùng với sự cộng tác giúp đỡ của PGS. TS. Vũ Anh Tuấn và các đồng
nghiệp. Các số liệu, hình ảnh và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho
việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận
văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Trần Duy Phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi luôn
nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ
Anh Tuấn.
Sự giúp đỡ của các thầy cô khoa Sau Đại học, khoa Văn trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, Viện Văn học Việt Nam, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Sự giúp đỡ của Phòng Văn hoá và Thể dục Thể thao huyện Lục Ngạn,
Ban Quản lý di tích Đền Hả.
Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.
TS. Vũ Anh Tuấn cùng toàn thể các thầy cô trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Văn học Việt Nam, Phòng
Văn hoá và Thể dục Thể thao huyện Lục Ngạn, Ban Quản lý di tích Đền Hả
và các bạn đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.

Tác giả luận văn

Trần Duy Phương




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử của mỗi dân tộc luôn gắn liền với quá trình dựng nƣớc và
giữ nƣớc. Dân tộc Việt Nam trong dòng chảy 4000 năm đã từng đƣơng đầu
với bao thác ghềnh, chông gai bởi giặc ngoại xâm, bởi thiên tai địch hoạ để
rồi từ đó kết đọng lớp phù sa văn hoá với những nét tiêu biểu nhất đó là:
Truyền thống yêu nƣớc, tinh thần bất khuất với các tên tuổi còn lƣu danh và
trở thành bất tử. Để ghi nhớ công ơn của những vị anh hùng đã có công dựng
nƣớc và giữ nƣớc nhân dân ta không chỉ thêu dệt nên những truyền thuyết
mang nhiều yếu tố huyền thoại mà còn phong thần để thờ phụng, hàng năm
còn tổ chức lễ hội thể hiện lòng biết ơn đồng thời ôn lại truyền thống. Điều
này làm cho hình ảnh những anh hùng luôn toả sáng và sống mãi trong lòng
nhân dân qua bao thế hệ.
Do vậy, nghiên cứu truyền thuyết về ngƣời anh hùng chống giặc ngoại
xâm kết hợp với việc tìm hiểu lễ hội để tƣởng niệm họ là công việc vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc làm sáng tỏ hơn bản chất
của thể loại truyền thuyết trong văn học dân gian Việt Nam.
1.2. Vũ Thành - sinh ra và lớn lên trên quê hƣơng Lục Ngạn- Bắc
Giang. Giặc phƣơng Bắc xâm lƣợc, vốn có lòng yêu nƣớc, căm thù giặc sâu
sắc, Vũ Thành đã góp sức mình cùng dân tộc đánh giặc, lập lên những chiến
công vang dậy. Công lao và đức độ của ông đƣợc nhân dân ghi nhớ, truyền
tụng thể hiện qua việc lập ngôi đền với tên gọi là đền Hả ở xã Hồng Giang-
huyện Lục Ngạn- tỉnh Bắc Giang. Hàng năm, nhân dân tổ chức lễ hội để ghi
nhớ những chiến công cùng đức độ của ông, nhắc nhở các thế hệ con cháu
lòng biết ơn, tiếp nối truyền thống của cha ông. Câu chuyện về con ngƣời này

