Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Quan niệm của ăngghen về sở hữu trong tác phẩm nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước với vấn đề sở hữu ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.93 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------

NGUYỄN VĂN HOÀN

QUAN NIỆM CỦA ĂNGGHEN VỀ SỞ HỮU TRONG TÁC PHẦM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA
NHÀ NƯỚC” VỚI VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
--------------------------

NGUYỄN VĂN HOÀN

QUAN NIỆM CỦA ĂNGGHEN VỀ SỞ HỮU TRONG TÁC PHẦM
“NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA
NHÀ NƯỚC” VỚI VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Liêu

Hà Nội – 2019


LỜI CẢM ƠN
Hồn thành khóa ḷn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Ngọc Liêu đã trực
tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hồn thiện
khóa ḷn tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa ḷn
sẽ khơng tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cơ, cùng tồn thể các bạn để khóa
ḷn này được hồn thiện hơn.
Hà Nợi, ngày tháng năm 2019

Nguyễn Văn Hoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. .......................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài ...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 4
6. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 5
NỘI DUNG....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM VỀ SỞ HỮU CỦA ĂNGGHEN TRONG
TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU
VÀ CỦA NHÀ NƯỚC” .................................................................................. 6
1.1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tổng quát của tác phẩm ....................... 6
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và bố cục của tác phẩm ............................................. 6
1.1.2. Nội dung tổng quát của tác phẩm ........................................................... 9
1.2. Nội dung quan niệm sở hữu trong tác phẩm ....................................... 14
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 20
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI
VỚI VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................. 21
2.1. Khái lược quá trình nhận thức của Đảng về sở hữu .......................... 21
2.2. Đánh giá vai trò của vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 27
2.2.1. Vai trò của sở hữu nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước ............. 28
2.2.2. Vai trò của sở hữu tập thể và thành phần kinh tế tập thể ..................... 32
2.2.3. Vai trò của sở hữu tư nhân và thành phần kinh tế tư nhân .................. 38
2.2.4. Vai trị sở hữu hỡn hợp và thành phần kinh tế hỗn hợp ....................... 43
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 47
KẾT LUẬN .................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 53


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Một trong những vấn đề quan trọng của việc nghiên cứu triết học Mác Lênin là đi sâu vào nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, vì đó là cơ sở xuất
phát để nhận thức một cách chính xác và trung thành với tư tưởng của các nhà

triết học mácxít. Việc nghiên cứu tác phẩm kinh điển không chỉ là tiếp thu,
nhận thức mà còn bảo vệ chủ nghĩa Mác vào thực tiễn.
Trong số các tác phẩm của Ph. Ăngghen viết trong thời kỳ (18831889), tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” được coi là tác phẩm đặc biệt – là một trong những tác phẩm chủ yếu
tiếp tục phát triển tư tưởng thiên tài của C.Mác: Quan niệm duy vật về lịch sử.
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của
Ph.Ăngghen có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với việc tiếp tục phát triển và luận
chứng cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong tác phẩm của mình, Ph.Ăngghen đã
cụ thể hóa một cách căn bản khái niệm lịch sử thế giới do Ơng cùng với
C.Mác nghiên cứu trước đó. Ơng cũng bác bỏ với sức thuyết phục cao hơn trước
nhiều học thuyết giáo điều của khoa học tư sản, chẳng hạn, các quan niệm về sự
tồn tại ngay từ đầu của gia đình phụ hệ, của chế độ tư hữu, của chính quyền nhà
nước, của sự bất bình đẳng xã hội, của sự bóc lột, áp bức, v.v..
Một trong những vấn đề chính của tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” là sự lý giải sự phát triển của các hình
thức sở hữu mà nguyên nhân sâu xa là những thay đổi của lực lượng sản xuất.
Từ đó khẳng định thêm quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình
độ của lực lượng sản xuất.
Trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam có nêu: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng

1


sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng
của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật”[5 ;Tr.15]. Có thể thấy Đảng Cộng sản đã vận
dụng những quan niệm của Ăngghen về sở hữu vào hiện thực Việt Nam hiện

nay. Vả để làm rõ hơn những quan điểm sở hữu của Ăngghen, và những vấn
đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay nên tôi chọn đề tài “Quan niệm của
Ph.Ăngghen về sở hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước” với vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Liên quan đến đề tài này đã có các cơng trình nghiên cứu như: Về tác
phẩm của Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước” của tác giả I.L.An-Đrê-ép (Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1987), ngồi ra
cịn có các bài viết giới thiệu về tác phẩm như cuốn “Giới thiệu kinh điển
Triết học Mác-Lênin” do Khoa Triết học Đại học Khoa học xã hội nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2007.
Về vấn đề sở hữu có một số cơng trình như sau: “Sở hữu trong nền
kinh tế thị trường hiện đại: lý luận, thực tiễn thế giới và khuyến nghị cho Việt
Nam” của PGS.TS. Phạm Thái Quốc cơng trình đã trình bày những lý luận về
sở hữu và thực trạng vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay. “Một số vấn đề về
sở hữu ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Thạo (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2004), cuốn sách trình bày một số vấn đề sở hữu ở nước ta trong
những năm đổi mới, nêu lên thực trạng chuyển biến sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước và lĩnh vực đất đai gần 20 năm qua và sự tác động của nó tới
sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam ; Giáo trình dành cho sinh viên khoa
Triết học với chủ đề “Quan niệm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu và

2

Đã chú thích [TNL1]: Lấy từ Danh mục TLTK một số sách
chuyên khảo đưa vào đây, lèo tèo quá!


quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay” trình bày những lý luận cơ bản về sở
hữu và các hình thức sở hữu hiện nay ở Việt Nam; Luận án Tiến sĩ “Các hình

thức sở hữu và vai trị của chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Huyền trình bày quan
niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về các hình thức sở hữu và thực trạng vai trị
của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Sở hữu: lý luận và vận dụng ở
Việt Nam của Nguyễn Văn Thức, cuộc sách trình bày những vấn đề cơ bản về
lý luận về sở hữu cũng như vận dụng vào vấn đề sở hữu ở Việt Nam. Về việc
phân định các thành phần kinh tế ở Việt Nam của Nguyễn Kế Tuấn, cuốn
sách trình bày về sự phân định các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Kế Tuấn trình bày những vấn đề cơ bản
về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Từ việc làm rõ nội dung quan niệm sở hữucủa Ănghen trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước”, luận giải sự
vận của Đảng cộng sản đối với vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài:
Để thực hiện mục đích trên, Khóa ḷn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ quan niệm sở hữu trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Hai là, luận giải sự vận dụng của Đảng trong nhận thức vấn đề sở hữu ở
Việt Nam
Ba là, đánh giá vai trò của các hình thức sở hữu ở Việt Nam hiện nay.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Quan niệm về sở hữu của Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
Vấn đề đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu về quan niệm về sở hữu của Ăngghen
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
để từ đó rút ra những kết luận đó là quan hệ sở hữu ở thời kỳ nào phải phù
hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở thời kỳ đó.
Xác định phạm vi vấn đề sở hữu ở Việt Nam hiện nay. Vấn đề sở hữu
rất rộng, có thể kể đến như các chủ đề như chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu,
quyền sở hữu, đối tượng sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu. Nhưng
với dung lượng của một bài khố ḷn nên tơi chỉ xin trình bày chủ yếu về
hình thức sở hữu. Trong chương hai, khố ḷn trình bày q trình nhận thức
của Đảng về hình thức sở hữu. Đã có những bước phát triển nhận thức khi chỉ
thừa nhận sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, từ Đại hội VI đến nay ở Đại hôi
XII Đảng Cộng sản đã thừa nhận nước ta có nhiều hình thức sở hữu. Tiếp
theo khố ḷn đánh giá về vai trị của các hình thức sở hữu hiện nay.

Đã chú thích [MOU2]: Em mới viết lại

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề sở hữu.
Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và kết hợp nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp duy vật lịch sử -


4

Đã chú thích [TNL3]: Khóa luận


cụ thể, và đặc biệt phương pháp văn bản học nhằm thực hiện mục đích mà
cơng trình nghiên cứu đặt ra.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1. Quan niệm về sở hữu của Ăngghen trong tác phẩm “nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
Chương 2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vấn đề
sở hữu ở Việt Nam hiện nay

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM VỀ SỞ HỮU CỦA ĂNGGHEN TRONG
TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU
VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
1.1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tổng quát của tác phẩm
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và bố cục của tác phẩm
Cho đến những năm 60 của thế kỷ XIX những hiểu biết của con người
về xã hội nguyên thuỷ vẫn còn hạn chế, các tài liệu vẫn dựa vào những nghiên
cứu của Moizơ – tác giả cuốn “Cựu ước”. Trong lý luận của Moizơ lấy phạm
trù “gia đình gia trưởng” làm điểm xuất phát. Ông coi đó là điểm xuất phát
của xã hội, lịch sử lồi người. Trong lý ḷn này khơng giải thích được nhiều
hiện tượng liên quan đến thời kỳ nguyên thuỷ ví dụ như chế độ nhiều vợ

nhiều chồng.
Trong những thập niên 60, 70 của thế kỷ XIX hàng loạt những công bố
mới, dồn dập về xã hội học thời nguyên thuỷ đã cung cấp nhiều cứ liệu khoa
học về thời kỳ ngun thuỷ của lồi người. Trong số đó đáng kể là: Năm
1861, Bacôphen xuất bản cuốn “Mẫu quyền”. Trong đó ơng đã kiến giải lịch
sử thơng qua xem xét sự tiến triển của hình thức hơn nhân: tạp hơn huyết
thống được xác định theo mẹ gia đình cá thể. Ăngghen đánh giá quan điểm
này mặc dù chưa thoát khỏi thế giới quan thần bí, nhưng vào thời điểm đó đã
là một cuộc cách mạng trong cách nhìn về lịch sử; Mc Lenman với ba tác
phẩm lớn là “Nhân chủng học mô tả, 1859”, “Hôn nhân nguyên thuỷ, 1876”,
“Nghiên cứu lịch sử cổ đại, 1880”, đã đánh dấu một bước tiến nữa trong việc
khẳng định sự tồn tại của chế độ mẫu quyền. Nhưng với sự “hỗn loạn” trong
các nhìn về lịch sử cổ đại vẫn chưa được giải quyết. Sơ đồ nghiên cứu của
ông về xã hội nguyên thuỷ vẫn bế tắc trong việc giải thích những hiện tượng
như “ngoại tộc hôn” và “nội tộc hôn”; Những nghiên cứu của L.Moocgan với

6


tác phẩm chủ yếu “Chế độ huyết tộc và thân tộc” (1871) và đặc biệt là tác
phẩm “Xã hội cổ đại” (1877) là những thành tự quan trọng nhất. Các tác
phẩm này đã cung cấp những cứ liệu đầy đủ nhất trên cơ sở cái nhìn duy vật
tự phát về sự phát triển của lịch sử nhân loại, phát hiện trong cái “hỗn loạn”
sợ dây liên hệ, chi phối lịch sử. Việc hàng loạt những cơng trình nghiên cứu
về xã hội nguyên thuỳ được công bố trên là những cứ liệu quan trọng để
Ăngghen hoàn thành cuốn sách “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”. Trong tác phẩm này Ăngghen đã hoàn chỉnh học thuyết
duy vật của chủ nghĩa Mác về lịch sử.
Năm 1884, theo giải thích của chính Ăngghen, trong số giấy tờ của
Mác, ơng đã tìm thấy một bản tóm tắt tỉ mỉ của Mác vào những năm 18801881 về tác phẩm “xã hội cổ đại” của nhà bác học người Mỹ L.Moocgan.

