Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tiểu luận tìm hiểu về di tích chùa phổ minh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 37 trang )

1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
PHẦN 1: THƠNG TIN DI TÍCH ..................................................................... 3
1. Tên di tích...................................................................................................... 3
2. Q trình xây dựng và các đợt trùng tu di tích ............................................. 3
PHẦN 2: QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC ...................................................... 4
1. Thế đất và cảnh quan môi trường.................................................................. 4
2. Mặt bằng tổng thể chùa Phổ Minh ................................................................ 5
3. Trang trí kiến trúc nội ngoại thất .................................................................. 6
PHẦN 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT ............................................................... 17
1. Nội dung lý lịch các pho tượng thờ chủ yếu ............................................... 17
2. Hình thức thể hiện các pho tượng thờ kể trên ............................................. 19
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 25
Phụ lục ảnh ...................................................................................................... 26


2

MỞ ĐẦU
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam cho đến nay đã hơn hai ngàn năm.
Ngay từ khi mới du nhập, với tính cách ơn hịa, thần bí, với tư tưởng siêu việt
và những giáo vụ từ bi bác ái của Đức Phật rất phù hợp với phong tục thuần
hậu của nước ta. Chính vì vậy, đạo Phật dễ dàng hịa nhập vào những tập tục
dân gian để mau chóng ăn sâu vào lịng tín ngưỡng của người Việt. Đặc biệt
thời Lý – Trần, đạo Phật rất được giai cấp thống trị coi trọng. Nhiều nhà sư
trở thành những cố vấn tin cậy của nhà vua, các nhà sư được coi là tri thức,
coi sóc phần tâm hồn của con người. Đạo Phật được coi như là quốc giáo, kết
hợp với vương quyền để cai quản đất nước.
Từ tín ngưỡng, Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực khác


trong xã hội chính trị, văn học – nghệ thuật, kiến trúc,… để lại cho dân tộc
nhiều cơng trình văn hóa có giá trị lớn. Nếu như ở thời Lý, chùa được xây
dựng nhiều, rất lớn bầng tiền của nhà nước thì thời nhà Trần, sau ba lần chống
quân Nguyên – Mông thắng lợi, nền kinh tế bị sa sút nhiều do chiến tranh tàn
phá, chùa vào thời kỳ này chủ yếu là chùa làng – do dân một làng đống góp
tiền xây dựng lên. Nhà nước khơng đủ khả năng kinh tế xây dựng chùa tháp
trên cả nước mà chỉ đủ tiền xây dựng lại kinh đô Thăng Long và quê hương
của dòng họ nhà Trần, như vậy thời nhà Trần bắt đầu phát triển hình thức
chùa làng nhưng chùa Phổ Minh không phải chùa làng mà là chùa của Hoàng
tộc, lấy tiền kho của nhà nước xây dựng vào thời nhà Trần.


3

PHẦN 1: THƠNG TIN DI TÍCH
1. Tên di tích
Chùa Phổ Minh ( Phổ Minh Tự) còn được gọi là chùa Tức Mặc hay
chùa Tháp. Chùa Phổ Minh là ngôi chùa thuộc quần thể di tích nhà Trần, nay
thuộc địa phận thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, cách thành phố Nam Định 5km
về phía Bắc. Nơi đây vốn là quê hương của dòng họ nhà Trần.Tổ tiên các vua
Trần vốn làm nghề chài lưới ở quãng sông Châu chảy qua địa phận Nam
Định, sau đó tụ họp thành xóm ấp bên hữu ngạn sơng, cịn gọi là hương Tức
Mặc (sau này được nâng lên thành phủ Thiên Trường).
2. Quá trình xây dựng và các đợt trùng tu di tích
Theo sử liệu, địa chí, bi kí,… thì chùa Phổ Minh khởi dựng từ thời nhà
Lý tại hương Tức Mặc. Cho đến bắt đầu năm 1239, các vua Trần đã biến quê
hương Tức Mặc của mình thành một cơng trường lớn. Thợ thuyền được tuyển
chọn cùng với phu lính đi làm việc rịng rã mấy chục năm liền để xây dựng
những cung điện, đền miếu, dinh thự, lầu gác làm nơi ở cho hồng thân quốc
thích. Đây là trung tâm thứ hai của đất nước bên cạnh kinh đô Thăng Long.

Và để đáp ựng nhu cầu lễ Phật cho con em hoàng tộc trong vùng, năm 1262,
chùa Phổ Minh được xây dựng. Hơn nửa thể kỉ sau, vào đầu thế kỉ XIV, năm
1305 vua Trần tiếp tục cho xây cây tháp Phổ Minh, hồn thiện kiến trúc chùa.
Vì vậy ta có thể hiểu “ Nhà Lý xây dựng, họ Trần “ điểm tô” – chùa xây dựng
từ triều Lý sang thời Trần, nhờ phái Trúc Lâm mà chùa cảnh được mở khang
trang lộng lẫy.
Chùa Phổ Minh kể từ các đời vua Trần kính thờ đến nay hơn 700 năm,
đời nào cũng có tu sửa để hồn thiện nhưng khơng được ghi chép lại trong sổ
sách, chỉ có ghi tại bia Lê Cảnh Trị và một số bia trong chùa. Dựa trên phần
công đứcở văn bia trong chùa thì có hàng trăm người thuộc đủ tầng lớp, dòng


4

họ từ quý phái đến bình dân trên mọi miền đất nước, cũng như con em địa
phương góp tiền tài, vật lực phục hồi tôn tạo cho chùa.
Vào thế kỉ XVI, cơng trình xuống cấp, cơng chúa nhà Mạc là Mạn
Ngọc Lâm cùng hội chủ Thái Bảo Đà quốc công Mạc Ngọc Liễn liên tục
đóng góp 36 cây gỗ lim cực lớn để sửa chùa.
Đến thế kỉ XVII, chùa cành hư hỏng, tỳ khoe Thích Hội Thơng và Sa
Di Vân Thủy lại tu sửa chùa, sủa chữa, sơn thiếp tượng Phật.
Đầu thế kỉ XVIII, vào năm Nhâm Thìn 1712, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ
8 bản xã góp cơng sửa chữa tịa tháp trước cửa chùa.
Sang thời Lê, Nguyễn cơng việc trùng tu tôn tạo cũng được quan tâm
nhiều lần. Thành phần cơng đức tu sửa chùa có tầng lớp quan chức, tơn thất
quyền q, … đặc biệt là vai trị của địa phương. Có lần các chức sắc hàng xã
đứng ra lo liệu, tu sửa tháp Phổ Minh.
Năm Nhâm Tý 1912, vua nhà Nguyễn, niên hiệu Duy Tân đã phục hồi
cảnh chùa như tu sủa lầu, chùa, phủ và lầm thêm hai dãy giải vũ Đơng- Tây,
cung đình nội ngoại cũng làm đầy đủ.

