Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Một số kiến nghị về công tác kế toán chi phí và tính giá tại Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.06 KB, 20 trang )

PHẦN 3:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÊ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CTCPCKLM SÔNG ĐÀ
3.1 Đánh giá thực trạng công tác kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại
Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
3.1.1 Những ưu điểm của công tác kế toán chi phí và tính giá thành tại công ty cổ phần
cơ khí lắp máy Sông Đà
Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà mới được thành lập từ năm 2004 và hoạt động
tới ngày nay. Thời gian đó không dài nhưng những người làm công tác kế toán tại công ty đã
nổ lực hết mình vượt qua những khó khăn để hoàn thành tốt những công việc đã được
giao.Bộ máy kế toán đã thực hiện tốt công tác tập hợp chi phí và tính giá thành cho các công
trình mà công ty dã thi công, đảm bảo số liệu kế toán hợp lý và cung cấp đầy đủ, kịp thời cho
ban giám đốc công ty.Vì thế, công tác kế toán tại công ty có những ưư điểm rất rõ nét ở tất cả
các khâu trong quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành
Thứ nhất,về bộ máy kế toán của công ty.Bộ máy kế toán của công ty tuy số lượng không
nhiều,trình độ chuyên môn chưa đồng đều nhưng đã nổ lực hết mình để hoàn thành tốt công
tác được giao dù phải vượt qua rất nhiều khó khăn cả chủ quan và khác quan.Những người
làm công tác kế toán tại đây phải tới từng công trình đang thi công để tiến hành các công tác
nghiệp vụ chi tiết,tổng hợp những sôd liệu phục vụ cho quá trình tổng hợp chi phí.Các công
trình thủy điện thường ở địa bàn xa xôi, hiểm trở là những khó khăn cơ bản đối với quá trình
đi tập hợp.Tuy nhiên, trong gần 4 năm từ ngày thành lập tới nay,phòng kế toán công ty và
phòng kế toán của các chi nhánh vẫn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự
thong suốat của hệ thống thong tin kế toán cho công tác lãnh đạo và quản lý của công ty
Thứ hai,về tổ chức công tác hạch toán tại công ty.Công ty đã có những phương pháp
hạch toán phù hợp với tình hình hiện nay của công ty cả về nguồn lực con người, điều kiện về
cơ sở vật chất.Hệ thống tài khoản kế toán được xác lập đầy đủ,phù hợp những quy định của
Bộ tài chính cũng như tình hình thực tế của công ty.Hệ thống tài khoản kế toán đảm bảo tính
khoa học như dễ phân biệt các tài khoản,dễ thay đổi mội số tài khoản hay thêm các tài khoản
con cho phù hợp với điều kiện hạch toán của công ty.
Hệ thống sổ sách của công ty là hệ thống sổ theo hình thức nhật ký chung,rất thuận tiện
cho công tác kế toán của công ty,dễ sữ dụng và đảm bảo được những yếu tố thong tin.Công ty