Trong đó Mác chỉ rõ những phê phán và những nhận xét riêng của ơng về
cơng trình của Moocgan. Điều đó, theo Ănggen chúng tỏ rằng Mác đã có ý
định viết một tác phẩm riêng để phân tích cơng trình nghiên cứu nhiều năm
của Moocgan trên quan điểm duy vật lịch sử, nhưng ơng đã khơng kịp thực
hiện điều đó.
Moocgan, như Ăngghen nhận xét, từ những nghiên cứu về cấu trúc xã
hội cổ đại của người Indian Bắc Mỹ, bằng con đường hồn tồn độc lập với
Mác và Ăngghen, ơng đã đi đến quan niệm duy vật về lịch sử gần với những
quan niệm Mác và Ăngghen đã rút ra trong những năm 40 của thế kỷ XIX.
Ăngghen đánh giá rất cao cơng lao của Moocgan, vì chính những nghiên cứu
về những quan hệ thị tộc của người Indian ông đã tìm ra cái chìa khố để lý
giải, để mở bức màn hãy cịn là bí ẩn về lịch sử cổ đại Hy Lạp, La mã và
Giécmanh, Ăngghen viết: Moocgan “đã khám phá ra… trên những nét chủ
yếu, cái cơ sở tiền sử ấy của lịch sử thành văn của chúng ta” và “với sự hiểu
biết công việc, ông đã cố đưa vào thời kỳ tiền sử của nhân loại một hệ thống

7


nhất định”. Trên cơ sở những tư liệu của Moocgan, đồng thời bổ sung chúng
bằng những tư liệu mới, sử dụng những nhận xét phê phán và những ý kiến
của Mác trong bản ghi chép được nói trên và những tài liệu của riêng ông về
lịch sử Hy Lạp, La Mã, Aizơlen và Giécmanh cổ đại, Ăngghen đã đưa ra cái
nhìn duy vật biện chứng về bức tranh tổng thể về lịch sử thông qua việc chỉ ra
những quy luật cơ bản chi phối sự phát triển của xã hội lồi người. Ơng xem
việc viết tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” là sự thực hiện di chúc của Mác.
Tên của tác phẩm đụng đến ba nan đề lớn của tri thức về lịch sử nhân
loại trước và trong thời đại của các ơng: gia đình, chế độ tư hữu, nhà nước.
Đối với ba nan đề này người ta đã phủ lên nó khơng ít những kiến giải “thần

bí”, mà một những những ngun nhân của những bí ẩn đó là sợi dây liên kết
của lịch sử, trong đó mắt xích mở nhất là giữa thời đại nguyên thuỷ và cả giai
đoạn sau nó. Có thể nói trước tác phẩm này tính liên tục của lịch sử nhân loại
đã được các ông hình dung, nhưng chưa được chứng minh.
Tồn bộ tác phẩm được Ăngghen hoàn thành vào ngày 26 tháng 5 năm
1884 (tức là trong thời gian hơn 3 tháng kể từ khi ơng tìm thấy bản sơ thảo
của Mác vào tháng 2 năm 1884). Tác phẩm được in lần đầu tiên tại Xuyrich
(Thuỵ Sĩ) vào tháng 10. Giải thích lý do tác phẩm không thể công bố ở nước
Đức, Ăngghen đã viết trong bức thử gửi nhà xuất bản là do tính phê phán
mạnh mẽ của tác phẩm đối với hiện thực xã hội tư bản, cho nên nó khơng thể
cơng bố tại nơi có khuynh hướng chống lại những người xã hội chủ nghĩa –
một khuynh hướng chính trị cực đoan của các nhà cầm quyền.
Khi Ăngghen còn sống, tác phẩm này còn được tái bản nhiều lần, Lần
tái bản thứ tư tại Stutgat (Đức) năm 1891, Ăngghen có một số sửa đổi, bổ
sung dưới hình thức lời tự cho cuốn sách do có nhiều cơng trình mới liên
quan tới lịch sử xã hội nguyên thuỷ đã được công bố, trong đó đáng chú ý là

8


cơng trình của M.M.Cơcalepxki. Nhưng ơng cũng nói rõ những bổ sung này
khơng làm thay đổi kết ḷn chính của tác phẩm. Từ năm 1894 đến 1917, tác
phẩm này đã được tái bản 10 lần bằng nhiều thứ tiếng. Điều nay cho thấy sức
hút và tầm quan trọng của nó.
Bố cục của tác phẩm
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” bao gồm lời tự và 9 chương theo thứ tự là:
I. Những giai đoạn văn minh tiền sử.
II. Gia đình.
III. Thị tộc Irôqua.