Sau này, nhà nước tái khẳng định đay là di tích, di sản văn hóa tiêu biểu
của dân tộc nên sớm xếp hạng và bảo vệ, đồng thời đã tiến hành tu sửa vào
các năm 1961, 1987, 1994. Sửa chữa tầng trên của tháp, một số di sản như
rồng đá trước cửa chùa, tôn tạo một số hạng mục để bảo tồn di tích, kiến
trúc này cho hậu thế.
PHẦN 2: QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC
1. Thế đất và cảnh quan môi trường
Chùa Phổ Minh là danh lam tiêu biểu đất Thiên Trường. Thế đất và
cảnh quan đã được ghi lại “Phổ Minh đỉnh tự”, đức năm Bính Thìn, niên hiệu
Cảnh Thịnh thứ 4 (1796): “Chùa phổ Minh trước đây vón là danh lam của
nước Việt, xây dựng vào thời Lý, mở mang trong thời Trần cho hợp cảnh nơi


5

quê vua. Đất nàng bên trái có nước quanh co uốn khúc, bên phải nhấp nhô
như núi cao thấp, chạy vịng, mặc bắc có sơng Hồng tụ thủy, mặt nam có
dịng nước chảy mênh mang …”
Thời gian cùng với những biến thiên lịch sử đã làm cho quang cảnh nơi
đây thay đổi. Song sự biến dạng không nhiểu. Hiện nay, chùa vẫn quay về
hướng Nam mà theo quan niệm của người Việt thì hướng Nam là hướng tốt
để dựng nhà – “ Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Chùa tọa lạc trên khu
đất cao ráo, rộng gần 2ha, đứng biệt lập, không bị các thổ cư lấn át, do vậy
vẫn giữ được dáng vẻ thanh cao, tĩnh mịch của chống cửa chùa. Điều mà ít
chùa cảnh có được là 2 cây muỗm cổ thụ khoảng vài ba trăm tuổi xum xuê,
xanh tốt, cùng với các cây đại, nhãn thị,.. cây tháp cổ không chỉ làm tăng
thêm vẻ thanh u, còn đăng đối thêm vẻ đẹp cho tháp và cho chùa.
Vào khu sân ngoài của chùa, hai bên đường chính đạo là 2 hồ sen nhỏ.
Xưa kia đây là 2 giếng nhỏ mà dân gian gọi là “ mắt rồng”, sau này được mở
rộng thành hồng sen.

Phái sau chùa là vườn bia, được bao bọc bởi vườn cây xanh mát và có
ao. Tuy nhiên, diện tích ao ngày càng bị thu hẹp lại.
2. Mặt bằng tổng thể chùa Phổ Minh
Ở chùa Phổ Minh, các nghệ nhân kiến trúc sư thời xưa khơng những
biết sử dụng địa hình, địa vật của thiên nhiên để sáng tạo ra không gian cảnh
quan tươi đẹp cho kiến trúc mà ngay trong việc bố trí mặt bằng cũng thể hiện
sự hiểu biết khoa học của cha ông ta.
Đầu tiên phải kể đến là tam quan của chùa, đi qua cổng tam quan là tới
một con đường mà trong thuật ngữ kiến trúc cổ gọi là “thần đạo”. Con đường
này chạy thẳng tới một bình phong kiểu cuốn thư ở phía trước chân tháp và
tách làm đơi rồi đi thẳng tới tịa tiền đường. hai bên đường ở vị trí đối xứng là
hai hồ nước hình trịn có trồng hoa sen. Ba tịa tiền đường, thiêu hương,


6

thượng điện của chùa kết cấu theo kiểu hình chữ cơng với hai dãy hành lang chạy
hai bên, sau tịa thượng điện cách một sân gạch là tới nhà Tổ, hai bên nhà Tổ là
tăng phịng và điện Mẫu. Tồn bộ ba tòa tiền đường, thiêu hương, thượng điện
cùng với hai dãy hành lang hai bên và nhà Tổ, tăng phòng, điện Mẫu tạo thành
một kiểu kết cấu mặt bằng kiến trúc “ Nội cơng ngoại quốc”. Ngay phía sau nhà
Tổ có ba ngơi tháp nhỏ một tăng trong đó ngơi ở giữa có niên đại từ thời Mạc đã
từng tu ở chùa. Cách khu tháp mộ này khoảng 15m là khu mộ tháp của các nhà sư
đã từng trụ trì ở chùa. Một điều cần chú ý tới trong mặt bằng tổng thể chùa Phổ
Minh là hai ao sen phía trước sân chùa, sau tam quan. Việc đào hai ao trịn này
ngồi yếu tố phong thủy ra cịn làm tăng thêm vẻ đẹp vốn có của chùa. “kiến trúc
chùa cổ Việt Nam hình như khơng tìm sự đồ sộ về chiều cao, rộng trong khơng
gian mà nhân đơi mình lên khi soi bóng trong trên mặt nước … Bố cục kiến trúc
rất quan tâm đến mặt nước phẳng lặng phía trước hay hai bên cơng trình kiến
trúc”. Hoa sen trồng trong hồ tạo lên dáng vẻ thiên nhiên cho kiến trúc và qua đó

thể hiện ý nghĩa Phật triết.
Điều cuối cùng khi đề cập đến tổng thể mặt bằng kiến trúc của chùa
Phổ Minh là vị trí của ngọn tháp chính. Khơng như những ngọn tháp được
làm sau này được đặt ở sau nhà Tổ, ngọn tháp này được đặt trước sân chùa.
3. Trang trí kiến trúc nội ngoại thất
Chùa Phổ Minh là ngôi chùa Đại Thừa, Bắc Tông, có quy mơ lớn, là
nơi tu hành tụng niệm của các quan lại, quý tộc cao cấp nhà Trần được bố trí
theo kiểu nội cơng ngoại quốc và thể hiện rất rõ dấu ấn sự hịa đồng ba tơn
giáo (Nho – Phật – Lão).
Cơng trình bố cục theo trục đối xứng Bắc – Nam, các hạng mục từ to
tới nhỏ xây dựng cân đối khiến tổng thể trải dài, rộng, tạo khung cảnh hài hịa
quy mơ mà vẫn khép kín, khơng làm mất đi vẻ hồnh tráng của chùa.


7

a. Tam quan
Vào chùa trước hết phải qua một cổng tam quan ba gian bằng gỗ, mái
ngói, tường gạch có đề bốn chữ rất lớn “Đại hùng bảo điện” ở phía trên, cịn ở
phía dưới có bậc tam cấp, với đôi sấu làm thành bậc ở gian giữa. Hai bên
tường ở phía trong thuộc phần dằng trước của tam quan có đắp nổi hai phù
điêu mang tư cách như hai ông hộ pháp và hai con hổ bằng vữa. phía trước
tam quan có hai cây cột hoa biểu đứng ở hai bên. Về kiến trúc tam quan có
kiểu kết cấu chồng diêm và đầu hồi bít đốc. Qua kiểu kết cấu này ta biết rằng
tam quan có niên đại khá muộn vào khoảng thời Nguyễn cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, khi nhìn vào cơng trình kiến trúc có kết cấu này, mới đầu ta có thẻ
lầm tưởng cơng trình có hai tầng và có thể đi lên tầng hai được. Song đây là
kiểu kết cấu “ Diêm thức” nên khơng có cầu thang để đi lên tầng hai được,
các tầng không được chia rõ ràng mà đây chỉ là một cách tạo dáng
Cổng tam quan làm kiểu chồng diêm ba gian mái thẳng, bít đốc. Đầu

hồi mặt tiền có hai trụ hoa biểu, trên có đơi nghê chầu dáng vẻ tự nhiên. Bậc
tam quan có đơi sóc đá chàu đăng đối, đây là ranh giới phân tam quan thành
ba cửa cửa giữa là “ trung quan”, còn hai bên là cửa “giả quan” và “vô quan”.
Bước qua cổng tam quan là vào chùa. Vào chùa là vào cõi khơng, sạch vương
vấn để giải thốt mọi khổ não, để có tâm trong sáng – đó là tâm Phật. Hệ
thống tường rào có hoa văn trang trí, khơng q cao nên khu nhà bia sân tháp
không bị che khuất.
Từ tam quan theo đường chính đạo vào khu sân ngồi của chùa, hay có
thể coi là khu sân tháp bởi cách cửa chùa khoảng 6m là cây báo tháp Phổ
Minh. Hai bên tháp là hai nhà bia thời Lê làm kiểu chồng diêm mái cong, nhà
bia ghi lại quá trình xây dựng những nét kiến trúc và những lần trùng tu chùa.
Bia quá to nên nhà nhà bia không thể xây nhỏ.