trong tiềm thức của nhân dân trở thành ngƣời anh hùng có công trong việc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc, đem lại cuộc sống yên
bình cho nhân dân, việc lập đền thờ cùng với tổ chức lễ hội khiến cho câu
chuyện đã trở thành truyền thuyết làm phong phú thêm tính địa phƣơng, về
ngƣời anh hùng, những nhân vật lịch sử trong kho tàng văn học dân gian của
tỉnh Bắc Giang nói riêng và kho tàng văn học dân gian của dân tộc Việt Nam
nói chung. Đi sâu vào tìm hiểu truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả sẽ
giúp ta thấy đƣợc ảnh hƣởng của con ngƣời này trong tiềm thức dân gian,
lòng ngƣỡng mộ của nhân dân với anh hùng dân tộc. Qua đó, góp thêm những
lý giải về nguồn cội của các yếu tố tạo nên cốt cách ngƣời anh hùng lịch sử
trong quan niệm theo kiểu tƣ duy dân gian.
1.3. Cơ cấu của xã hội Việt Nam cổ truyền là: Nhà - Làng - Nƣớc đã
kéo theo vai trò của địa phƣơng, dòng họ trong chiến tranh giữ nƣớc. Do vậy,
tầm quan trọng của truyền thuyết địa phƣơng là không thể phủ nhận. Tính đến
nay số lƣợng nghiên cứu, sƣu tầm truyền thuyết đã có khá nhiều và cũng có
những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mảng truyền thuyết địa phƣơng vẫn còn ít
đƣợc quan tâm. Trong tình hình chung ấy, truyền thuyết và lễ hội về Vũ
Thành ở Hồng Giang - Lục Ngạn - Bắc Giang cho đến nay vẫn chƣa có nhà
nghiên cứu nào có công trình khảo cứu một cách có hệ thống. Hơn nữa, bƣớc
vào thời kỳ hội nhập, con ngƣời Việt Nam lại chuẩn bị cho mình hành trang
vững chắc, đó là sự tiếp nối mạch nguồn văn hoá truyền thống của dân tộc. Đã
có thời kỳ, do những quan điểm lệch lạc, nhiều giá trị văn hoá cổ truyền của dân
tộc bị phá bỏ, nhiều công trình văn hoá bị đánh mất. Những năm gần đây Đảng
và Nhà nƣớc ta đã chú trọng khôi phục, phát triển những giá trị văn hoá ấy. Đặc
biệt, từ Đại hội Đảng VI ( từ 1986 đến nay) với tinh thần đổi mới, văn hoá đƣợc
nhìn nhận lại, nhiều đền đài, miếu mạo, chùa chiền...đƣợc phục chế, hội hè đƣợc
khôi phục và trong đó phải kể đến lễ hội đền Hả ở Lục Ngạn - Bắc Giang.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Theo đó, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có một hƣớng
nghiên cứu mới đƣợc triển khai, bƣớc đầu đã có những thành tựu đáng kể. Đó
là nghiên cứu thể loại truyền thuyết trong mối quan hệ với lễ hội ở nhiều địa
phƣơng, nhiều vùng văn hoá khác nhau trên phạm vi cả nƣớc. Hƣớng nghiên
cứu này vừa phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, vừa phù hợp với đặc điểm của
văn học dân gian dân tộc, một nền văn học mà truyền thuyết là thể loại đặc
biệt phong phú nhƣng còn ít đƣợc nghiên cứu.
Vì những điều trên, ngƣời viết với đề tài về truyền thuyết Vũ Thành và
lễ hội đền Hả mong muốn đƣợc góp sức mình vào việc bảo tồn và lƣu giữ bản
sắc dân tộc. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay khi lễ hội cổ truyền Việt Nam
đang ngày càng lôi cuốn nhiều tầng lớp nhân dân tham gia thì một vấn đề đặt
ra là: Cần tổ chức và tham gia lễ hội nhƣ thế nào cho đúng với ý nghĩa của
loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống này? Ta cần phải có một cái nhìn học
thuật để sao cho vừa có sự kế thừa, vừa phát triển mà vẫn giữ đƣợc bản sắc
văn hoá truyền thống của dân tộc. Tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội về ngƣời
anh hùng Vũ Thành giúp chúng ta thêm một lần nữa hiểu sâu về văn học dân
gian nói chung và truyền thuyết nói riêng của dân tộc, vừa là một hiện tƣợng
văn học vừa là một hiện tƣợng văn hoá.
Là một giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn văn học nói
chung trong đó có văn học dân gian, việc nghiên cứu về truyền thuyết Vũ
Thành cùng với lễ hội đền Hả là cơ hội để ngƣời viết tích luỹ kiến thức về kho
tàng truyền thuyết từ đó bồi đắp cho học sinh lòng tự hào về truyền thống quý
báu của dân tộc, khơi dạy trong các em ý thức về việc gìn giữ, bảo tồn và
phát huy văn hoá dân tộc .
Trên đây là tất cả những lý do khiến ngƣời viết chọn đề tài "Truyền
thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả - Lục Ngạn-Bắc Giang".
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
2.1. Lƣợc điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết
Truyền thuyết ở nƣớc ta đã có từ khá sớm (thế kỷ XIV, XV) tuy nhiên,
thuật ngữ truyền thuyết và việc giới thuyết truyền thuyết ra đời tƣơng đối
muộn, vào giữa thế kỷ XX.
Năm 1961, trong bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trƣờng
ĐHSP HN tác giả Đỗ Bình Trị thừa nhận truyền thuyết là một thể loại và đƣa
ra định nghĩa về truyền thuyết. "Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến
lịch sử mà lại có sự kỳ diệu - là lịch sử hoang đường" [71].
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học từ 1960-1965 có đăng tải cuộc
tranh luận sôi nổi về truyền thuyết Mị Châu-Trọng Thuỷ. Điều mà các tác
giả bàn đến ở đây là những vấn đề mà truyền thuyết này đã đặt ra và còn
nhiều tranh cãi.
Báo nhân dân số 549 ngày 29-4-1969 có đăng bài viết Nhân ngày giỗ
tổ Vua Hùng của cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng. Bài báo đã nêu ra vấn đề
mấu chốt của truyền thuyết là mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết.
Năm 1971, công trình Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình
tự sự dân gian Việt Nam Tập trung những bài nghiên cứu về truyền thuyết đã
xuất bản. Các tác giả Nguyễn Ngọc Côn, Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia
Khánh và Kiều Thu Hoạch đã có những đóng góp lớn trong đó đáng chú ý là
Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu
Hoạch. Ông đƣa ra định nghĩa và phân loại truyền thuyết, đồng thời đƣa ra
những cái nhìn tổng quát và những kiến giải sâu sắc về bản chất thể loại. Ông
nhận xét có thể nói lễ hội là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu được của
truyền thuyết anh hùng Việt nam... chính nhờ những lễ hội mà truyền thuyết
anh hùng có dịp được nhắc nhở và đi sâu vào ký ức của nhân dân [25, tr 220].
Năm 1973 trong bài Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết
và diễn xướng tín ngưỡng phong tục tác giả Nguyễn Khắc Xƣơng nêu lên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội. “thần thoại, truyền
thuyết lưu truyền bằng miệng trong dân gian đã được tái hiện cụ thể và sinh
động trước nhân dân qua nghệ thuật diễn xướng hỗn hợp [83, tr98].
Năm 1974 trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, tác
giả Cao Huy Đỉnh có chƣơng “ Dòng tự sự lịch sử với nền độc lập nước nhà
và những gương công đức tài tử An Dương Vương đến đầu Lê" [20] viết về
truyền thuyết. Mặc dù ông mới đi vào phân tích những tác phẩm cụ thể
nhƣng ngƣời đọc cũng tiếp thu đƣợc nhiều kiến thức quý báu về lý luận;
những gợi ý về diện mạo chung của thể loại này.
Trong bài viết Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người
Việt đăng trên tạp chí văn học số 2/1982, tác giả Bùi Quang Thanh cho rằng:
"Cũng từ miếng đất hội làng, tác giả góp phần thiết thực thức tỉnh niềm đam
mê mất nước, nỗi nhục nô lệ, ý thức về sự thống nhất như một lẽ sống còn, ý
thức thà chết chứ không cam chịu sống quì cho người Việt Nam trên các
chặng đường lịch sử" [61, tr68].
Đầu những năm 90, khi cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam
của Đại học Tổng hợp đƣợc viết lại, tác giả Lê Chí Quế đã dành một chƣơng
viết về truyền thuyết. Trong đó, tác giả đã vẽ lên bộ mặt của thể loại truyền
thuyết trên cái khung là định nghĩa, phân loại, phân tích dẫn chứng.
Năm1991, trong bài Bàn thêm về thể loại truyền thuyết tác giả
Chiêng Xom An điểm một loạt các định nghĩa trong sự phân tích có phê
phán, từ đó đƣa ra một quan niệm mới về truyền thuyết, coi truyền thuyết là
một tập hợp những truyện tích ngắn gọn để bổ sung , hỗ trợ cho thần thoại,
cổ tích nào đó [2].
Trong bài viết Nghiên cứu truyền thuyết- những vấn đề đặt ra , tác
giả Trần Thị An đã đƣa ra quan điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và
đƣa ra một số vấn đề cơ bản của thể loại đang đƣợc đặt ra và cần giải quyết