IV. Thị tộc Hy Lạp.
V. Sự ra đời của nhà nước Aten.
VI. Thị tộc và nhà nước La Mã.
VII. Thị tộc của người Kentơ và người Giécmanh.
VIII. Sự hình thành nhà nước Giécmanh.
IX. Thời đại dã man và thời đại văn minh.
1.1.2. Nội dung tổng quát của tác phẩm
Quan điểm về gia đình và sự biến đổi các hình thức gia đình trong
lịch sử
Trước khi có những cơng trình của Moocgan, đặc biệt là trước tác
phẩm này của Ăngghen, sự tiến hố của các hình thức gia đình trong lịch sử
vẫn là vấn đề bí ẩn đối với sự nhận thức của nhân loại. Những bí ẩn đó chỉ
được thực sự khám phá khi phát hiện ra được yếu tố quyết định sự vận động
của các hình thức gia đình trong lịch sử.
Dựa trên những tư liệu về xã hội nguyên thuỷ của Moocgan, Ăngghen
nhận mạnh rằng trong những giai đoạn đầu tiên của lịch sử phát triển xã hội

9


lồi người, quan hệ gia đình, quan hệ thân tộc có vai trị quyết định đối với sự
tồn tại của xã hội, của các cộng đồng người thời kỳ nguyên thuỷ ở mọi dân
tộc và mọi nơi. Trong tác phẩm của mình, Ăngghen đã dẫn lại nhận định của
Moocgan, người đã nghiên cứu nhiều năm những thị tộc người Inđian Bắc
Mỹ, về sự vận động của các hình thức gia đình: “Gia đình là một yếu tố năng
động, nó khơng bao giờ đứng im một chỗ, mà chuyển đổi từ hình thức thấp
lên một hình thức cao hơn khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp lên giai đoạn
cao” [20; Tr.57]. Yếu tố gia quyết định sự “không đứng im” của các hình thức
đó, Ăngghen chỉ rõ đó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát
triển của sản xuất, năng suất lao động và sự xuất hiện của sở hữu tư nhân là

yếu tố cơ bản phá vỡ xã hội cũ dựa trên cơ sở những quan hệ thị tộc và thay
thế nó là một xã hội mới dựa trên những quan hệ giai cấp, từ đó các hình thức
gia đình cũng biến đổi theo, hay nói như Ăngghen “chế độ gia đình hồn tồn
phục tùng những quan hệ sở hữu”.
Trong tác phẩm của mình Ăngghen đã xem xét sự phát triển của các
hình thái gia đình trong tương quan với những biến đổi của phương thức sản
xuấtra của cải vật chất đề từ đó đưa ra quan niệm khoa học về sự biến đổi của
các hình thức gia đình từ chế độ mẫu quyền nguyên thuỷ đến gia đình hiện đại
như thế nào. Để thực hiện những nguyên cứu này, Ăngghen đã tiến hành so
sánh đối chiếu và tổng hợp trên phông tư liệu lớn bao gồm những tài liệu do
Moocgan cung cấp, những cơng trình nghiên cứu về thời kỳ cổ đại Hy Lạp,
La Mã, Xlavơ…
Phân tích sự tác động của yếu tố kinh tế đến sự biến đổi của các hình
thức gia đình trong lịch sử, Ăngghen chỉ rõ khi kinh tế gia đình nguyên thuỷ
chủ yếu dựa trên kinh tế hái lượm, người phụ nữ đóng vai trị chủ yếu thì
quan hệ thân tộc chỉ xác lập trên hẹ mẹ, sau đó cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động mới xuất hiện nên ảnh hưởng của

10


người phụ nữ trong đời sống kinh tế và quan hệ xã hội dần giảm sút. Với sự
xuất hiện của chế độ tư hữu, hình thái gia đình mẫu quyền sụp đổ và chuyển
sang chế độ thừa kế theo hệ cha, hay là chế độ phụ hệ. Trong đó, chế độ gia
đình gia trưởng là hình thức trung gian giữa chế độ mẫu hệ và phụ hệ. Gia
đình một vợ một chồng (chế độ hôn nhân cá thể) được duy trì cho đến ngày
nay. Tuyệt nhiên, Ăngghen chỉ rõ hơn nhân cá thể tuyệt nhiên không phải với
tư cách chỉ là kết quả thuần tuý của sự liên kết tự nguyện giữa đàn ơng và đàn
bà trên cơ sở tình yêu như nhiều lý thuyết đương thời tán dương, mà nó là hệ
quả tất yếu của sự phát triển của sản xuất, của những biến đổi xã hộ lớn gắn

liền với sự phát triển của phương thức sản xuất. Về điều này Ăngghen viết:
“Nó thể hiện ra là mọt sự nô dịch của giới này đối với giới kia, là việc tuyên
bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà người ta chưa từng thấy trong
suốt thời kỳ tiền sử”. “Hôn nhân cá thể là một bước tiến lịch sử lớn, nhưng
đồng thời nó cũng mở ra, bên cạnh chế độ nô lệ và tài sản tư nhân, một thời
kỳ kéo dài cho đến ngày nay, thời đại trong đó mỗi tiến đồng thời cũng là một
bước lùi tương ứng, trong đó phúc lợi và sự phát triển của những người này
được thực hiện bằng sự đau khổ và bị áp chế của những người khác. Hôn
nhân cá thể là hình thức tế bào của xã hội văn minh mà chúng ta có thể dựa
vào để nghiên cứu bản chất của những đối kháng và những mâu thuẫn hiện
đang phát triển đầy đủ trong xã hội văn minh” [19; Tr.104].
Ăngghen đã phê phán gay gắt mơ hình gai đình tư sản vốn được khơng
ít những nhà lý ḷn tư sản coi là hình thức gia đình lý tưởng, là hiện thân của
giá trị đạo đức. Ông chỉ rõ, cơ sở của hình thức gia đình đó thường là cuộc
hơn nhân có tính tốn, bởi vậy trong hơn nhân tư sản tồn tại khơng ít những
mặt trái của nó, chẳng hạn với người chồng bên cạnh quan hệ hôn nhân chỉnh
thức lại thường tô điểm bằng chế độ nhiều vợ khơng chính thức và chế độ mại
dâm, cịn người vợ thì cố làm cho người chồng hợp phát bị cắm sừng. Đồng
thời ông khẳng định rằng một quan hệ hôn nhân thực sự dựa trên sự liên kết