8

Đáng lưu ý là trên sân chùa đặt hai hàng chân tảng bằng đá, đục bông
sen nở rộ. Giữa hai hàng chân tảng cịn có 4 tảng hoa sen đặt theo hình vng
mà theo lời kể thì cho thấy đây là vị trí kê vạc Phổ Minh. Vạc Phổ Minh được
coi là một trong An Nam Tứ Đại Khí.
Tại khu sân chùa cịn có 2 cây hương đá cao khoảng 1.60m, tạo hình
bát giác, mỗi cạnh khắc hàng chữ tở ý kính trọng các đức Phật và chư vị Bồ
Tát. Phía trong 2 cây hương, có hai cột kinh đá cũng tạc theo kiểu bát giác cao
gần 4m. Phần giữa 2 cây hương cịn có bát hương cổ bằng đá khá lớn, được
trạm mây tản, mặt nguyệt.
b. Tháp Phổ Minh
Khi đã nói đến chùa Phổ Minh chắc chắn phải nói đến cây tháp ở phía
trước sân chùa. Cây tháp này cho đến ngày nay là một thành phần kiến trúc
quan trọng nhất của chùa Phổ Minh và là một trong những cây tháp cổ nhất
của nước ta còn tồn tại và giữ được khá nguyên vẹn hình dáng ban đầu.

Về nguồn gốc cũng như vai trị của ngơi tháp trong Phật giáo. Cũng
như đạo Phật, kiến trúc tháp Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ và là một trong ba
thành phần cơ bản của kiến trúc Phật giáo: tháp mộ, chùa thờ Phật, tăng viện.
Ngọn tháp chính ở trước sân chùa Phổ Minh cao 13 tầng chưa kể đế
tháp. Cao 21,2m, chân đế hình vng cạnh dài 5m20 bề thế và vững chắc,
được xây dựng năm 1305. Đây là tháp mộ, có đặt một phần xá lị Điều ngự
Giác hồng đệ nhất cổ phái Trúc Lâm là vua Trần Nhân Tông. Nhiều thế kỷ
nay tháp vẫn hiên ngang vươn cao, tạo điểm nhấn độc nhất vô nhị cho cổ tự.
Tầng một được dựng trên một đài sen nở cách điệu khiến tháp như nổi
trên một bông hoa sen không lồ. Trên hai lớp cáh sen có đường gờ nhơ lên,
mặt nằm của gờ cũng chính là mặt nền tầng một. Mái của các tầng đều rất
hẹp. Điều đáng chú ý là triến trúc đã biết giải quyết các tầng mái bằng cách
xây gạch nhỏ dần ra thành nhiều lớp cấp nhỏ, uốn cong lên, hòa vào cái thế


9

vươn lên chung của toàn bộ kiến trúc. Càng nâng lên, càng thu hẹp dần và kết
thức bằng một chỏm hình bầu rượu có nhiều cạnh. Cũng như chùa, tháp Phổ
Minh quay mặt về hướng Nam, mặt bằng được bố cục vuông, cạnh đáy đế dài
5,20m. các tầng trên đều có 4 cửa quay về bốn hướng chính, được trổ theo lối
cuốn tò vò. Riêng tầng dưới cao trội hẳn lên (2,2m), cửa của nó người lớn có
thể vào thắp hương dễ dàng (cao 1,09m, rộng 0,77m). Toàn bộ tháp được xây
trên một hồ vuông nông, nhỏ (rộng 8,6m). Hồ có hành lang bao bọc bốn phía
cũng có cửa và các thành bậc được trạm trổ rồng đá. Phần nền đế chân tháp
gồm nhiều tầng cấp thu dần vào và gần đến hết lại nhơ ra. Chính ở cấp cuối
cùng của phần nền đế trước khi đi vào tầng tháp thứ nhất, nghệ sĩ xưa đã sử
dụng mặt ngoài của cấp này, dùng thủ pháp tạo ra một vành đai trang trí xen
kẽ những cành hoa lá đan chéo nhau và những hoa hình trịn, cánh hoa ngã
vịng quanh, cịn ở giữa có cánh hoa cất lên và xốy trịn ốc. Vành đai này là

một bức diềm những nét khắc nhỏ tuyệt đẹp, hai thứ hoa lặp đi lặp lại chạy
vòng chung quanh tháp, khi ánh sáng chiếu xiên vào, hiện lên như một vòng
hoa xám dịu dàng và tinh tế.
Về chất liệu, tháp là một cơng trình hỗn hợp giữa gạch và đá. Bệ và
tầng dưới của tháp được xây bằng loại đá xanh mịn vừa có sức nặng, làm tăng
độ bền cho móng nền. các tầng trên đều được xây bằng gạch nung mỏng, nhẹ,
rất tiện lợi cho việc xây lắp. Kết cấu của tháp ở các tầng đá chủ yếu dựa vào
các mộng và keo vữa kết dính ở các tầng trên, ngồi vừa cịn có các dây đồng
xâu móc qua các viên gạch để làm tăng độ bền vững cho kiến trúc. Về cấu
trức của tháp, sách “ Đại Nam nhất thống chí” cịn cho biết, ngày xưa người ta
xây một cột đá bên cạnh và lấy dây đồng để ràng lấy đỉnh tháp.
Trang trí trên tháp cũng rất ấn tượng, tập trung chủ yếu ở phần đá với
đài sen bao quanh tháp và những đồ án hoa lá cách điệu trên mặt đứng ở tầng
đế, ở cửa tị vị và trên các nẹp góc. Bên cạnh các tượng đá hình cá sấu, hình


10

rồng được tạc ở các thành cửa vào hồ quanh tháp thì các nghệ sĩ đã chạm các
lớp cánh sen với nhiều hoa văn dây uốn lượn quanh cửa tháp và trên các mặt
tường. Hàng loạt hoa lá được chạm khắc như vẽ trên đáo, hình ảnh chủ đạo là
tùng, cúc, trúc, mai, … hình khắc trên phần đá của tháp Phổ Minh tạo ra các
hoa văn hoa lá, sóng nước, mây trời đơn giản, sáng sủa rất sinh động bao viền
quanh thân tháp và các cửa tháp. Sự vận dụng những đườn cong khéo léo tạo
cho tác phẩm có chất tươi mát, cuồn cuộn và sinh động rất lạ thường.
Tầng tháp thứ nhất được bắt đầu bằng một vòng những cánh sen hai
lớp, lớp đưới cúp xuống, lớp trên ngửa lên nở xòe, tọa cảm giác cây tháp như
mọc trên một đóa xen khổng lồ. khác hẳn những cánh sen thời Lý thanh dài
và bên trong thường được trang trí đơi rồng rắn, những cánh sen ở đây đều
mập mạp, xó mũi cong xoắn lại, bên trong cánh sen cịn trang trí những móc

câu, hoa và nhánh hoa dây móc nhau. Cùng với các nhánh sen ở bệ tháp, việ
xây hồ trên tháp phải chăng người xây dựng muốn tạo cho tác phẩm kiến trúc
của minh thành một hình tượng búp sen khổng lồ đang nổi trên mặt nước, một
hình tượng mang ý nghĩa của nhà Phật.
Bốn cửa tháp ở tầng dưới đều có gờ nhơ ra, trên mặt gờ rất nhẵn, được
khắc rạch những nét nhỏ hoa lá cách điệu. Khác với thời nhà Lý, tháp có tính
thực tế, tháp là để thờ Phật nên bốn mặt có Bát bộ kim cương canh giữ nhưng
đưới nhà Trần, tháp chỉ mang tính tượng trưng, lại là tháp nhỏ lên khơng có
hình tượng Bát bộ kim cương.
Chân cột góc của tầng tháp dưới này được trang trí cũng bằng Lối khắc
rạch hai bức diềm nhỏ trồng chéo lên nhau chạy song song. Bức diềm phía
trên gồm những bơng hoa nhọn đầu, mập, uốn cong lưỡi liềm rất mềm mại,
phía dưới có đài và cuống hoa biến thành cụm mây cách điệu, bức diềm phía
dưới là một dãy sóng nước cách điệu. Sóng nước ở đây có hai phần, phần
dưới như một dịng nhạc 5 dịng kẻ song song lượn sóng đều đặn, phần trên là