đã áp dụng phần mềm kế toán trong quá trình hạch toán nên đã giảm tải được rất nhiều những
phần việc kế toán thủ công,chính xác hơn và thuận tiện hơn trong khi thực hiện.
Do có phần mềm kế toán nên các báo cáo tài chính có thể được lập ở mọi thời điểm trong
kỳ kế toán,cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin cho những đối tượng có liên quan.Các báo
cáo chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,báo cáo luân chuyển tiền
tê,thuyết minh báo cáo tài chính đã được lập vào cuối mỗi kỳ kế toán nên luôn được chuẩn bị
rất chu đáo.Báo cáo tài chính cuối năm luôn được công bố kịp thời và được kiểm toán phù hợp
những quy định hiện hành.Bên cạnh đó,bước đầu công ty cũng đang tiến hành lập những báo
cáo kế toán quản trịn theo những quy định mới nhất của Bộ tài chính cũng như những quy
định của Hội đồng quản trị của công ty
Thứ ba,công tác kế toán chi phí và tính giá thành cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra
trong tình hình hiện nay của công ty.Nhất là khi số lượng công trình thi công ngáy càng nhiều
hơn, độ phức tạp tăng lên nhiều lần,khối lượng thi công và thời gian thi công vì thế cũng tăng
lên.Cho nên,việc đáp ứng được nhu cầu thông tin kế toán đã là những nổ lực rất lớn của những
người làm kế toán tại công ty
-Kế toán chi phí nguyên vật liều trực tiếp đã sữ dụng phương pháp phù hợp nhằm tăng cường
hiệu quả và thời gian tiến hành hạch toán chi tiết.Công ty đã tách biệt rõ ràng 2 loại nguyên vật
liệu cơ bản với nhau. Đó là nguyên vật liệu công ty mua về, được bảo quản trong kho rồi đem
ra sữ dụng với nguyên vật liệu được nhà cung cấp chuyển trực tiếp tới chân công trình.Quy
trình hạch toán có khác nhau về cơ bản. Đây cũng là nét đặc biệt của các công ty xây lắp
-Kế toán tiền lương công nhân viên cũng đã thực hiện tối quá trình hạch toán của mình phải
luồng khắc phục những khó khăn của quá trình tập hợp chi phí tiền lương tại 1 công trình rất
xa.Nhất là trong điều kiện công ty vừa có lao động hợp đồng dài hạn và những lao động thời
vụ ngắn hạn
-Công ty cũng đã quản lý chặt chẽ các khoản chi phí sản xuất chung phát sinh trong quá trình
tập hợp chi phí cho từng hạng mục cong trình. Điều này có thể thực hiện tốt vì công ty đã lên
kế hoạch chi tiết các khoản chi phí sản xuất chung có thể phát sinh trong kỳ kế toán nên
thường không có khoản chi phí bất ngờ ngoài dự kiến, đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch chi phí
và giá thành được lập từ đầu kỳ
Tóm lại,những ưu điểm của công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi

phí và tính giá thành nói riêng thực sự đã được thể hiện trong quá trình hạch toán chi phí và giá
thành của công ty. Điều này chính là cơ sở cho hoạt động cung cấp thông tin kế toán cho các
bên lien quan tới doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.Tuy nhiên,bên cạnh những ưu điểm
đã đạt được,công tác kế toán còn gapự phải những hạn chế nhất định do cả nguyên nhân chủ
quan cũng như khách quan. Điều này sẽ được trình bày cụ thể ở phần tiếp theo
3.1.2 Một số vấn đề còn tồn tại trong công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá
thành
Trong quá trình hạch toán kế toán của công ty, hạch toán tập hợp chi phí và tính giá
thành có vai trò quan trọng, quyết định rất lớn tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
và lợi nhuận thu được. Bộ máy kế toán công ty với vai trò chính trong công tác này đã
khắc phục được rất nhiều khó khăn, vướng mắc cả chủ quan và khách quan để hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Thông tin kế toán cả chi tiết và tổng hợp bám sát hoạt động thi
công của từng công trình, hạng mục công trình và đã cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác
cho Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc của công ty. Tuy nhiên, hoạt động hạch toán tổng
hợp và tính giá thành vẫn không tránh khỏi một số điểm bất cập, chưa hợp lý và cần liên
tục điều chỉnh cho hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế.
3.1.2.1 Mối quan hệ giữa dự toán, giá thành thực tế, giá thành kế hoạch
Khác với các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, CTCPCKLM Sông Đà
là một doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực xây lắp. Quá trình hạch toán chi phí giá thành vì
vậy cũng có những điểm đặc thù nhất định. Thứ nhất, mỗi hạng mục công trình được hạch
toán chi tiết riêng và từ đó xác định trực tiếp giá thành của công trình đó. Cuối kỳ, công ty
mới tổng hợp số liệu chi phí -giá thành của toàn bộ công ty.Thứ hai, mỗi hạng mục công
trình phải được lập dự toán chi tiết riêng, để có thể so sánh kiểm tra chi phí xây lắp phát
sinh với dự toán chi phí sản xuất được phân loại theo chi phí nguyên vậy liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. Thứ ba, dựa
vào dự toán đó, công ty phải lên một bảng giá thành kế hoạch chi tiết cho từng hàgj mục
công trình theo những định mức kinh tế- kỹ thuật của Bộ Xây dựng, Hội đồng Quản trị quy
định. Thứ tư, trong hệ thống các loại chi phí, có cả chi phí sử dụng máy thi công. Đây là
một khoản mục chi phí khá đặc biệt, chỉ có tại các công ty xây lắp. Khoản mục này phản
ánh tất cả các loại chi phí (chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sản xuất