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
triệt để hơn nhƣ mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết, một vài vấn đề
thi pháp truyền thuyết, thẩm định lại tƣ liệu truyền thuyết [Tạp chí văn học,
7/1997, 1, tr 34].
Năm 1996, tác giả Lê Văn Kỳ trong Mối quan hệ giữa truyền thuyết
người Việt và lễ hội các anh hùng đã nêu lên định nghĩa hội, lễ, mối quan hệ
giữa hội lễ nhƣ hội lễ về Hai Bà Trƣng, Thánh Gióng...trong mối quan hệ với
truyền thuyết xung quanh những mặt này [48].
Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian của trƣờng Đại học sƣ phạm
Hà Nội dùng cho Đại học từ xa, các tác giả cũng dành một chƣơng viết về
truyền thuyết. Tác giả đã nêu lên một cách khá sâu sắc các vấn đề đặc trƣng,
nội dung-ý nghĩa và nghệ thuật của truyền thuyết. Từ những kiến thức này,
tác giả đƣa ra phƣơng pháp phân tích tác phẩm truyền thuyết, phân tích dựa
trên những mô típ cấu thành tác phẩm và phân tích gắn với nghi lễ, hội lễ.
Qua một số công trình nghiên cứu kể trên, chúng tôi rút ra một vài điểm
nhận xét nhƣ sau:
- Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều coi truyền thuyết là một thể loại
riêng của văn học dân gian. Trên cơ sở đó, đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề
đặc trƣng nội dung, đặc điểm thi pháp.
- Có hai hƣớng nghiên cứu: Thứ nhất, nghiên cứu trên và bằng văn
bản, thứ hai, nghiên cứu truyền thuyết gắn liền với diễn xƣớng của nó mà
cụ thể là lễ hội. Không thể phủ định những thành tựu của hƣớng nghiên
cứu thứ nhất bởi những đóng góp quan trọng đã đƣợc giới nghiên cứu thừa
nhận. Nhƣng rõ ràng hƣớng nghiên cứu thứ hai ngày càng chiếm ƣu thế
hơn vì ƣu điểm của nó trong tiếp cận truyền thuyết, tiếp cận từ đặc trƣng
nguyên hợp của văn học dân gian.
Truyền thuyết lịch sử về ngƣời anh hùng chống giặc ngoại xâm, anh
hùng văn hoá trên địa bàn tỉnh Bắc Giang rất phong phú. Tuy nhiên, việc sƣu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
tầm, biên soạn, giới thiệu nghiên cứu nó thì chƣa đƣợc tiến hành trên phạm vi
rộng. Có thể điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu:
Năm 2005, trong cuốn "Văn nghệ Bắc Giang" tập I, tác giả Nguyễn
Đình Bƣu đã chỉ ra một cách cụ thể, chân thực về số lƣợng các di tích gắn liền
với tên tuổi nhân vật lịch sử đƣợc tái tạo qua truyền thuyết. Đồng thời tác giả
cũng đi vào trình bày một cách chi tiết nội dung, giá trị của một số truyền
thuyết lịch sử tiêu biểu trên địa bàn tỉnh. Có thể nói, bài viết của tác giả
Nguyễn Đình Bƣu hết sức có giá trị với việc lƣu truyền, bảo tồn vốn truyền
thuyết Bắc Giang.
Ngoài ra, trong cuốn "Địa chí - Bắc Giang" (2005), các tác giả đã sƣu
tầm đƣợc 10 truyền thuyết điển hình của quê hƣơng nhƣ: Truyền thuyết Cao
Sơn- Quý Minh, truyền thuyết Hùng Linh, truyền thuyết Thân Cảnh Phúc.
2.2. Lịch sử sƣu tầm, nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về Vũ Thành
Trong cuốn Hội Từ Hả do UBND huyện Lục Ngạn biên soạn và xuất
bản (1985) các tác giả đã trình bày ba nội dung chính: Thần tích Vũ Thành, đền
Hả và một số di tích về Vũ Thành, Hội đền Hả. Về nhân vật Vũ Thành, cuốn
sách đã chỉ rõ. “Ông sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Lục Ngạn” [64, tr13] là con
trai của tả bộc xạ Vũ Tỉnh và Thái trƣởng công chúa triều Lý Huệ Tông - Lý
Thị Cảnh. Bƣớc vào tuổi 17, 18 đất nƣớc ta bị quân Nguyên Mông xâm lƣợc
lần thứ nhất. Vũ Thành xin vua Trần đi đầu quân dẹp giặc, trải qua 10 trận
đánh, ông đã lập lên nhiều chiến công vang dội, nhất là những trận phía sau
lƣng địch. Nhƣ vậy, theo cuốn sách, nhân vật lịch sử Vũ Thành sống vào thời
Lý - Trần. Cùng với thần tích Vũ Thành, cuốn sách đã trình bày khá chi tiết
và kỹ lƣỡng về di tích lịch sử đền Hả, nơi thờ Đức Thánh Vũ Thành và những
đặc điểm về lễ hội Đền Hả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Cuốn Lý lịch di tích đền Hả - Bảo tàng Hà Bắc-1990 tập trung đề cập
đến di tích đền Hả, nơi thờ đức thánh Vũ Thành trên các phƣơng diện, tên gọi,
đƣờng đi đến và sự phân bố di tích, sự kiện lịch sử và ngƣời đƣợc thờ ở đền,
loại hình di tích và các nhân vật, tài liệu trong di tích đền Hả. Qua đó tác giả
cuốn sách đề ra phƣơng án bảo vệ và sử dụng di tích. Trong cuốn sách này tác
giả đã đƣa ra một nhận định rất quan trọng: Vũ Thành ngƣời đƣợc thờ trong
di tích thực chất là Thân Cảnh Phúc. Phát hiện trên có ý nghĩa rất lớn trong
việc tìm hiểu về con ngƣời và cuộc đời cũng nhƣ ý nghĩa của di tích.
Cuốn Di tích Bắc Giang - Nguyễn Xuân Cần- ĐH SPHN, 2001 giới
thiệu khái quát về di tích đền Hả từ địa lý, lịch sử, ngƣời đƣợc thờ... theo tác
giả, di tích đƣợc xây dựng từ thời Lý - Trần, ngôi đền thờ tƣớng công Vũ
Thành cùng 6 nhân vật.
+ Thành phụ: Thần thân tƣớng quốc vƣơng thái truyền tả bộc xạ Vũ
Tỉnh.
+ Thánh mẫu: Quốc mẫu Thiên Thành, Thái Đƣờng, Thái trƣởng Lý
Thị Cảnh.
+ Thánh di: Thuỵ thiên công chúa, Bình Dƣơng công chúa, Yên Hoa
công chúa.
+ Thánh phi: Giáp Thị Tuấn [11, tr34].
- Trong bài viết Bảo tồn di sản văn hoá lễ hội ở Bắc Giang của Tiến
sỹ Bùi Văn Thành (Trích trong cuốn văn hoá Bắc Giang, 2002), tác giả mới
chỉ giới thiệu sơ lƣợc về lễ hội đền Hả (Hồng Giang-Lục Ngạn - Bắc Giang)
với những nghi thức trong phần lễ và phần hội. Bài viết thiên về góc độ văn
hoá của di tích nhiều hơn là xét về lịch sử. Qua đó đóng góp tiếng nói vào
việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc [62].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Ngoài ra trong Lễ hội Bắc Giang - Sở VHTT Bắc Giang, 2002. Các