11

những ngọn sóng đầu nhơ cao gồm các đường cong nối nhau gẫy khúc và trên
đầu mỗi ngọn sóng như có một bơng hoa nhỏ xinh.
Kiểu hoa văn cuối cùng được trang trí ở tầng tháp đưới là mây trời
được khắc thành băng dài cuốn quanh phía trên tầng tháp này. Mây ở đây là
những cụm nhỏ xoắn xuýt. Còn ở tầng trên trang trí chủ yếu trực tiếp vào các
viên gạch. Cạnh ngồi của mỗi viên đều có khắc hình rồng cuộn khúc vờn
mây, tuy được khắc rạch trước khi nung song hình trang trí rất mềm mại. Đế
tháp được xây bằng đá nhưng lại giả gỗ cho nên có những xà gỗ chạy ngang.
Tất cả nét kiến trúc và nghệ thuật trên cho thấy đây là một công trình kiến
trúc có giá trị của dân tộc ta.
ở trong lòng tháp Phổ Minh (tầng 1) trên tấm đá ở tầng tháp có một mặt

hình trạm nổi đơi rồng chầu mặt trời, đôi rồng này mang đầy đủ tư cách của
rổng thời Trần, với những mào lửa, toc chải, mang banh, thân trơn, chân có
lịng làm nền cho đơi rồng là những viên ngọc đang chuyển động, mỗi viên
được kéo dài ra bởi 2 dải tóc chải bay về hai phía.
Việc tồn tại của tháp ngót 700 năm ở một xứ khí hậu nhiệt đới, chiến
tranh liên miên khơng chỉ là niềm tự hào của nhân dân, mà còn là tài sản vô
giá do tổ tiên đã tốn bao nhiêu cơng sức, trí tuej, tiền của để tạo dựng trong
q trình lịch sử của dân tộc. Tháp vút lên bầu trịi xanh thẳm như thể hiện ý
chí hiên ngang bất khuất của hào khí dân tộc một thời – hào khí Đơng A- đã
đánh bại ba lần xâm lược của phương Bắc. Đồng thời qua đó cũng thấy được
triều đình nhà Trần đã nối tiếp các triều đại trước, có ý thức xây dựng quốc
gia Đại Việt độc lập và tự chủ. Trong q trình đó bên cạnh việc xây dựng
nền chính trị tự cường, các vua Trần cố gắng xây dựng một nền văn hóa –
nghệ thuật riêng mang đậm bản sắc dân tộc. Trong quần thể kiến trúc chùa
Phổ Minh, tháp nằm ngay sân trước, khơng cịn chiếm vị trí trung tâm như
kiến trức chùa tháp thời Lý. Vị trí kiến trúc của tháp như một sự tiếp nối quá


12

trình chuyển đổi từ chỗ tháp là trung tâm của chùa về đúng với vai trò ban đầu
và nguyên thủy của nó là mộ thờ Phật.
Đầu thế kỉ XX, có một nhà bn có lịng từ thiện, bỏ tiền xin trùng tu
tháp đã dùng vối vữa chát kín tồn bộ mặt ngồi lại , kể cả quả hồ lơ (chỏm
tháp). Trải qua bao đời tháp được trùng tu sửa chữa nhiều lần nhưng nhìn
chung tháp vẫn giữ được cốt cách hình dáng xưa.
c. Kết cấu tịa tam bảo
Chùa Phổ minh được thiết kế theo kiểu chữ “Công”, gồm các hạng
mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện. Qua nhiều lần thay đổi thì hiện
nay chùa có kiến trúc “nội cơng, ngoại quốc”, gồm các hạng mục tam quan,

ao sen, nhà bia, tháp, sân trước, chùa chính, hành lang, hậu điện, phủ Mẫu,
nhà tổ, tăng phòng, khu tháp mộ. Kiến trúc này chia chùa thành hai phần,
đăng đối qua một trục tưởng tượng. Tiền đường gồm 9 gian, có 2 dãy hành
lang mỗi dãy 12 gian. Phía sau là các hạng mục như hậu điện, nhà tổ, phủ,
mẫu, … Phía trước có 2 cổng nách, phía sau có hai cổng hậu ra vào sân sau,
khiến chùa vừa hồnh tráng vừa kín đáo, ngăn nắp.
Khu chùa chính gồm 3 tịa nhà làm theo kiểu chữ Công: tiền đường 9
gian, tam bảo 3 gian, thượng điện 3 gian.
Tiền đường chùa Phổ Minh gồm 9 gian, dài 24,93m, rộng 8,22m, gian
giữa rộng 3,92m, hai gian bên rộng 3,15m, hai gian tiếp rộng 3,15m và 4 gian
phía ngồi tiếp giáp với bờ đốc rộng 2,32m. Tuy mái phẳng bít đốc mà vẫn có
độ cong vươn lên về hai phía, có bảng giữa nóc chùa đắp 3 chữ “ Phổ Minh
tự”. Bờ dải, trụ hoa biểu đầu hồi được chú ý đắp vẽ triện tàu, lá lật, gờ chỉ khá
công phu.
Sau khi đi qua một khoảng sân là tam cấp của tịa tiền đường. Tồn bộ
ba tịa tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hai hành lanh hai bên và nhà tổ
tạo thành kiểu kết cấu nội công ngoại quốc trong đó tịa tam bảo nối với nhau


13

thành hình chữ Cơng, hai hành lang và nhà tổ tạo thành hình chữ quốc. Tịa
tiền đường, thiêu hương, thượng điện có kiểu kết cấu vì kèo, giá chiêng chồng
giường con nhị với mặt cắt dọc nhà có bốn hàng cột kiểu tứ trụ. Hai dãy hành
lang và điện thờ Mẫu cũng có kiểu giá chiêng chịng giường song khơng phải
chồng giường con nhị. Trong điện mẫu có một biến thể của kiểu vì kèo giá
chiêng chồng giường. Thay vì có hai cột cái như kết cấu vì kèo thơng thường,
ở đây chỉ có một cái, vị trí của cột cái kia được thay bằng một cột trốn, cột
này đứng trên một cái xà ngang mà thường được gọi là cái “chếnh”, một đầu
chếnh ăn mộng vào cột cái, còn đầu kia đặt lên trên một bức tường gạch. Tăng

phòng và nhà Tổ có kết cấu vì kèo kiểu cánh én với hai kẻ chạy thẳng từ cột
cái tới thượng lương và giao vào nhau như cánh chim én. Ngoài hai cột cái
cịn có hai cột trốn đứng trên q giang đỡ lấy hai kẻ, có một thanh xà nhỏ ăn
mộng vào hai cột trốn. Đây có thể là một biến thể của “giá chiêng”. Chúng
tôi nhận thấy mặt trước của các tòa tiền đường, điện thờ Mẫu, tăng phòng, nhà
Tổ có kết cấu “thượng song hạ bản”, nhưng ở đây phần gỗ được thay thế bằng
gạch xây trát vữa ở bên ngồi. Tịa tiền đường có 10 bộ vì kèo, tịa thượng
điện và ống muống có 4 bộ, những vì kèo ở hai đầu hồi thượng điện và tiền
đường, vị trí của 2 cột cái được thay bằng hai cột trốn. Giải thích cho sự thay
đổi này chúng tơi cho rằng do kiểu xây đầu hồi bít đốc nên phần mái ở hai
đầu hồi được phần mái đỡ phần lớn trọng lượng nên bộ vì chỉ cần hai cột trốn
và cột quân là đủ đỡ phầ trọng lượng còn lại của mái. Những bộ vì này có xà
nách ở hai bên được kéo dài và nối với nhau. Khoảng cách giữa các hàng cột
ở tiền đường và ống muống là như nhau. Cột quân cách cột cái là 1,9m,
khoảng cách giữa hai cột cái tính theo chiều dọc là 3,44m. Chiều ngang giữa
các vì kèo có khác nhau, gian giữa của các tòa tiền đường, thiêu hương là
2,43m; ở tịa thượng điện là 3,72m. Đường kính của cột qn vf cột cái ở ba
tòa là như nhau, cột quân có đường kính 0,21m; cột cáu là 0,32m. các cột