chung) phục vụ cho đội máy thi công.
Qua quá trình phân tích trên, ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của việc lập dự
toán, giá thành kế hoạch. Tập hợp chi phí và tính giá thành thực tế. Nó có một mối quan
hệ rất logic, đảm bảo sự ổn định của toàn bộ quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành . Vì
vậy, việc liên tục đối chiếu, so sánh, điều chỉnh dự toán, giá thành kế hoạch, chi phí và giá
thành thực tế là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, tại công ty, vẫn còn một số vướng mắc
trong khâu này, làm giảm hiệu quả của quá trình hạch toán chi phí-giá thành.
Thứ nhất, dự toán được lập theo quy định của Bộ Xây dựng. Vì vậy, những quy định
đó có thể nhiều chỗ chưa thể phù hợp với tình hình thực tế các công trình tại công ty. Điều
này là một trở ngại nếu quá trình lập dự toán mà số liệu không hợp lý cũng như thiếu chính
xác so với thực tế. Việc lập giá thành kế hoạch tuy chi tiết hơn dự toán nhưng phải tuân thủ
những định mức kinh tế - kỹ thuật nhất định. Đây chưa hẳn là một quy định phù hợp. Bởi
lẽ, mỗi công trình, hạng mục vr có quy mô, thời gian xây lắp, độ khó về kỹ thuật,… khác
nhau. Những vấn đề thực tế phát sinh cũng khác nhau. Vì vậy, phòng Kinh tế - Kế hoạch là
đơn vị tổ chức lập dự toán và tính giá thành kế hoạch luôn gặp những khó khăn nhất định.
Thứ hai, quá trình tập hợp chi phí và tính giá thành do các đội kế toán tại các chi
nhánh thực hiện. Cuối kỳ, số liệu được chuyển về và được phòng Kế toán tập hợp số liệu
cho toàn công ty. Xét một cách tổng thế, mối quan hệ đối chiếu, so sánh, điều chỉnh giữa
dự toán, giá thành kế hoạch và giá thành thực tế là chưa chặt chẽ. Bởi vì, đây phải trở
thành một quá trình liên tục. Nhưng tại công ty, cũng như tại các đơn vị xây lắp khác,
khoảng thời gian lập drm giá thành kế hoạch và giá thành thực tế là khác nhau, đôi khi rất
xa về thời gian.
Thông thường, dự toán được lập khi công trình chưa đưa vào thi công. Giá thành kế
hoạch lập khi công trình chuẩn bị tiến hành thi công và giá thành thực tế tiến hành thực
hiện khi công trình đã hoàn thành. Khoảng cách thời gian đói với các công trình, hạng mục
công trình lớn ở đây có thể là vài năm (thậm chí là từ 5 đến 10 năm). Vì vậy, khi tổ chức so
sánh các khoản mục chỉ tiêu giữa các bảng, có sự chênh lệch rất lớn, nhất là khi số liệu do
hai phòng ban khác nhau của công ty thiết lập. Vì vậy, đôi khi, quá trình lập dự toán và giá
thành kế hoạch chỉ thực hiện cho đủ theo quy định của Bộ Xây dựng chứ chưa hẳn là một
quá trình tất yếu phải thực hiện do đòi hỏi của nhiệm vụ kế toán.