tác giả đã trình bày khá chi tiết về lễ hội đền Hả, từ thời gian tổ chức đến các
thành phần tham gia [73].
Trong cuốn Văn nghệ dân gian Bắc Giang - Hội VHNT Bắc Giang (2005)
có bài viết Truyền thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Đình Bƣu. Tác giả giới
thiệu khái quát về mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử Vũ Thành và lễ hội Đền
Hả. Theo tác giả, Vũ Thành là một vị tƣớng nhà Lý đã có công dẹp giặc
Phƣơng Bắc (giặc Tống). Ngoài ra, qua sự thất trận của Vũ Thành, tác giả đã
đề cập đến tinh thần dân tộc " truyền thống nêu cao tinh thần chiến đấu và
chiến công của Vũ Thành bằng cách lý giải vì sao Vũ Thành thua trận và chỉ
khi nào mới chịu chết. Dường như các tác giả dân gian muốn lý giải mối
quan hệ giữa việc nhà, việc nước " [9, tr20]. Nhƣ vậy, trong bài viết, tác giả
Nguyễn Đình Bƣu cũng đã tiếp cận vấn đề trên góc độ soi chiếu của văn học
dân gian.
Nhƣ vậy vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Vũ Thành (tức Thân Cảnh
Phúc) và mối quan hệ giữa các truyền thuyết với lễ hội đền Hả là chƣa từng
đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Đề tài này sẽ phát triển kết quả của các
công trình nghiên cứu trƣớc đó và mở rộng thêm tầm giá trị của truyền thuyết.
3. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Mục đích chính là thực hành khoa học, vận dụng lý thuyết chuyên
ngành vào nghiên cứu một trƣờng hợp cụ thể, củng cố, nâng cao kiến thức và
phƣơng pháp nghiên cứu.
Khảo tả lễ hội từ điểm nhìn truyền thuyết để làm sáng tỏ mối quan hệ
truyền thuyết và lễ hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Luận văn đƣa ra cái nhìn toàn diện về nhân vật từ góc độ văn học dân
gian, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội này.
Qua đó, đƣa ra một căn cứ bổ sung để cho chính quyền cũng nhƣ nhân dân