14

được làm theo kiểu thượng thu hạ thách, đầu thon nhỏ, phình ở phía gần cuối,
đáy thu lại.
Các bộ vì kèo hầu như khơng được trang trí, các thành phần kết cấu vì
kèo như các con giường, xà ngang, kẻ, … được gọt đẽo khá vuông thành sắc
cạnh, các cạnh không được dành nhiều công sức để vuốt mềm, trau truốt.
Điều này tạo cho bộ vì kèo cảm giác khỏe nhưng hơi đơn điệu và khô cứng.
Nhà bái đường làm theo lối chồng giường, bẩy kẻ, 4 hàng cột gỗ lim
chắc nịch đặt trên chân tảng hoa sen, hai hồi để của nách ra vào, mặt sau liên

đới với tòa tam bảo nên có sự giao mái bắt vần, tạo bộ mái phẳng phiu, vừa
phải độ dốc lại tránh được thấm nước, bị dột. hệ thống cột, giường, bẩy, kẻ,
… tuy khơng có sự gia cơng đục chạm họa tiết nhưng cũng như hệ thống xà
làm kiểu ống tơ, tạo mạng, mộng khá tài tình nên từ bẩy, kẻ đến xà lòng, xà
nách câu vào tứ trụ đều rất bén, khít khó tìm ra khuyết điềm. Do vậy bộ
khung tuy mơc mạc mà vẫn có vẻ thanh thốt trong sự chắc nịch của kiến trúc
cổ dân tộc.
Tại gian giữa tiền đường có bức cửa võng chạm họa tiết, sơn thiếp lộng
lẫy làm cho gian chính điện thêm trang nghiêm, đồng thời làm đẹp cho cửa
tam bảo
Phía trong tiền đường có tịa tam bảo. Cơng trình này giao mái với tiền
đường, cũng được thiết kế theo lối chồng giường, tứ trụ, cột trong đứng trên
trân tảng hoa sen nên hai công trình có sự gắn bó, liên kết với nhau. Tịa tam
baornayf bài trí rất nhiều tượng Phật, theo nhiều cấp khác nhau từ cao xuống
thấp nên quy cách tam bảo mới đáp ứng được 7 cấp theo độ dốc, đẻ khách
hành hương có thể ngước nhìn lên đủ thấy hết chư vị phật cũng như Bồ Tát.
Thiêu hương xây quay dọc, giao mái với tiền đường, tạo thành mặt
bằng kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, dài 09m, rộng 8,23m, gồm 3 gian. Bộ khung
bằng gỗ lim, kiểu bốn hàng chân cột, mỗi bộ vì được dựng trên đầu hai cột cái


15

cao 4,3m và hai cột quân cao 3,9m. Chân tảng bằng đá, chạm hoa văn hình
cánh sen.
Thượng điện gồm 3 gian, dài 12,8m, rộng 8,50m. Bộ khung gỗ lim,
kiểu 3 hàng chân cột, gồm hai cột cái và một cột quân. Tất cả các cột được gia
công theo kiểu thượng thu hạ thách và được kê trên hệ thống chân tảng đá
chạm hoa văn hình cánh sen.
Sau tam bảo là Thượng Điện. Cơng trình này cao hẳn lên bởi nền cũng

được tôn cao. Do nhà cao nên cột cũng phải to, đườnh kính cột lên đến 50cm,
các cấu kiện, xà, bẩy, con giường cũng theo tỷ lệ đó mà nhíc lên lên cho phù
hợp về kiểu dáng, cũng như về độ bền vững. Nguyên vật liệu kết cấu bộ
khung cũng phải to, khỏe để đỡ, dải bờ nóc có lưỡng long chầu mặt trời, bờ
dải có triện tàu, bờ bảng trang trí bề thế và nặng nề.
phía sau Thượng điện là hậu điện. Cơng trình này gồm 2 tịa mỗi tịa 5
gian và một chi vồ phía sau. Kết cấu cơng trình theo lối tiền chữ nhất, hậu
chữ đinh. Tịa đệ nhị làm theo kiểu mê cốn, cửa ô, ngạch ngưỡng. lại có 2 bức
thuận đơng, tây để cửa vào hai gian bên, đây cũng là bức thuận của nhà cổ mà
chùa tháp cịn tồn tại.
Hai tịa nhà phía đơng liền liền với hậu điện thờ Tổ, đồng thời thờ các
vị hậu Phật có cơng xây dựng chùa. Hai tịa này gồm 6 gian thiêt kế lối trụ,
câu đầu, bẩy tiền theo lối cổ nhưng chủ yếu bào trơn đóng bén, khơng đầu tư
điêu khắc ở sà, bẩy.
Hai tịa thờ mẫu phía tây hậu điệncũng thiết kế như nhà tổ, mộc mạc và
chắc chắn. Cả ba cơng trình hậu điện, nhà Tổ, nhà thờ mẫu hệ thống cột cái,
cột quân đều được đặt trên các chân tảng cánh sen. Có nhiều chân tản đục,
chạm từ lâu đời là nguyên tác thời Trần để lại.
Qua cổng hậu phía trong sẽ ra khu sân sau nơi vườn tháp và ao.


16

Hai dãy hành lang đơng- tây có tới 24 gian làm theo phong cách cổ
truyền khá bề thế, chắc chắn, góp phần tạo cho tổng thể các hạng mục đồng
bộ, hài hòa. Một bên hàng lang dùng để tiếp khách, thư phịng. Một bên là các
tăng phịng, cịn có các bia thờ hậu, thờ những người có cơng đóng góp để xây
dựng và tu sửa chùa.
Hai nhà bia ở hai bên trước ngọn tháp chính được xây đầu thế kỉ XX có
kiểu kết cấu chồng diêm với tám lá mái, bốn ở trên và bốn ở dưới. Toàn bộ

nhà bia được xây bằng gạch, nó là nơi chứa tấm bia cổ khắc từ thời Lê (năm
Cảnh Trị thứ 6 -1668).
d. Trang trí kiến trúc
Đơi sấu đá hai bên bậc tam cấp tam quan chùa Phổ Minh được tạo tác
từ hai khối đá thành hai khối lượng tròn trong tư thế bị từ trên xuống, phía
dưới con sấu đá là một băng hoa dây lượn sóng hình sin phổ biến trong nhiều
tác phẩm mỹ thuật thời Trần. Con sấu ở trong tình trạng cịn tốt, mọi đường
nét và mảng khối đều rõ. Con vật được tạo tác ở tư thế ngẩng cao đầu, bờm
tóc phủ kín gáy và vai, đi dài hơi uốn sóng, mình mập lắn, chân rắn chắc,
tồn thân như muốn chồm lên.
Đặc biệt ở thềm tam cấp từ sân chùa lên chùa tạo 5 cửa lên xuống. Cửa
giữa có đơi rồng dài 2m từ trên nhao xuống. Cặp rồng này bị ghè vỡ đầu, năm
1994 làm mới 2 đầu rồng gắn vào. Các gian bên có 2 con rồng nhỏ, dài 1,3 m
từ trên nhao xuống. Tất cả những con rồng đá ở trước gian bái đường hay
quanh tháp Phổ Minh, tuy bị sứt mẻ nhưng đều là rồng được tạc từ thời Trần.
Ta có thể nhận rõ con rồng thời Trần không giống rồng thời Lý. Rồng thời
nhà Trần thân mập mạp hơn và uốn lượn nhỏ dần về phía đi, nuột nà, có
tính hiện thực hơn và thể hiện “ tính xác thịt” của con vật. nhìn vào hình
tượng rồng, ta có thể khẳng định rằng nó được tạc sau kháng chiến chống