3.1.2.2 Những khó khăn trong quá trình tập hợp chi phí cho từng công trình
Tại các công ty xây lắp nói chung, tại CTCPCKLM Sông Đà, quá trình tập hợp chi phí
công trình, hạng mục công trình là hết sức khó khăn và phức tạp. Điều này xuất phát từ
những điều kiện chủ quan và khách quan.
Thứ nhất, quy mô của công ty hiện nay rất lớn và đang ngày càng mở rộng. Công ty
đang tổ chức thi công gần 30 công trình lớn trên ba miền đất nước và tại Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào, những nơi có điều kiện thi công rất khó khăn. Vì vậy, tổ chức công tác
hạch toán là rất khó khăn. Các chi nhánh phục trách các công trình cụ thể phải tổ chức cán
bộ tới tận công trình, thu thập chứng từ, ghi sổ và chuyển thông tin.
Thứ hai, thời gian thi công một công trình thường rất dài, chịu ảnh hưởng của những
yếu tố điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, rất nhiều khoản mục chi phí biến động tăng và phát
sinh nhiều khoản chi phí khác. Điều này gây khá nhiều khó khăn cho những người làm
công tác kế toán, ảnh hưởng tới quá trình theo dõi, kiểm soát chi phí xây lắp.
Thứ ba¸hiện nay, ngành nghề kinh doanh của công ty là khá đa dạng và ngày càng đa
dạng hơn (lắp máy, gia công máy, sản xuất một số mặt hàng dùng cho xây lắp,…). Vì vậy,
tính chất hoạt động của bộ máy kế toán công ty cũng ngày càng phức tạp và đa dạng hơn.
Quá trìn hạch toán sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc điểm tình
hình kinh doanh. Ví dụ: sản phẩm lắp ráp, chế tạo hạch toán như tại doanh nghiệp sản xuất
hàng hóa, các công trình hạch toán theo mô hình các doanh nghiệp xây lắp,…Đây là một
trở ngại lớn nếu bộ máy kế toán tổ chức tập hợp chi phí cuối kỳ.
Đánh giá một cách tổng quát, công tác kế toán tập hợp chi phí tại công ty là nhiệm vụ
quan trọng nhất của phòng Kế toán. Nhiệm vụ của công tác này là hết sức nặng nề, ảnh
hưởng quyết định tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Tuy vậy, công tác
kế toán tập hợp chi phí luôn là khâu rất khó khăn, phức tạp, nhất là đối với các công ty xây
lắp lớn như CTCPCKLM Sông Đà. Những người làm công tác kế toán của công ty phải tỏa
đi khắp miền đất nước, khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên, điều kiện cơ sở
vật chất khó khăn để hoàn thành công tác kế toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Quá
trình tập hợp chi phí cho từng công trình, hạng mục công trình rất khó khăn nhưng quá
trình tổng hợp chi phí toàn công ty cuỗi mỗi kỳ kế toán thực sự còn khó khăn và phức tạp
hơn nữa. Nguyên nhân là do quá trình cân đối,bù trừ các khoản chi phí giữa các chi nhánh

để lên được một báo cáo chi phí, giá thành phù hợp với tình hình, phản ánh đúng nhất với
những biến động, phát sinh trong qua trình thi công các công trình. Mặt khác, đây là nguồn
thông tin rất quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Giám
đốc công ty.
3.1.2.3 Ảnh hưởng của sự thay đổi biến động các loại chi phí trong quá trình hạch toán
tập hợp chi phí và tính giá thành
Công trình xây lắp chịu ảnh hưởng biến động của giá các loại nguyên vật liệu đầu vào,
của việc tăng lương, tăng giá xăng dầu,…Vì vậy, trong điều kiện kinh tế Việt Nam như
hiện nay, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tốc độ lạm phát là rất cao, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới
chi phí, giá thành các công trình đang thi công. Nhất là đối với các công trình thi công
trong thời gian dài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu, nhân công, vấn đề này vàng trở lên
quan trọng hơn. Năm 2007, lạm phát tăng tới 12,63%. Giá các loại xi măng, sắt thép, gạch
xây dựng, xăng dầu,..tăng nhanh. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với quá trình hạch
toán tập hợp chi phí và tính giá thành . Bởi vì, công ty phải liên tục điều chỉnh dự toán, giá
thành kế hoạch, giá thành thực tế cho phù hợp với những quy định của Bộ Xây dựng và
tình hình thực tế. Bên cạnh đó, công ty phải áp dụng một loạt các biện pháp cắt giảm chi
phí, thực hành tiết kiệm trong quá trình thi công.
Thứ nhất, chi phí nguyên vật liệu tăng quá nhanh. Từ năm w2007 tới nay, giá sắt thép,
xi măng tăng từ 20 - 30%, giá gạch xây dựng tăng gấp 3 lần. Trong thi công, chi phí
nguyên vật liệu lại chiếm tới hơn 60% chi phí thi công. Vì vậy, biến động giá nguyên vật
liệu đầu vào làm cho tổng chi phí tăng lên rất nhanh. Giá thành thực tế cũng vì thế mà phải
điều chỉnh liên tục cho phù hợp với tình hình thực tế.
Thứ hai, tiền lương liên tục được Chính phủ điều chỉnh qua các namw. Mới đây nhất, cuối
năm 2007, lương cơ bản tăng từ 450.000 đồng lên tới 540.000 đồng. Vì vậy, tổng mức chi phí
lương (lương, các khoản trích lập theo lương, thưởng, phụ cấp,…) đồng loạt tăng lên, trunh
bình tăng 15 – 20%.
Thứ ba, các khoản chi phí máy thi công cũng tăng nhanh do giá xăng dầu liên tục tăng
và hiện tại đang ở mức cao. Giá lương thực, thực phẩm cũng tăng liên tục, trunh bình 20 –
30% nên ảnh hưởng lớn tới bữa ăn ca của công nhân viên, cán bộ kỹ sư đang thi công trên
công trường.