trong vùng thấy đƣợc giá trị của di tích từ đó có biện pháp bảo tồn và phát
triển những nét đẹp văn hoá của quê hƣơng.
3.2. Nhiệm vụ
Giới thiệu khái quát vùng đất Bắc Giang, truyền thuyết về Vũ Thành
trên quê hƣơng Bắc Giang. Trên cơ sở đó khẳng định Bắc Giang là một vùng
văn hoá lịch sử còn lƣu giữ dấu ấn tên tuổi ngƣời anh hùng Vũ Thành.
Thu thập tƣ liệu, tạo dựng một cách có hệ thống truyền thuyết Vũ
Thành, khảo sát đặc điểm, nội dung và các mô tip cơ bản của hệ thống truyền
thuyết đó.
Mô tả chi tiết, cụ thể lễ hội đền Hả để chỉ ra mối quan hệ giữa truyền
thuyết và lễ hội cũng nhƣ nét riêng của lễ hội này.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Là các truyền thuyết xoay quanh cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của
nhân vật lịch sử Vũ Thành, do đặc điểm của truyền thuyết về ngƣời anh hùng
chống xâm lƣợc là thƣờng gắn liền với các mùa và nghi lễ tế thần ở đình,
đền, miếu... Nên ngƣời viết đồng thời khảo tả lễ hội ở đền Hả (Hồng Giang -
Lục Ngạn - Bắc Giang) trong mối quan hệ với thần tích Vũ Thành. Cụ thể là
khảo sát một hệ thống tƣ liệu nhƣ sau:
+ Hội Từ Hả
+ Lý lịch di tích đền Hả
+ Lễ hội Bắc Giang
+ Những tài liệu ghi chép về văn hoá, văn học và lịch sử qua điền dã.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu, phân tích, đánh giá các giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ của
những truyền thuyết về Vũ Thành dƣới góc độ khoa học văn học dân gian trên
hai phƣơng diện: Giá trị tƣ tƣởng qua nội dung phản ánh và ý thức nghệ thuật

qua các mô típ cơ bản. Đồng thời, để làm đƣợc điều này, theo đặc trƣng thể
loại truyền thuyết luận văn khảo tả chi tiết lễ hội tƣởng niệm Vũ Thành ở đền
Hả xã Hồng Giang - Lục Ngạn - Bắc Giang.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng
pháp để triển khai các vấn đề nhƣ sau.
5.1. Phƣơng pháp thống kê
+ Dùng để tập hợp các bản kể Truyền thuyết Vũ Thành.
+ Xác định số lƣợng các mô típ, các tình tiết của cốt truyện để rút ra
nhận xét thông qua những con số cụ thể.
5.2. Phƣơng pháp điền dã
+ Trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với các cụ già thƣờng xuyên đến lễ ở đền.
+ Đến xóm làng, khu phố để tìm hiểu qua các cụ cao niên
+ Trực tiếp dự lễ hội để có thể tƣờng trình, mô tả diễn biến, những nét
riêng của lễ hội Vũ Thành ở đền Hả.
5.3. Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống
Xem xét truyền thuyết Vũ Thành là một hệ thống các bản kể.
+ Đặt các bản kể trong sự đối sánh với nhau và cả hệ thống văn hoá dân
gian Lục Ngạn, giải quyết vấn đề theo một cái nhìn lịch sử (từ Vũ Thành đến
Thân Cảnh Phúc).
5.4. Phƣơng pháp so sánh loại hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
+ Thông qua sự phân tích cấu trúc của các bản kể, chúng tôi so sánh từng
đơn vị bản kể để tìm ra các mô tip khác nhau. Từ đó chúng tôi sẽ tìm hiểu ý
nghĩa từng mô típ.
5.5. Phƣơng pháp liên ngành
Do văn hoá dân gian nói chung truyền thuyết nói riêng có đặc trƣng là
tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi tiến hành đề tài này

chúng tôi phải vận dụng các phƣơng pháp thuộc các lĩnh vực lịch sử, dân tộc,
tôn giáo, tín ngƣỡng để có thể lý giải một số vấn đề liên quan đến đề tài.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu các vấn
đề chính của truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả một cách khá toàn diện
trên phƣơng diện một thể loại văn học dân gian.
Đặc điểm nội dung và mô típ kết cấu của truyền thuyết Vũ Thành đƣợc
kiến giải và đánh giá trên cơ sở những tiến bộ khoa học nghiên cứu văn học
dân gian hiện nay.
Lễ hội tƣởng niệm thƣợng tƣớng công Vũ Thành ở đền Hả đƣợc khảo
tả chi tiết, cụ thể: phần lễ, phần hội, qua đó thấy đƣợc mối quan hệ giữa
truyền thuyết và lễ hội.
Trên cơ sở kế thừa các tài liệu đã nghiên cứu về nhân vật lịch sử Vũ
Thành và lễ hội đền Hả, luận văn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lƣu và
phát triển vốn văn học dân gian của quê hƣơng nói riêng và dân tộc nói
chung.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc trình
bày trong 3 chƣơng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Chƣơng 1: Văn hoá dân gian Lục Ngạn - cái nôi của truyền thuyết Vũ
Thành và lễ hội đền Hả.
Chƣơng 2: Truyền thuyết Vũ Thành ở Lục Ngạn - Bắc Giang.
Chƣơng 3: Lễ hội đền Hả ở Lục Ngạn - Bắc Giang.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng I
VĂN HOÁ DÂN GIAN LỤC NGẠN - CÁI NÔI CỦA TRUYỀN
THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ
1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ LỤC NGẠN - BẮC GIANG
1.1. Quan niệm về vùng văn hoá
Vùng văn hoá là hiện tƣợng xã hội - lịch sử đƣợc các nhà văn hoá học
nghiên cứu và phân định. Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của
mỗi nền văn hoá của một quốc gia hay một cộng đồng dân tộc, thƣờng đƣợc
hợp thành bởi các vùng văn hoá với những đặc trƣng, sắc thái riêng làm thành
tính thống nhất và đa dạng của các nền văn hoá.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa vùng miền, Kết quả nghiên cứu
của các nhà lịch sử và văn hoá học Việt Nam đã phân chia nƣớc ta có khoảng
từ 6 đến 9 vùng văn hoá, với những đặc trƣng và sắc thái riêng, làm thành tính
thống nhất, đa dạng và phong phú của văn hoá Việt Nam. Trong các vùng văn
hoá lại phân chia thành các tiểu vùng. Nhƣ vậy, việc phân vùng văn hoá
không căn cứ và tuỳ thuộc vào đơn vị hành chính hiện tại, mà căn cứ vào quá
trình hình thành các vùng không gian văn hoá do những đặc điểm địa lý và
điều kiện lịch sử xã hội cụ thể của mỗi vùng đã hình thành nên các vùng văn
hoá với những đặc trƣng và sắc thái riêng đƣợc phản ánh ở các lĩnh vực văn