11


tự nguyên của những con người bình đẳng, trên cơ sở tình u và sự kính
trọng lẫn nhau, chỉ có thể có được sau khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bị
thủ tiêu, thức là trong hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa, bời vì chỉ khi đó
“một thế hệ mới sẽ lớn lên: một thế hệ đàn ông khôn gbao giờ phải dùng tiền
hoặc dùng quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và
một thế hệ người đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho người đàn ơng vì
một lý do nào khác người tình u chân chính, hoặc phải từ chối khơng dám

hiến mình cho người u vì sợ nhưgnx hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó”
[19; Tr.128]. Chỉ đến khi đó và những con người đó, theo Ăngghen mới có
thể đoạn tuyệt với những tha hố của gia đình tư sản.
Về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
là một mốc quan trọng của quá trình xây dựng lý luận Mácxit về nhà nước.
Trong tác phẩm này Ăngghen đã trình bày một cách đầy đủ, hệ thống quan
điểm của mình về nguồn gốc và bản chất của nhà nước, vấn đề cốt lõi của bất
cứ học thuyết nào về nhà nước.
Ăngghen chứng minh rằng trong một thời kỳ dài của lịch sử nhân loại
chưa có một nhà nước cũng như khái niệm về nhà nước và quyền lực nhà
nước, rằng nhà nước chỉ xuất hiện trong một giai đoạn phát triển muộn của
lịch sử nhân loại, trong thời kỳ chế độ thị tộc, bộ lạc tan rã, khi xã hội loài
người bước sang giai đoạn có giai cấp. Ơng khẳng định rằng nhà nước khơng
phải là lực luowngj từ bên ngồi áp đặt vào xã hội, mà là sản phẩm của chính
sự phát triển xã hội. sự xuất hiện của nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của
chế độ tư hữu, với việc xã hội phân chia thành những giai cấp có lợi ích đối
kháng. ừ ví dụ về sự hình thành các nhà nước Aten cổ đại, La Mã cổ đại,
Giécmanh, Ăngghen đã chỉ ra một cách rõ ràng, thuyết phục rằng nhà nước là
một lực lượng đặc biệt, nhìn vẻ bề ngồi nó dường như là một lực lượng đứng

12


trên xã hội, nó có nhiệm vụ dung hồ những xung đột giai cấp, giữ cho những
quan hệ giai cấp trong giới hạn trật tự nhất định. Nhưng thực chất nhà nước
bao giờ cũng là công cụ thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Luận điểm
này là rất quan trọng bởi vì nhờ đó chúng ta có thể thấy được bản chất thật sự
của nhà nước.
Theo Ăngghen, nhà nước có hai đặc trưng cơ bản: thứ nhất là tổ chức

lại cư dân theo lãnh thổ chứ không phải trên cơ sở quan hệ thân tộc; thứ hai là
theiets lập cơ quan quyền lực công cộng bằng việc thiết lập lực lượng vũ
trang, cảnh sát, nhà tù… và hệ thống thuế má để duy trì hoạt động của nhà
nước.
Cuối cùng, bản chất của nhà nước, Ăngghen chỉ rõ, nó là cơ quan
quyền lực của “giai cấp thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế và
nhờ có nhà nước cũng là giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm
được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức” [19;
Tr.255]. Trong tác phẩm này, ông cũng chỉ rõ nhà nước không tồn tại mãim
trong lịch sử nhân loại đã có thời kỳ con người khơng cấn đến nhà nước và
đến một giai đoạn phát triển nhất định khi các giai cấp tiêu vong, thì nhà nước
cũng biến mất, lúc đó “ xã hội sẽ tổ chức nền sản xuất trên cơ sở sự liên hợp
tựu do và bình đẳng giữa những người sản xuất, sẽ đem tồn thể bộ máy nhà
nước xếp vào vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên
cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng” [19; Tr.258]. Điều đó sẽ trở thành
hiện thực trong xã hội cộng sản tương lai. Nhưng là một nhà biện chứng duy
vật, một nhà hoạt động chính trị mẫn cảm của phong trào công nhân,
Ăngghen cũng đã nói rõ trong tác phẩm này rằng, ngay cả khi giai cấp công
nhân đã lật đổ được chế độ tư bản chủ nghĩa, để đến được xã hộ cộng sản
tương lai, để xếp nhà nước vào viện bảo tàng, loài người cần phải trải qua giai

13


đoạn quá độ chủ nghĩa xã hội, ở đó vẫn cần đến nhà nước, nhưng đó là nhà
nước của giai cấp cơgn nhân và tồn thể nhân dân lao động.
1.2. Nội dung quan niệm sở hữu trong tác phẩm
Khi nghiên cứu về xã hội nguyên thuỷ cũng như sự phát triển của lịch
sử loài người. Ăngghen đã khái quát được quá trình phát triển của các hình
thức sở sở hữu. Tại thời ngun thuỷ là hình thức sở hữu cơng hữu, cùng với

sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động dẫn tới sự ra đời
của hình thức tư hữu. Hai hình thức cơng hữu và tư hữu cùng tồn tại cùng với
sự phát triển của xã hội.Hình thức tư hữu phát triển đến đỉnh cao của nó ở
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tại đây nó bắt những tiêu cực của
nó được bộc lộ rõ nét. Theo sự phủ định biện chứng thì hình thức tư hữu sẽ
mất đi và thay thế nó bằng hình thức cơng hữu về tư liệu sản xuất đi cùng nó
là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Cụ thể Ăngghen trình bày vấn đề
sở hữu trong tác phẩm theo dòng thời gian như sau:
Đầu tiên là thời nguyên thuỷ với những đặc điểm xã hội: “Thời thơ ấu
của lồi người. Con người thời đó vẫn sống trong mơi trường ban đầu của
mình, là những khu rừng nhiệt đới hay cận nhiệt đới; họ sống trên cây, ít nhất
cũng là một bộ phận, phải thế thì mới sống sót được, khi mà các lồi thú dữ
lớn vẫn còn. Họ ăn các thứ quả, vỏ và củ. Tiếng nói có âm tiết phát triển là
kết quả chủ yếu của thời kì này.” [15; Tr.47]. “Dân cư sống hết sức thưa thớt,
chỉ ở nơi bộ lạc cư trú thì mới có đơng người, xung quanh đó là một vùng đất
rộng, trước hết là một khu vực dùng làm vùng săn bắn, tiếp đó là một miền
rừng bảo hộ khơng thuộc về bộ lạc nào cả, nó khiến các bộ lạc cách biệt với
nhau. Sự phân công lao động hồn tồn mang tính ngun thủy, chỉ là giữa
nam và nữ thôi. Đàn ông đi đánh trận, săn bắn và đánh cá, tìm thức ăn và
những cơng cụ cần cho việc đó. Đàn bà trơng coi nhà cửa, chuẩn bị cái ăn cái
mặc; họ làm bếp, dệt, may vá. Mỗi bên đều làm chủ trong lĩnh vực hoạt động

14


của mình: đàn ơng làm chủ trong rừng, đàn bà làm chủ ở nhà. Họ cũng làm
chủ những công cụ do mình chế tạo và sử dụng: với đàn ơng, đó là vũ khí, các
cơng cụ để săn bắn và đánh cá; với đàn bà, đó là các dụng cụ gia đình. Kinh tế
gia đình có tính cộng sản, gồm vài gia đình, mà thường là gồm rất nhiều gia
đình. Cái gì được làm ra và sử dụng chung thì là của chung, như nhà cửa,

vườn tược, thuyền độc mộc. Vậy là ở đây, và chỉ ở đây thôi, mới có cái “sở
hữu do chính lao động của mình làm ra” [15; Tr.237].
Từ các dẫn chứng thì có thể thấy trong xã hội nguyên thuỷ, chưa có
phân chia giai cấp và phân chia giữa người thống trị và bị trị, hình thức sở
hữu duy nhất là cơng hữu về tư liệu sản xuất. Ăngghen nhấn mạnh trong xã
hội nguyên thuỷ sự tồn tại của hình thức sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất
là đặc điểm chung ở mọi nơi, mọi dân tộc. Trong xã hội nguyên thuỷ sở hữu
công cộng với tư liệu sản xuất gắn liền với trình độ phát triển thấp của lực
lượng sản xuất, thể hiện ở những công cụ thô sơ, phân công lao động giản
đơn và năng suất lao động thấp. Đương nhiên đó chính là chỗ yếu và là
ngun nhân dẫn đến nó bị thay thế tất yếu bằng hình thái kinh tế xã hội cao
hơn.
Xi theo dịng chảy của lịch sử cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất và phân cơng lao động. Một hình thức sở hữu mới từng bước hình
thành và phát triển. Đó là hình thức sở hữu tư hữu.
Phân công lao động lần thứ nhất
Theo Ăngghen, phân công lao động lần thứ nhất với sự tách ngành
chăn nuôi ra khỏi trồng trọt đã làm xuất hiện quan hệ kinh tế mới giữa các thị
tộc, bộc lạc. Cụ thể: “Họ đã tìm thấy những động vật có thể thuần dưỡng
được, và sau đó, làm chúng sinh sơi nảy nở được trong tình trạng th̀n hóa.
Họ phải săn trâu cái ở trên rừng về; khi đã được thuần hóa, mỗi năm nó sẽ đẻ
một con nghé, và còn cho sữa nữa. Vài bộ lạc tiên tiến nhất - như người Arya,

15


người Semite, có thể là cả người Turan nữa - lúc đầu thì lấy việc thuần dưỡng
gia súc, sau này thì chỉ lấy việc chăn ni và coi giữ gia súc làm công việc
chủ yếu. Các bộ lạc du mục tách rời khỏi số đông những người dã man khác”
[15; Tr.237].

Các bộ lạc du mục không chỉ sản xuất ra nhiều tư liệu sinh hoạt hơn
những dân khác, mà các tư liệu sinh hoạt đó cũng khác. Khơng chỉ có nhiều
sữa, nhiều sản phẩm từ sữa, và nhiều thịt hơn; họ cịn có cả da thú, len, lơng
dê; ngồi ra là nhiều sợi và hàng dệt, vì khối lượng nguyên liệu đã tăng lên.
Vì thế mà lần đầu tiên, đã có thể có sự trao đổi đều đặn. Giờ đây, khi các bộ
lạc du mục đã tách ra, ta thấy mọi điều kiện đều đã chín muồi; để việc trao đổi
diễn ra giữa những người khác bộ lạc với nhau, và để sự trao đổi ấy phát triển,
trở thành một chế độ thường xuyên. Lúc đầu, việc trao đổi giữa các bộ lạc
được tiến hành thông qua các tù trưởng thị tộc, nhưng khi các đàn súc vật bắt
đầu chuyển thành sở hữu riêng rẽ, thì việc trao đổi giữa các cá nhân ngày
càng phổ biến, và sau này thì trở thành hình thức duy nhất. Nhưng vật phẩm
chủ yếu mà các bộ lạc du mục đem trao đổi với láng giềng chính là súc vật;
súc vật trở thành một hàng hóa được dùng để định giá mọi hàng hóa khác, và
ở mọi nơi, đều được người ta vui lòng nhận lấy để trao đổi. Tóm lại, súc vật
đã có chức năng tiền tệ, và đã được dùng làm tiền tệ, ngay từ giai đoạn đó.
Nhu cầu về một hàng hóa đặc biệt, tức là tiền tệ, đã trở nên cần thiết và cấp
bách biết bao; ngay từ lúc mới bắt đầu có sự trao đổi hàng hóa.
Sản xuất tăng lên trong tất cả các ngành - chăn nuôi súc vật, nơng
nghiệp, thủ cơng nghiệp gia đình - làm cho sức lao động của con người có khả
năng sản xuất ra một lượng sản phẩm nhiều hơn mức cần thiết cho sinh hoạt.
Đồng thời, nó tăng thêm lượng lao động hàng ngày mà một thành viên của thị
tộc, công xã, hoặc gia đình cá thể, phải đảm nhận. Do đó mà có nhu cầu thu
hút các nguồn lực lao động mới. Chiến tranh cung cấp các nguồn lực mới này:

16


tù binh đều bị biến thành nô lệ. Cuộc phân công lao động xã hội lớn đầu tiên,
cùng với việc tăng năng suất lao động, tức là tăng của cải, và sự mở rộng lĩnh
vực sản xuất, trong điều kiện lịch sử chung khi đó, nhất định phải đưa tới chế

độ nô lệ. Từ cuộc phân công lao động xã hội lớn đầu tiên, đã nảy sinh sự phân
chia lớn đầu tiên trong xã hội, thành hai giai cấp: chủ nơ và nơ lệ, kẻ bóc lột
và người bị bóc lột.
Có thể thấy với sự phát triển của cơng cụ lao động mà ở đây là đã xây
dựng được các chuồng trại để chăn nuôi, đã dấn đến sự phân công lao động
trong xã hội. Người chăn nuôi và trông trọt được tách ra. Năng suất lao động
bắt đầu tăng lên dẫn tới việc trao đổi hàng hoá xảy ra. Từ đây làm nảy sinh
những người có tài sản dư thừa và từ đây hình thức sở hữu tư hữu ra đời.
Phân công lao động lần thứ hai
Phân công lao động lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp. Bắt đầu bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất, cụ thể là thời đại
của đồ sắt. Các công cụ lao động được sản xuất bằng sắt có đặc tính cứng và
sắc hơn. Điều đó cho phép canh tác trên diện tích lớn hơn, khai hoang được
những miền rừng rú rộng hơn. Dệt, chế tạo đồ kim loại, và các ngành thủ
công khác ngày càng tách khỏi nhau; nhờ đó mà sản phẩm của chúng ngày
càng đa dạng và chất lượng. Sản xuất tăng lên không ngừng, cùng với đó là sự
tăng năng suất lao động, đã làm tăng giá trị sức lao động của con người. Chế
độ nô lệ, ở giai đoạn trước hãy còn mới mẻ và lẻ tẻ, bây giờ là bộ phận chủ
yếu cấu thành chế độ xã hội; nơ lệ khơng cịn là kẻ phụ giúp đơn thuần nữa:
từng tá người một, họ bị đẩy đi làm việc ngoài đồng ruộng và trong xưởng
thợ. Với việc sản xuất được chia làm hai ngành chính: thủ cơng nghiệp và
nơng nghiệp, thì nền sản xuất để trực tiếp trao đổi cũng ra đời: đó là nền sản
xuất hàng hóa. Cùng với đó, thương nghiệp xuất hiện, không chỉ ở trong bộ
lạc, hay là các vùng ranh giới; mà cả với các miền ở hải ngoại nữa. Tuy thế,

17


tất cả những cái đó hãy cịn rất chưa phát triển; các kim loại q dần trở thành
thứ hàng hóa phổ biến và thống trị, nghĩa là trở thành tiền tệ, nhưng chúng

vẫn chưa được đúc thành từng đồng tiền, mà chỉ được đem trao đổi theo khối
lượng.
Bên cạnh sự phân biệt chủ nô với nô lệ là sự phân biệt giàu nghèo giữa
những người tự do; cùng với sự phân công lao động mới, xã hội một lần nữa
phân chia thành các giai cấp.
Phân công lao động lần thứ ba
Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thì dẫn tới sự phân
cơng lao động lần thứ ba. Xuất hiện giai cấp thương nhân, dù họ không tham
gia tí nào vào sản xuất nhưng là giai cấp trung gian không thể thiếu giữa
người sản xuất và tiêu dùng. Họ chiếm quyền lãnh đạo nền sản xuất và nô
dịch những người sản xuất về mặt kinh tế. Giai cấp này mau chóng thu về một
lượng của cải kếch xù, tương ứng với đó là ảnh hưởng xã hội to lớn.
Cùng với thương nhân, thì tiền kim khí, tức là tiền đúc, cũng phát triển;
đó lại là một cơng cụ thống trị mới của kẻ không sản xuất đối với người sản
xuất, và đối với công việc sản xuất. Ai có nó thì sẽ chi phối được thế giới sản
xuất. Và giai cấp chi phối tiền tệ chính thương nhân.
Cùng với sự mở rộng thương mại, cùng với tiền và tệ cho vay nặng lãi,
cùng với quyền tư hữu ruộng đất và chế độ cầm cố, sự tích tụ và tập trung của
cải vào tay một ít người đã diễn ra nhanh chóng.
Giai cấp thương nhân thì giàu lên nhanh chóng đối lập với đó là sự bần
cùng hóa của quần chúng. Và từ đây các giai cấp trong xã hội càng bị phân
chia rõ rệt.
Bức tranh khái lược đó cho chúng ta thấy khơng chỉ sự vận động của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất như thế
nào, mà còn đòi hỏi phải xem xét sự vận động của các hình thức sở hữu trong