17

Ngun – Mơng vì ở đây có sự giao lưu văn hóa với phương Bắc: rồng có
thêm cặp sừng, mũi và bên dưới là tai của rồng.
Một tác phẩm nghệ thuật còn lưu giữ được từ thời Trần là bốn cánh cửa
chùa vào gian bái đường. bản gốc hiện nay đang được trưng bày tại Bảo tàng
Cổ vật tại Nam Định. Bản ở chùa Phổ Minh là bản đục lại nhưng tương đối
đẹp và chính xác. Bộ cánh cửa gồm 4 cánh làm bằng gỗ lim to, dày, chạm
khắc rất đẹp, kích thước mỗi cánh 1m87 * 0m78. Bố cục của cả bộ cánh cửa

theo sự trang trí cân đối giữa hai cánh cửa bên phải và hai cánh cửa bên trái.
Mỗi cánh cửa đều được chia làm hai phần, phần trên hình chữ nhật chạm
rồng, phần dưới hình vng chạm sóng nước, hoa và các họa tiết hình học.
Trên mỗi cánh cửa là hình tượng con rồng trạm trổ rất đẹp, các khúc
uốn lượn tinh tế, nhỏ dần về phía đi, đều đặn mang tính chất Lý. Tính chất
nhà Lý còn được thể hiện rõ nét hơn là con rồng ở đây khơng có sừng và
khơng có tai. Tuy nhiên đây là một cơng trình lớn có tính nhà nước nên phải
làm theo kiến trúc chính thống. Hình ảnh rồng ở đây được trạm theo lối chạm
nổi, khi ánh sáng chiếu vào sẽ làm tơn hình ảnh được chạm. cánh cửa sơn đen
đều đặn, tạo ấn tượng vững chắc khỏe mạnh. Một nét đặc sắc nữa của đôi
cánh cửa này là khi khép lại tạo thành hình lá cây bồ đề - biểu tượng cho đức
Phật. Hệ thống cửa khá hài hòa với hàng rồng đá ở bậc thềm.
PHẦN 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1. Nội dung lý lịch các pho tượng thờ chủ yếu
Chùa Phổ Minh thể hiện rất rõ dấu ấn tam giáo đồng tôn nên trong chùa
không chỉ có 1 hệ thống tượng Phật.
Tại tịa Tiền đường, ở gian chính giữa được bố trí ban thờ. Trên ban thờ
có bát hương thờ chung thế giới Phật mà dân gian thường gọi là bát hương
công đồng. Hai bên của ban cơng đồng có 2 pho tượng lớn. Đây là hình
tượng hộ pháp, một ơng là Trừng Ác, một ông là Khuyến Thiện có nhiệm vụ


18

bảo vệ pháp báu của nhà Phật. Phía bên phải tượng Hộ pháp Trừng Ác là ban
thờ sư tổ Đạt Ma- người đầu tiên truyền bá đạo Phật vào Việt Nam. Trên ban
có tượng Sư Tổ và tượng người hầu. Bên cạnh ban thờ tổ Đạt Ma là ban thờ
Đức Ơng, là người cai quản trơng nom Phật đường.
Tịa Tam bảo được bài trí theo hàng ngang và từ cao xuống thấp, từ
trong ra ngoài. Nghĩa là các vị tối thượng được xếp ở bệ cao nhất, trong cùng

nhất. Do vậy, tam bảo có 6 hàng tượng đặt trên bệ như sau:
Cấp cao nhất có pho tượng Phật Adiđà là Quan Thế Âm Bồ Tát, tiêu
biểu cho sự từ bi và trí tuệ. Bên tay phải tượng Đức Phật là Bồ Tát Đại Thế
Chí có trí tuệ soi khắp 10 phương.
Cấp thứ hai chính giữa là tượng Phật Thích Ca, còn hai bên là Bồ Tát
Phổ Hiền cưỡi “bạch tượng” và Bồ Tát Văn Thù cưỡi “ thanh sư”.
Cấp thứ ba là tượng Di Lặc, bên phải la tượng Quan Âm Tọa Sơn và
bên trái là tượng Quan Âm Thị Kính.
Cấp thứ tư gồm 3 pho tượng. Chính giữa là tượng Quan Thế Âm Bồ
Tát nhiều tay, nhiều mắt. Hai bên tả hữu là Phạm Thiên và Đế Thích.
Cấp thứ năm có tượng Ngọc Hồng đội mũ bình thiên ngồi chính giữa,
hai bên là tượng Nam Tào - Bắc Đẩu .
Cấp thứ sáu chính là Tịa Cửu Long, hai bên có tượng Bồ Tát Mục Liên
và tượng Thánh Tăng, cùng hai ngọc nữ tay dâng hoa hầu chầu Đức Phật.
Phía sau Tam bảo là tịa Thượng điện, tịa này có ban thờ Trúc Lâm tam
tổ và ở cấp trong cùng, cao nhất cịn có tượng Thích Ca to lớn ngồi trên tịa
sen. Hai bên có tượng Anan Đà và Maha Cadiếp.
Sau Thượng điện có hệ thống Hậu điện, nhà tổ và phủ mẫu. Đây là
những cơng trình xây dựng ở cốt đất thấp hơn khu nhà chính nhưng quy mơ
các tịa cùng với bài trí thờ tự cũng khá nghiêm túc, hài hịa với nội dung
chung của một ngơi chùa truyền thống.


19

Hậu điện gồm 3 tòa, làm theo kiểu tiền nhất, hậu đinh gồm 10 gian lớn
nhỏ. Ban thờ trong cùng, cịn gọi là hậu cung thờ Thiên Cảm Hồng Thái Hậu
(thân mẫu Đệ nhất tổ Trúc Lâm). Phía ngồi thờ cơng chúa Mạc Ngọc Lâm.
Hai bên thờ Khâm Từ hồng hậu và Điện Súy phu nhân. Các vị này đều có
dịng dõi cành vàng lá ngọc.