hoá vật thể và phi vật thể. Hay nói nhƣ phó giáo sƣ - tiến sĩ Hoàng Nam; "Tự
nhiên và con người hoà đồng, kết thành một thể thống nhất, dù là thống nhất
tương đối, tạo thành các vùng văn hoá" [28, tr 59].
Cùng với Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ.
Đây là vùng văn hoá đặc sắc và độc đáo của Việt Nam. Tiếp đến, hai vùng đất
này, hợp thành một tiểu vùng văn hoá đƣợc gọi bằng các khái niệm văn hoá
Kinh Bắc, văn hoá xứ Bắc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Vị thế và đặc điểm lịch sử xã hội đặc biệt đó đã khiến xứ Bắc - Kinh
Bắc trở thành một trong những vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến Việt cổ,
sớm tạo nhân cách Việt Nam, với những sắc thái, đặc trƣng riêng, phản ánh
trong truyền thống của con ngƣời vùng Kinh Bắc.Ở đây tinh thần đoàn kết
cộng đồng đƣợc hình thành sớm và bền chặt, sớm có lòng yêu nƣớc và tinh
thần cách mạng, tính cần cù, năng động, truyền thống hiếu học và khoa bảng,
lòng say mê và sáng tạo trong các hoạt động văn hoá nghệ thuật, tinh thần
nhân ái và tình nghĩa trong ứng xử "tứ hải giao tình"; "tình chung một khắc,
nghĩa dài trăm năm”.
Trong không gian văn hoá vùng Kinh Bắc, Bắc Giang có những đặc
trƣng riêng độc đáo, quyến rũ. Tìm hiểu về truyền thuyết Vũ Thành và lễ
hội đền Hả không thể bỏ qua sự so sánh, đối chiếu với những đặc điểm của
văn hoá Bắc Giang. Bởi một lẽ, truyền thuyết Vũ Thành vừa là sản phẩm
của quá trình sáng tạo văn hoá vùng Kinh Bắc, vừa là sự kết tinh cho nét
đẹp về đời sống tâm hồn của nhân dân Lục Ngạn nói riêng, nhân dân tỉnh
Bắc Giang nói chung.
1.2. Lục Ngạn - Bắc Giang - vùng văn hoá dân gian đặc sắc, cái nôi của
truyền thuyết Vũ Thành
Là ngƣời con của mảnh đất Lục Ngạn - Bắc Giang, Vũ Thành đã hội tụ
trong mình khí thiêng sông núi quê hƣơng. Sự toả sáng của ông trong lịch sử

dân tộc cũng chính là sự thăng hoa của văn hoá vùng Bắc Giang. Làm nên nét
đặc trƣng cho văn hoá nơi đây trƣớc hết phải kể đến yếu tố tạo nên điều kiện
tự nhiên.
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Bắc Giang là vùng đất phía Đông Bắc của Kinh Bắc, tiếp giáp với xứ
Lạng, vừa có đồng bằng, đồi gò và núi rừng xen lẫn, khe động hiểm trở. Nhƣ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
học giả Phan Huy Chú từng đánh giá" Phong cảnh thì phủ Bắc Hà, phủ Lạng
Giang đẹp hơn"[18, tr44].
Và khi Nguyễn Trãi ghi "Kinh Bắc là Trấn thứ tư trong bốn kinh trấn
và là đứng đầu phên dậu phía Bắc" [18, tr44] thì thực chất là đánh giá vai trò
phên dậu trƣớc hết thuộc địa phận Bắc Giang hiện nay, nơi diễn ra các trận
đánh của nhân dân ta trƣớc các thế lực xâm lƣợc phƣơng Bắc và thổ phỉ thời
cận hiện đại.
Lục Ngạn là một huyện miền núi của Bắc Giang vì thế điều kiện tự
nhiên ở đây mang những đặc điểm của địa lý cảnh quan Bắc Giang.
Lục Ngạn là một huyện miền núi có diện tích tự nhiên là 1.011km
2
, dân
số hơn 20 vạn ngƣời, với 8 thành phần dân tộc chủ yếu là: Kinh, Nùng, Tày,
Cao Lan, Sán Chí, Sán Dìu, Hoa và Dao sinh sống đan xen trong các làng
bản, tạo nên sự giao thoa văn hóa đặc sắc mà ít nơi nào có đƣợc.
Vùng đất Lục Ngạn xƣa có con đƣờng chiến lƣợc từ đệ tứ chiến khu
chạy qua xã Quý Sơn đến Đồng Giao, sang Mịn Con, Sây To, Hồ Sen đi qua
Kiên Lao đến Đông Triều - Quảng Ninh nơi có dòng sông Lục chạy qua tạo
điều kiện cho việc phát triển kinh tế văn hoá của cả vùng.
Huyện Lục Ngạn cũng là vùng đất có nhiều danh lam thắng cảnh có
thể tạo nên những điểm tham quan du lịch hấp dẫn cho những ai muốn tìm