18


những bối cảnh của sự vận động xã hội lớn hơn. Măc dù hình thức sở hữu tư

hữu có khơng ít những tác động tiêu cực, nhưng cũng không thể phủ nhận
một thực tế nó là một trong những động lực của sự phát triển lịch sử. Sự khác
biệt giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác với những quan điểm khác là ở chỗ
thấy được sự vận động biện chứng của nó, chứ khơng tuyệt đối hố nó bằng
cách này hay cách khác.
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” Ăngghen đã chỉ ra rằng chế độ tư hữu đạt đến sự phát triển cao nhất,
hoàn chỉnh nhất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, và cũng là lúc
nó bộc lộ đầy đủ nhất những tác động tiêu cực của nó đối với sự phát triển
của xã hội, nó trở thành lực cản đối với sự tiến bộ của xã hội, vì vậy nó bị
thay thế bằng hình thức sở hữu tiến bộ hơn, đó là chế độ cơng hữu về tư liệu
sản xuất ở phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ở đó có lực lượng sản
xuất phát triển ở trình độ cao.
Như vậy, theo Ph.Ăngghen trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước” thì sự phát triển của lực lượng sản xuất, việc phân
công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, cũng như việc tăng cường trao đổi
hàng hóa là nguồn gốc nảy sinh hình thức sở hữu tư hữu.
Dưới cái nhìn biện chứng ta có thể thấy, các hình thức sở hữu tồn tại,
phát triển dựa trên sự phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất ở mức thấp thì tồn tại hình thức sở hữu cơng
hữu. Khi lực lượng sản xuất phát triển ở một trình độ nhất định thì tồn tại các
hình thức sở hữu phù hợp với nó. Và khi lực lượng sản xuất phát triển đến
trình độ cao đạt ở mức xã hội hố thì sở hữu tư hữu mất đi và chỉ còn tồn tại
sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng trong q trình thay đổi ấy các
hình thức sở hữu khơng hồn tồn mất đi khi hình thức sở hữu mới ra đời mà

19


giữa chúng bao giờ cũng có sự giao thoa, các hình thức sở hữu cùng tồn tại

trong hồn cảnh nhất định.
Kết luận chương 1
Như vậy, tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước” của Ph.Ăngghen có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với việc tiếp tục
phát triển và luận chứng cho chủ nghĩa Mác. Cuốn sách của Ph.Ăngghen
mang nội dung giải thích có căn cứ trên quan điểm duy vật biện chứng về lịch
sử loài người ở các giai đoạn phát triển sơ khai của nó. Tác phẩm đã làm rõ sự
phát triển của gia đình, luận giải sự ra đời của các hình thức sở hữu dựa trên
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cũng như luận giải nguồn gốc ra đời,
bản chất của nhà nước và nhà nước chỉ mang tính lịch sử, cũng như dự đốn
sự tiêu vong của nhà nước.
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của vấn đề sở hữu trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” của
Ph.Ăngghen rất cần thiết cho vấn đề sở hữu ở các nước hiện nay. Cuốn sách
của Ph.Ăngghen hiện nay vẫn mang tính thời sự khơng chỉ về mặt phương
pháp luận mà còn trực tiếp cả về phương diện nội dung nữa. Các luận điểm và
kết luận cơ bản của cuốn sách vẫn phù hợp với các vấn đề chính trị - xã hội
hiện nay.

20


CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ SỞ HỮU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái lược quá trình nhận thức của Đảng về sở hữu
Trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ
ràng, sâu sắc hơn về về chủ nghĩa Mác - Lênin, về thực tiễn của đất nước và
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã không ngừng đổi mới quan
điểm về các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Bước đi đầu tiên được đánh dấu ở Hội nghị Ban chấp hành Trung ương

6 (khoá IV), Đảng thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, thừa
nhận sự tồn tại của kinh tế hộ xã viên với tư cách một bộ phận hợp thành của
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ngày 13/1/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng
ra Chỉ thị 100CT/TƯ, đây là bước khởi đầu cho quá trình đổi mới, xây dựng
cơ chế quản lý Nhà nước nói chung và hợp tác xã nói riêng. Mục tiêu Đại hội
đưa ra là, căn cứ vào tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất để áp dụng
những hình thức khác nhau: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
gia đình xã viên và giữa các thành phần kinh tế này có sự liên kết hỗ trợ nhau.
Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đã cho thấy q trình hồn
thiện vấn đề sở hữu xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần bám sát tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Hay căn cứ vào trình độ kỹ thuật ở mức độ cao cấp
khác nhau và quy mô sản xuất lớn nhỏ khác nhau, tuỳ theo từng đối tượng
trên từng địa bàn mà áp dụng hình thức kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể,
kinh tế xã viên hay kinh tế cá thể một cách phù hợp. Các hình thức này không
tồn tại độc lập mà liên kết với nhau, có quan hệ tương tác, thúc đẩy nhau cùng
phát triển trong một hệ thống phân công xã hội và chịu sự quản lý thống nhất,
có kế hoạch của nhà nước, đặc biệt cần phải thiết lập và mở rộng mối quan hệ
kinh tế xã hội chủ nghĩa trực tiếp giữa nhà nước với hợp tác xã và tập đoàn
sản xuất với kinh tế gia đình xã viên và nơng dân cá thể.

21


×