Phía tây Hậu điện là phủ mẫu, gian ngồi có ngũ vị, phía đơng Hậu
điện là nhà tổ, đều là nơi thờ các vị sư trụ trì tại chùa, đồng thời thờ những
người có cơng đóng góp tu sửa chùa, được dân làng bầu là Hậu Phật và được
cúng giỗ hàng năm.
2. Hình thức thể hiện các pho tượng thờ kể trên
Tượng Hộ Pháp: Tượng Hộ Pháp mặc giáp trụ, cân đai oai phong ngồi
trên lưng sư tử rất đường bệ nhưng sắc thái hai vị khác nhau. Tượng mặc như
những vị võ tướng, thân mình vạn vỡ khỏe mạnh – lối thể hiện này chủ yếu có
vào cuối thế kỉ XVIII đầu XIX. Tuy nhiên trên thân mình ơng Hộ Pháp có
hình tượng con rồng đang quấn. nếu ta để ý kĩ thì đi rồng nhỏ dần, cho thấy
pho tượng không thể tạc vào thế kỉ XVIII mà phải được tạc vào thế kỉ XIX trở
về sau. Tượng ơng Khuyến Thiện có khn mặt hiền từ, trắng hồng, tay cầm
viên ngọc hoặc báu vật luôn tỏ ý khuyên răn làm điều đúng đắn, trong khi đó
tượng ơng Trừng Ác mặt đỏ, dữ tợn, tay cầm vũ khí, có động tác mạnh như bổ
xuống đầu người khác. Hai pho tượng Hộ Pháp cao khoảng 3,2m là tượng
được đắp bằng đất từ thời Hậu Lê, thể hiện ước mơ, nguyện vọng bảo vệ tôn
giáo mà họ đang tôn thờ. Hai pho tượng anyf tuy không đẹp bằng tượng ở
chùa Bút Tháp nhưng cũng thể hiện được cái thần qua dáng ngồi, đôi mắt và
tà áo tung bay.
Tượng Sư Tổ bồ Đề Đạt Ma: Tượng được tạc bằng gỗ, to bằng người
thật, tóc xoăn đen, râu quai nón, quang điện màu hơi hồng, cốt cách hàm chứa
vẻ từ bi của đạo thiền.


20

Tượng Đức Ông: to hơn người thật, được coi như một vị thần. Vị thần
này coi sóc phần tinh khí của đất chùa, trực tiếp bảo vệ tài sản của chùa Phật.
Đức ơng là người có cơng mua đất của thái tử Vi Đà để cúng dường cho Đức
Phật làm nơi thuyết giáo nên ông được giao nhiệm vụ coi giữ cảnh chùa.

Tượng Thổ Địa: Tượng được đặt ngồi trên bục gỗ cao 1,4m. khn
mặt từng trải, râu tóc bạc phơ. Việc thờ Thổ Địa là do chịu ảnh hưởng của tín
ngưỡng dân gian. Vị thần này trực tiếp trơng nom đất đai trong khuôn viên
chùa. Dân gian coi như thần bản xứ, giúp đỡ, tạo điều kiện đối với thiền tự
Phổ Minh.
Tượng Đức Thánh Hiền: Hình dáng như một vị cao tăng. Ông là đại
diện cho hàng tăng chúng, có nhiệm vụ truyền kinh pháp, giúp đỡ cho hàng
chúng sinh. Tượng tạc Đức Thánh Hiền đang làm thủ ấn Giáo hóa, thể hiện
tình trạng giải ngộ cao và hồn hảo, như đang truyền thụ Phật pháp. Hai bên
là hai pho tượng Diệm Nhiên và Đại Sĩ – hai vị này tượng trưng cho hàng quỷ
đói nghe thuyết pháp để thí thực.
Tịa Cửu Long: Được kiến tạo như một vịm trời, có chín con rồng uốn
lượn tạo thành một động nhỏ cao chừng 1m. Chín con rồng ở chín tư thế khác
nhau vừa kết cấu thành động, vừa tạo thành điểm để các pho tượng nhỏ là các
chư vị Phật đứng hoặc ngồi phía trong, cũng như phía ngồi của tịa Cửu
Long, làm tơn lên vị thế pho tượng nhỏ Thích Ca sơ sinh. Tượng Thích Ca sơ
sinh được tạc một cậu bé cởi trần, mặc váy ngắn đứng trên bông sen, ánh hào
quang tỏa sáng khắp thân, tay phải chỉ xuống đất, tay trái giơ 2 ngón chỉ lên
trời như khẳng định vị thế của Phật: “ Thượng thiên, địa hạ, duy ngã độc tôn”.
Truyền thuyết kể lại rằng, khi ơng vừa sinh ra thì đi được bảy bước, mỗi bước
đi lại nở ra một bơng sen. Vì vậy đây là bức tượng duy nhất chưa thành Phật
mà đã được đứng trên tòa sen. Trên vầng hào quang là rất nhiều các chư Phật
đến chúc mừng sự ra đời của Thích Ca, bên trái tịa Cửu Long có tượng Bồ


21

Tát ngồi trên tòa sen, truyền thuyết đây là đệ tử của Đức Phật có tên là Mục
Liên, bên phải tòa Cửu Long là tượng Thánh Tăng ngồi trên bục, đại diện cho
giới tu hành phụng sự đạo Phật, phía ngồi tịa Cửu Long có 2 pho tượng

Ngọc Nữ, y phục trang nghiêm, phong cách chững chạc đang nâng hoa chầu
hầu. Có nơi gọi hai pho tượng này là Kim Đồng – Ngọc Nữ.
Tượng Ngọc Hoàng: Được đặt ngồi trên ngai vàng, cầm cái đốt tiêu
biểu cho quyền uy, đội mũ bình thiên.
Tượng Nam Tào, Bắc Đẩu: tay cầm bút, tay cầm sổ như để ghi chép
sinh, tử của cõi trần. Dân gian tin việc sống chết là do ông trời định đoạt , do
vậy thờ Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu nhằm để cầu mong được che trở,
sống lâu.
Tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều tay, nhiều mắt: (24 tay)trong số
12 cặp tay của bà, hoặc chắp trước ngực, hoặc để ở thế tiền định … và nhiều
tư thế giơ cao như hòa đồng vũ điệu một cách sinh động. Quan Âm là dưới
Đức Phật một bậc, là một vị bồ tát đã đắc đạo nhưng chịu lời nguyền lên
không lên cõi niết bàn mà ở lại trần gian để phổ độ chúng sinh nên tuowgj của
bà được đặt trên tòa sen. Đây là vị Bồ Tát biểu hiện cho tính Phật tiêu biểu
nhất, có nhiều biến hóa, nhiều tay, nhiều mắt để vương tới những nơi xa xôi
và nhìn thấy hết được nỗi thống khổ của các Phật tử.
Tượng Phạm Thiêm - Đế Thích: được tạc giống nhau, đặt ở hai bên
tả hữu Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây là hai vị Phật của đạo Bà La Môn nhưng
tơn kính đạo Phật nên tự nhận mình là những vị Phật. Khi Thích Ca Mâu Ni
ngồi dưới gốc cây bồ đề ngộ đạo, các vị có xuống chúc mừng, đồng thời hỗ
trợ Thích Ca thắng bọn ma vương giảng giải giáo lý nhà Phật. Đây cũng là
một cách để tuyên truyền Phật Giáo
Tượng Di Lặc: Di Lặc cũng là vị thần như các vị khác, vượt qua ngoài
kiếp luận hồi. Di Lặc là hình ảnh tượng ở thế vị lai, để làm cho phái Đại Thừa


22

đông đúc thêm các Phật tử, người ta quan niệm nếu tu hành đắc đạo thì sẽ đến
được nước Di Lặc, vì vậy tượng Di Lặc được tạc với thân hình béo tốt, bụng