hiểu về ngọn nguồn lịch sử. Đó là cửa Nội Bàng, ải Xa Lý với các di tích và
danh lam thắng cảnh đẹp nhƣ đền Hả, hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần và Núi
Am Vãi - nơi in dấu bàn chân Phật.
Núi Am Vãi (còn gọi núi Am Ni, núi Quan Âm) thuộc địa phận các xã
Nam Dƣơng, Tân Mộc, Tân Lập, Nghĩa Hồ huyện Lục Ngạn, nằm ở bên trái
bờ sông Lục Nam, thuộc sơn phận Yên Tử. Trên núi có nhiều ngọn nối tiếp
nhau, cao nhất là ngọn chùa Am Ni ở địa phận ba xã: Nam Dƣơng, Tân Lập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
và Nghĩa Hồ. Thế núi đồ sộ, hoành tráng. Mạch từ dãy Yên Tử kéo về nổi cao
giữa thung lũng sông Lục Nam. Cảnh sắc hữu tình, có vị thế chiến lƣợc lâu
dài về quân sự.
Trong các ngọn núi, tuỳ theo sơn phận mà có núi, có rừng nhiều tầng
hoặc rừng hoang sơ, cây chịu cạn. Tại sơn phận xã Nam Dƣơng chủ yếu là
rừng hoang cỏ cây chịu hạn. Đất đá lẫn lộn, lô xô chen lẫn nhau. Đá ở núi Am
Ni đa số là đá cát kết khối lớn. Trên đỉnh núi Am Ni có một ngôi chùa mang
tên chùa Am Vãi, ở phía Bắc núi trên độ cao chừng 600-700m kề bên ngọn
Am Vãi có núi Bàn thờ tiên. Cạnh đó là khu núi mang tên Hang Tiền, Hang
gạo và có nhiều truyền thuyết về những hang này. Núi Am Ni là một núi lớn,
cảnh sắc bốn mùa khác nhau rất đẹp, lại có ngôi chùa cổ trên đỉnh núi đƣợc
liệt vào hàng danh sơn thắng tích.
Ải Nội Bàng còn có tên là Bàng Quan, thành nhà Mạc. Đây là chiến ải
lớn nhất nằm ở khu vực giữa thung lũng sông Lục Nam. Địa thế nơi này bằng
phẳng, rộng rãi, có thể chứa đƣợc hàng vạn quân trong thung lũng . Hai bên
là dãy núi: Bảo Đài và Huyền Đinh-Yên Tử bao bọc sông Lục Nam chảy giữa
thung lũng tạo nên một trục giao thông thuỷ bộ nối liền vùng đồng bằng với
miền núi. Chặn ngang thung lũng ở khu vực xã Phƣơng Sơn, Đông Hƣng là
ngọn núi ải đồ sộ, tạo nên hai cửa ra vào thung lũng, một cửa giáp núi Bảo
Đài. Từ cửa ải đƣờng núi phía tây kéo sang cửa ải đƣờng núi phía đông có

dãy thành luỹ đất chắn ngang. Thành này đƣợc nhà Mạc bồi đắp cao to đồ sộ
nên dân địa phƣơng vẫn gọi đó là thành Nhà Mạc. Dƣới chân thành có con
suối từ Bảo Đài chảy về Sông Lục Nam mang tên suối ải. Khu vực ải giáp bờ
sông, có làng Ải, làng Bòng của xã Phƣợng Sơn. Làng Bòng lại có cánh đồng
kề quan ải vì thế mà ải có tên là Nội Bàng hay Nội Bòng. Đây là nơi ngƣời
dân trong các làng xã thờ các vị phò mã nhƣ Giáp Thừa Quý, Thân Thiệu
Thái, Thân Cảnh Phúc và các công chúa nhà Lý. Ở địa điểm này đã phát hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
ra gạch ngói có hoa văn dây cúc từ thời Lý - Trần. Khi khai quật đã phát hiện
dấu tích nhƣ Hoàng Thành Thăng Long. Trong cuộc kháng chiến chống xâm
lƣợc Nguyên Mông Trần Hƣng Đạo đã cho xây dựng phòng Tuyến xa Lý -
Nội Hoàng và đặt đại bản doanh ở Nội Bàng.
Ải Xa Lý còn có tên là ải Khả Lý nằm trên con đƣờng mòn từ Xa Lý
sang đất Lộc Bình- Lạng Sơn. Từ đây có thể xuống thung lũng sông Lục Nam
để về Kinh Bắc xƣa theo con đƣờng Xa Lý- Kim Sơn-Biển Động- Chũ. Ải
này nằm trên eo của núi Ải, đoạn thắt lại rất hiểm trở nên thƣờng gọi là đèo
Ải. Đèo có độ cao khoảng 500m. Trong khe Ải có suối chảy vào sông Xa Lý.
Sông này chảy quanh co qua Cooc Nhi, Cooc Vặn, rồi nhập vào sông Lục
Nam ở khu vực bản động. Đỉnh đèo là cửa ải Xa Lý. Đứng ở đây có thể quan
sát đƣợc đất Lộc Bình và cả vùng đất Lục Ngạn. ở khu vực đỉnh đèo Ải có
đắp luỹ đất. Lũy cao chừng 4 m chân rộng tới hơn 20 m. Luỹ ăn sát vào vách
núi, ở giữa có lối ra vào do đèo cao, lối đứng, đƣờng xá đi lại khó khăn, lại
mắc luỹ chắn nên việc ra vào ải càng khó. Con sông xa Lý đƣợc khởi nguồn
từ các suối nhỏ trong dãy núi Thái Hoà, tạo ra nguồn chính bắt đầu từ Bản
Đồn, núi Ải từ đó chảy qua làng Mòng, làng Xé, Cooc Nhi, Cooc Vặn rồi đổ
vào đất Khuôn vi và rộng dần ra, sau chảy vào đất Động bản (Biển động) rồi
đổ vào sông Lục Nam ở khu vực Cẩm Đàn, Phú Nhuận. Lòng sông này có
nhiều loại cuội đá kết màu sắc vân rất đẹp. Dọc theo đôi bờ sông có nhiều