Do biến động giá liên tục trong năm 2007 và quý I/2008, Bộ Xây dựng vừa ban hành
Thông tư số 05/2008/TT - BXD ngày 22 tháng 2 năm 2008 hướng dẫn điều chỉnh dự toán
công trình xây dựng khi có biến động giá nguyên vật liệu. Tuy nhiên, bên cạnh những tác
dụng của công việc này, công ty vẫn phải chịu những thiệt hại lớn, ảnh hưởng tới quá trình
thi công.
Dự toán các công trình xây lắp của công ty đều được điều chỉnh. Tuy nhiên, mức độ
điều chỉnh không thể đủ bù đắp những thiệt hại của công ty, nhất là những công trình đã
lập dự toán trong thời gian dài và thi công có những phát sinh không nằm trong dự toán.
Bên cạnh đó, giá thành kế hoạch liên tục phải thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế.
Vì vậy, quá tình tập hợp chi phí và tính giá thành của công ty phải đối mặt với những khó
khăn tương đối lớn. Điều này là không thể lường trước được. Bởi vì giá cả trong nước và
thế giới của cá mặt hàng trên vẫn biến động rất mạnh trong năm 2008 và trong thời gian kế
tiếp. Cho nên, nững người làm công tác kế toán phải đối mặt với những thách thức lớn đặt
ra hiện nay như: thứ nhất, lên được kế hoạch chi phí – giá thành cho các công trình, nhất là
những công trình có khối lượng thi công lớn, thời gian dài và phức tạp. Thứ hai, dự báo
được phần nào xu hướng biến động giá, giúp Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốccos
những quết định phù hợp. Thứ ba, bằng những biện pháp kịp thời, phải rà soát kiểm tra
nhằm cắt giảm những khoản chi phí không hợp lý, tránh độn giá công trình.
3.1.3 Tính tất yếu khách quan của việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí và tính
giá thành tại công ty Cổ phần cơ khí lắp máy Sông Đà
Công ty CPCKLM Sông Đà trong thời gian qua đã có những bước tiến vượt bậc trong
nhiều lĩnh vực xây lắp. Những yếu tố như doanh thu, thị phần, khối lượng xây lắp,…đều
tăng nhanh. Tiềm lực và uy tín của công ty vì vậy cũng có những phát triển. Dự kiến trong
thời gian tới của công công ty với những kế hoạch táo bạo sẽ trở thành một đơn vị xây lắp
hàng đầu Việt Nam. Vì vậy, công tác tập hợp chi phí và tính giá thành đang đứng trước rất
nhiều khó khăn, phức tạp mới trong tương lai, phải nhanh chóng nâng cao chất lượng
thông tin trước đòi hỏi ngày càng cao của công ty cũng như môi trường cạnh tranh bên
ngoài ngày càng quyết liệt.
Sản phẩm xây lắp của công ty ngày càng đa dạng hơn. Trước đây, công ty chủ yếu
thực hiện lắp máy cho các công trình thủy điện nhỏ và vừa thì tới nay ngày càng tham gia

vào nhiều lĩnh vực như gia công chế tạo, lắp máy thủy điện, lắp máy xi măng, xây dựng
chung cư, nhà cao tầng và nhiều lĩnh vực khác. Quy mô của các công trình ngày càng lớn,
kết cấu phức tạp, thời gian thi công dài,…Vì vậy, việc quản lý các yếu tố chi phí thực sự
ngày càng trở thành một vấn đề lớn hết sức phức tạp, khó khăn. Quá trình lập dự toán (dự
toán thiết kế, dự toán thi công) và trong quá trình xây lắp phải liên tục so sánh với dự toán
là một đặc điểm riêng mà những người làm kế toán tại công ty xây lắp phải chú ý. Mặt
khác, trong điều kiện hiện nay, dự toán phải liên tục điều chỉnh, gây ảnh hưởng tới việc
theo dõi, đối chiếu các khoản chi phí phát sinh, nhất là khi rủi ro thi công lớn, có nhiều
khoản chi phí ngoài dự toán để khắc phục hậu quả.

×