to, nét mặt hoan hỉ, hiền từ, miệng cười cởi mở.
Tượng Quan Âm tọa sơn: bệ tượng thể hiện hình núi. Thường được
thờ ở vùng trung du và miền núi. Dáng vẻ hiền lành, chững chạc, một tay đặt
lên đầu gối, một tay giữ hạt ngọc.
Tượng Quan Âm Thị Kính: Duy nhất ở Việt Nam mới có tượng thờ
này. Vị Bồ Tát này thường bé một đứa bé nhưng vì tượng lâu ngày bị hỏng
nên đã mất con chim vẹt, mất cả hài nhi trên tay bà Thị Kính.
Tượng Thích Ca: Tóc bụt ốc, dáng ngồi và thế tay đều theo thế thiền
định. Lòng bàn tay trái đỡ lưng bàn tay phải. xung quanh là vòng bạch hào
quang chạy người chiều kim đồng hồ tỏa sáng. Tượng Phật khốc trên mình
chiếc áo cà sa xồng xĩnh, thể hiện con người đó đang trong q trình giải
thốt.
Tượng Văn Thù Bồ Tát: ngồi bên phải tượng Phật Thích Ca, cưỡi trên
con sư tử màu xanh – loài thú đứng đầu núi rừng, chứng tở uy linh rất lớn, tay
nắm thanh gươm.. Đây là vị Bồ Tát có đức độ cao siêu, có đại trí nên cịn
được gọi là Diệu thù Bồ Tát. Sau khi Thích Ca nên cõi niết bàn, Văn Thù Bồ
Tát và Ananđà đã làm ra bộ kinh Hoa Nghiên. Tất cả các vị tổ trong Phật
Giáo được Văn Thù Bồ Tát dẫn dắt để đạt tới giác ngộ.
Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: ngồi ở bên trái Phật Thích Ca, đội mũ Phật,
tay phải cầm bơng hoa sen, tay trái cầm lưỡi kiếm. Vị Bồ Tát này cưới trền
lưng con voi trắng, thể hiện cho sự thuần khiết và uyên bác của chân lý. Đây
là vị Bồ Tát tiêu biểu cho “ đại hạnh” .
Tượng Đại Thế Chí: tay cầm quyển sách. Ơng là người giúp cho Phật
Adiđà về tư tưởng.


23

Tượng Quan Âm Bồ Tát: là người giúp Phật thực thi Phật pháp. Ở phái
Đại Thừa thường coi trọng vị Bồ Tát này, cho rằng người rất từ bi, hỉ xả nên

thường lễ vị Bồ Tát này.
Tượng Đệ nhất tổ, Giác hồng Trần Nhân Tơng: thờ chính giữ gian
thượng điện. Tượng được tạc theo thế nằm nghiêng, tay trái chống đầu, tay
phải đặt lên đùi, chân co, chân duỗi, khuôn mặt bình thản, phúc hậu trong tư
thế nhìn nghiêng. Từ xưa nhân dân đã coi Trần Nhân Tông như đức Phật, do
vậy hình tượng Người được tạc theo thế Phật đang nhập cõi niết bàn ung
dung, tự tại –thể hiện mức cao nhất của việc tu hành. Hai bên ban thờ có hình
tượng chim hạc đứng trên lưng rùa. Hình tượng này bình thường khơng có
trong chùa Phật nhưng đay là ban thờ thánh nên có hình tượng này. Chim hạc
thể hiện sự thanh cao, quyền quý. Rùa thể hiện cho sự Trường thọ .
Tượng Đệ nhị tổ Pháp Loa: đặt bên trái tượng nằm Trần Nhân Tông
Tượng Đệ tam tổ Huyền Quang: đặt bên phải tượng Trần Nhân Tơng
Vì chùa Phổ Minh là chùa của hoàng tộc nhà Trần, được đặt trên quê
hương của dòng họ nhà Trần nên có tượng thờ Trần Nhân Tơng. Hai vị Pháp
Loa và Huyền Tông đã giúp ông sáng lập và truyền bá phái Trúc Lâm Tam Tổ
nên cũng được đưa về đây thờ cúng.
Tượng Thích Ca: đặt ở cấp trong cùng cao nhất của gian thượng điện.
Tượng được đặt trên tòa sen, bàn tay trái để ngửa trên đầu gối như giữ ấn, bàn
tay phải giơ hai ngón tay kiểu đang thuyết pháp khiến Phật thời quá khứ tĩnh
mà lại động, tự tại mà như hóa thân khắp vùng miền tế độ lương dân. Tượng
vị tổ thứ nhất Maha Cadiếp: được đặt ở hai bên tượng Thích Ca là hai vị tổ.
Maha Cadiếp là vị tổ thứ nhất, học trị của Thích Ca Mâu Ni, theo Thích Ca từ
lâu, là con của một người lao động nhưng rất thơng minh. Ơng có ghi chép lại
bộ “ Kinh Phật nguyên thủy” khi Thích Ca đi truyền đạo. Tượng ơng có thêm
râu để thể hiện là người già dặn, từng trải, dáng khỏe mạnh, nhanh nhẹn.


24

Dáng đứng trụ vào một chân, chân trước, chân sau. Tượng ơng cịn có hình

tượng khốt tay.
Tượng vị tổ thứ hai Ananđà: Ơng là cháu của Thích Ca Mâu Ni, dáng
vẻ hân hoan thỏa mãn, đầy khoái lạc, nét mặt tươi cười hỉ hả. Khi ơng kế
nghiệp Maha Cadiếp thì bộ kinh phật đã được biên soạn sau. Do vậy nên các
nghệ nhân thường thể hiện một vị trẻ tuổi. mặt mũi nhẵn nhụi, tỏ vẻ thỏa mãn
sung sướng.
Tượng Ngũ vị Tơn Quan: được đặt trước ban thờ Tam tịa Thánh
Mẫu. Mỗi vị mặc một màu áo khác nhau thể hiện cho 5 yếu tố cơ bản xây
dựng lên vũ trụ (ảnh minh họa).
Tượng Tam tòa Thanh Mẫu: ba pho tượng này hình dáng hồn tồn
giống nhau. Tuy nhiên ta có thể phân biệt được dựa trên màu sắc của phục
trang (hoa tai, ve áo) với ba màu trắng- xanh – đỏ. Hai bên ban thờ là hai
tượng Thị Giả - là người trong làng lên chùa hầu Phật. hai bên cạnh là các ban
thờ Hậu và cả ban thờ Bác Hồ
Tượng cơng chúa Mạc Ngọc Lâm: hình tượng cơng chúa được tạc
trên bia đá theo dạng phù điêu. Công chúa ngồi trên bệ sen, nghiêm trang, tay
lần tràng hạt. Đây là bức phù điêu được tạc vào thế kỉ XVI thể hiện nghệ thuật
trạm trổ thời kì đó đã ở mức điêu luyện. Hai bên cũng là tượng hai Thị Giả.
Bên cạnh có ban Thở Đệ Nhất Vương Cơ và Đệ Nhị Vương Cơ. Cơng chúa
Mạc Ngọc Lâm có phần mộ được lưu giữ ngay ở sau hậu điện. Mộ cơng chúa
làm kiểu Long đình bằng đất nung, 2 mộ nhỏ hai bên để móng chân, móng tay
và tóc của công chúa.


25

KẾT LUẬN
Chùa tháp Phổ Minh một cơng trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của
cha ông ta để lại, một di sản văn hóa quý báu mà chúng ta phải trân trọng giữ
gìn. Đây là một di tích chứa đựng những giá trị quý báu về lịch sử và nghệ

thuật chúng ta đã may mắn có được.
Về lịch sử, chùa tháp Phổ Minh thuộc vào những ngôi chùa sớm được
xây dựng ở nước ta mà cụ thể là vào đời Trần. Chùa gắn với thiền phải Trúc
Lâm, có thể nói là một trong những tôn giáo đầu tiên do người Việt sáng lập
lên, qua đó có thể nói lên ý chí độc lập tự cường của dân tộc ta.
Về khía cạnh nghệ thuật, chùa có những cơng trình kiến trúc, các tác
phẩm điêu khắc, các hoa văn trang trí rất đặc sắc. Đó là ngơi tháp ở trước sân
chùa, là đơi sấu đá ngồi tam quan, những con rồng đá trên bậ tam cấp tòa
tiền đường, hai bức tượng phật bà Quan Âm thời Mạc, tấm bia Phổ Minh
thiền tự bi thời Lê, … tất cả thể hiện tài hoa của người nghệ nhân Việt Nam
xưa.
Do vậy chúng ta phải có ý thức bảo vệ giữ gìn những di sản đó, đồng
thời tiến hành tơn tạo nhằm nâng cao giá trị của di tích.


×