dấu tích cƣ trú của ngƣời xƣa. Thế kỷ XIII, quân dân nhà Trần đã tổ chức
chặn đánh đại quân Nguyên Mông ở phòng tuyến Xa Lý - Biển Động - Nội
Bàng. đến các triều đại phong kiến tiếp theo, ải Xa Lý vẫn đƣợc bồi đắp và
phòng giữ.
Khu di tích Khuôn Thần có tổng diện tích là 2000ha, trong đó rừng
tự nhiên 500ha, rừng thông 500ha và hồ Khuôn thần 140ha mặt nƣớc. Hồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Khuôn Thần đƣợc xây dựng từ 1960, với dung tích 1.000.000m3 để tƣới
nƣớc cho một vùng rộng lớn thuộc xã Kiên Lao, Kiên Thành, Thanh Hải.
Trong hồ có 5 đảo lớn và 7 đảo nhỏ. Nơi đây đã đƣợc trồng thông. Trên đất
Lục Ngạn, Khuôn Thần nổi lên nhƣ một hòn ngọc lấp lánh giữa vùng rừng
núi mênh mông.
Nhƣ vậy, có thể thấy Lục Ngạn là một huyện miền núi giữ vị trí trọng
yếu trên đƣờng từ kinh đô Thăng Long xƣa (thủ đô Hà Nội ngày nay) lên
biên giới phía Đông Bắc. Trong sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân
tộc ta, mảnh đất nơi đây đã sản sinh ra bao anh hùng dân tộc, đóng góp một
phần không nhỏ trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lƣợc từ ngàn
xƣa.
Nơi đây từng ghi dấu chiến công của những ngƣời anh hùng đã chiến
đấu vì độc lập, tự do cho đất nƣớc. Đó là Cao Sơn - Quý Minh - những vị
tƣớng tài giỏi thời các vua Hùng đến Thân Cảnh Phúc, Vi Hùng Thắng, Trần
Hƣng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tƣợng... Góp phần vào chiến công của các anh hùng
là núi, rừng, sông hồ và con ngƣời nơi đây. Các anh hùng đã dựa vào thế núi,
thế sông cùng lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chí quyết tâm đánh giặc và tinh thần
đoàn kết dân tộc để đánh đuổi quân thù. Quê hƣơng Lục Ngạn tự hào về
những ngƣời anh hùng của dân tộc Việt Nam, tự hào về mảnh đất thiêng gắn
bó với chiến công của toàn dân tộc đã thêu dệt vô vàn những truyền thuyết
dân gian bay bổng, diệu kỳ.

Nhƣ vậy, có thể nói, điều kiện tự nhiên đã góp phần vào sự ra đời của
hệ thống truyền thuyết dân gian ở vùng đất phía Đông Bắc tổ quốc.
1.2.2. Điều kiện lịch sử
Vũ Thành là ngƣời anh hùng địa phƣơng. Trong quá trình lƣu truyền
tên tuổi ông đã mở rộng nhƣ anh hùng dân tộc. Đƣợc sinh thành bảo lƣu và
phát triển chủ yếu là ở quê hƣơng Lục Ngạn nhƣng truyền thuyết và lễ hội Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Thành vẫn mang những nét chung từ đặc điểm truyền thuyết và lễ hội Bắc
Giang, mở rộng ra là ảnh hƣởng của văn hoá Kinh Bắc. Vì vậy, khi nghiên
cứu về điều kiện lịch sử tác động đến đối tƣợng nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi nhận thấy, trƣớc hết cần khảo sát từ lịch sử quê hƣơng Bắc Giang,
thứ đến là lịch sử của mảnh đất Lục Ngạn, cái nôi của truyền thuyết Vũ
Thành.
Nằm ở vị trí phía Bắc của tổ quốc, Bắc Giang là một miền đất cổ , ngay
từ buổi bình minh của lịch sử, đã có nhiều gắn bó với các miền đất khác trong
cả nƣớc.
Các di chỉ khảo cổ học nổi tiếng nhƣ di tích văn hoá Sơn Vi (đồ đá cũ)
phát hiện đƣợc ở Bố Hạ, Chũ, An Châu, Khe Tám (có niên đại cách ngày nay
khoảng 20 nghìn năm), các di chỉ văn hoá Phùng Nguyên (Sơ kỳ đồ đồng)
phát hiện ở Xuân Lƣơng Bố Hạ (Yên Thế), Tiên Sơn (Việt Yên)... đã chứng
minh sự có mặt của con ngƣời từ thời tiền sử sơ sử trên mảnh đất Bắc Giang.
Cho đến nay, tiền sử Bắc Giang đƣợc biết sớm nhất là ở các địa điểm
thuộc văn hoá Sơn Vi (Cách ngày nay khoảng 1-2 vạn năm). Con ngƣời xuất
hiện thời kỳ này, chủ yếu sinh sống ở miền đồi gò thấp ven Sông Thƣơng,
sông Lục Nam thuộc Yên thế, Lục Nam, Lục Ngạn. Công cụ của họ là những
cành cây mũi nhọn dùng để săn bắn thú rừng và làm nơi cƣ trú. Tuy nhiên, nó
sẽ biết chế tạo công cụ cuội, biết chọn công cụ cuội là một sáng tạo, nó sẽ tiến
tới và phát huy truyền thống sử dụng đá cuội vào các thời đại sau này.

Thời tiền sử tiếp theo ở Bắc Giang là văn hoá Hạ Long. Ở xã Trƣờng
Sơn (Mai Sƣu - Lục Nam) đã tìm thấy chiếc rìu đá có vai lệch. Rìu mầu vàng
dài 7,4cm, eo vai rộng 4cm, lƣỡi rộng 4,3 cm có hình vòng cung cân xứng.
Rìu đƣợc mài nhẵn toàn bộ, hai mặt lƣỡi mài vát hơi lệch về một bên.
Nhƣ vậy, từ thời sơ sử, Bắc Giang đƣợc nhận biết qua hàng loạt các
di tích thuộc nền văn hoá Phùng Nguyên. Đông Sơn đƣợc phát hiện ở Bố

×