Tải bản đầy đủ (.doc) (232 trang)

luận án tiến sĩ nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 232 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NG THIỆN HỒNG

N¢NG CAO CHÊT LƯợNG ĐộI NGũ GIảNG VIÊN
ở CáC TRUNG TÂM GIáO DụC QUốC PHòNG Và AN
NINH HIệN NAY

LUN N TIN S KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2020


2

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NG THIỆN HỒNG

N¢NG CAO CHÊT LƯợNG ĐộI NGũ GIảNG VIÊN
ở CáC TRUNG TÂM GIáO DụC QUốC PHòNG Và AN
NINH HIệN NAY

Chuyờn ngnh: Xõy dng ng và Chính quyền Nhà nước
Mã số

: 931 02 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS Nguyễn Quang Phát
2. PGS. TS Phạm Gia Cư


3

HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình
nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng và
khơng trùng lặp với các cơng trình hoa học đã
cơng bố.
Tác giả luận án

ng Thiện Hoàng


4

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU

Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CĨ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có liên quan đến đề tài
1.2.
1.3.

luận án
Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
luận án
Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
cơng bố liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án
cần tập trung nghiên cứu

Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
2.1.
Các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh, chất lượng
2.2.

đội ngũ giảng viên ở các trung tâm giáo dục quốc phịng và
an ninh
Quan niệm, những vấn đề có tính nguyên tắc, tiêu chí đánh
giá nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trung tâm
giáo dục quốc phòng và an ninh

Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRUNG
TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

3.1.
Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các
3.2.

5
9
9
15
24
29
29
53
73

trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh
73
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên ở các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh
99

Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRUNG TÂM
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH HIỆN NAY
111
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên ở các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay
111
4.2.
Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên

ở các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay
122
KẾT LUẬN
161


5

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
164
PHỤ LỤC
181


6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1.

An ninh nhân dân


ANND

2.

Cán bộ, công chức

CBCC

3.

Chiến tranh nhân dân

CTND

4.

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

5.

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH,HĐH

6.

Đội ngũ cán bộ


ĐNCB

7.

Đội ngũ giảng viên

ĐNGV

8.

Giáo dục đại học

GDĐH

9.

Giáo dục quốc phòng

GDQP

10. Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

11. Học sinh, sinh viên

HS,SV

12. Kinh tế - xã hội


KT-XH

13. Nhà trường quân đội

NTQĐ

14. Nghiên cứu khoa học

NCKH

15. Quốc phịng, an ninh

QP,AN

16. Quốc phịng tồn dân

QPTD

17. Quốc phòng và an ninh

QP&AN

18.

SV

Sinh viên

19. Sĩ quan quân đội


SQQĐ

20. Trong sạch, vững mạnh

TSVM

21.

VMTD

Vững mạnh toàn diện

22. Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án


7

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN trong xu thế tồn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, địi hỏi Đảng, Nhà nước, nhân dân ta phải chăm lo xây dựng nền
QPTD, nền ANND; thế trận QPTD dân gắn với thế trận trận ANND vững chắc;
xây dựng thế trận CTND và lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, cần tiến
hành giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức, HS,SV và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn cả nước, nhằm nâng cao ý
thức bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng lực lượng, tiềm lực, thế trận QP&AN, mà
trước hết là tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân” vững chắc, sẵn sàng

bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống khơng để bị động, bất ngờ.
Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về giáo dục QP&AN, các trung tâm giáo dục QP&AN trên phạm vi cả nước
đã được thành lập nhằm tiến hành công tác giáo dục QP&AN cho SV, bồi dưỡng
kiến thức QP&AN cho CBCC, học viên theo đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra. Giáo
dục QP&AN cho SV là bộ phận quan trọng hợp thành chương trình, nội dung
GD&ĐT của các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng trong toàn quốc; được thực hiện
chủ yếu ở các trung tâm giáo dục QP&AN. ĐNGV ở các trung tâm giáo dục
QP&AN là một bộ phận trong ĐNGV ở các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng trong
cả nước - lực lượng trực tiếp giáo dục QP&AN cho SV, bồi dưỡng kiến thức
QP&AN cho các đối tượng theo quy định của Chính phủ, góp phần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm, hồn thiện nhân cách của cán bộ, công chức, sinh viên đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Chất lượng giáo dục
QP& AN cho SV, bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng phụ thuộc rất
lớn vào chất lượng của ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN.
Nhận thức rõ vị trí, vai trị tầm quan trọng của ĐNGV ở các trung tâm giáo
dục QP&AN, những năm qua, Bộ GD&ĐT cùng với Bộ Quốc phòng, trực tiếp là
ban giám đốc, ban giám hiệu hiệu các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng trong cả
nước đã có nhiều biện pháp nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục
QP&AN đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu, yêu cầu giáo dục QP&AN cho SV ,
bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm đã đạt được việc nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục


8

QP&AN còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện. Điều kiện, tiêu chuẩn giảng viên có
những điểm chưa phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho cơng tác tạo nguồn,
tuyển chọn. Số lượng giảng viên cịn có tình trạng lúc đủ, lúc thiếu; cơ cấu đội

ngũ còn một số yếu tố chưa hợp lý so với chức trách, nhiệm vụ của giảng viên.
Một bộ phận trong ĐNGV cịn có những biểu hiện hạn chế về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, trong giải quyết các mối quan hệ xã hội; kiến thức lý luận chính
trị, ngoại ngữ, tin học, năng lực giảng dạy môn giáo dục QP&AN, phương pháp,
tác phong công tác có mặt cịn hạn chế nhất định đã tác động, ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang có những biến động nhanh
chóng, phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố khó đốn định. Trong nước, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và lực mới để đất nước
tiến lên; chúng ta còn phải đối mặt với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch; nhiều nguy cơ thách thức mới không thể xem thường. Nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ QP&AN, nhiệm vụ GD&ĐT đã và đang đặt ra yêu cầu mới ngày càng
cao đối với ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục QP&AN ở các trung tâm giáo dục
QP&AN trong điều kiện mới đòi hỏi cần tập trung thực hiện chuẩn hóa ĐNGV
theo Luật GDĐH, nâng cao chất lượng ĐNGV giáo dục QP&AN ngang tầm nhiệm
vụ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục QP&AN cho SV, bồi dưỡng kiến thức
QP&AN cho các đối tượng. Từ những lí do trên, tác giả chọn vấn đề: “Nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh
hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Đây
là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn; đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu


9


Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án; xác định
những vấn đề luận cần án tập trung giải quyết.
Làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng ĐNGV
ở các trung tâm giáo dục QP&AN.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN.
Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng ĐNGV ở các
trung tâm giáo dục QP&AN hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN là đối
tượng nghiên cứu của luận án.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng
và nâng cao chất lượng ĐNGV ở 32 trung tâm giáo dục QP&AN thuộc các
NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng trong toàn quốc. Điều tra, khảo sát thực tế, thu
thập thông tin, tập trung chủ yếu ở các trung tâm giáo dục QP&AN trọng điểm
trên cả ba miền của đất nước. Tư liệu, số liệu phục vụ cho luận án được giới hạn
chủ yếu từ năm 2011 đến nay. Các giải pháp có giá trị ứng dụng đến năm 2025,
định hướng vận dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Là hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
GD&ĐT, giáo dục QP&AN; về cán bộ và công tác cán bộ; về xây dựng ĐNGV ở
các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng.
Cơ sở thực tiễn
Thực tế hoạt động của đội ngũ giảng viên ở các trung tâm giáo dục
QP&AN, thực trạng chất lượng và nâng cao chất lượng ĐNGV ở các Trung tâm
giáo dục QP&AN. Các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác giáo dục QP& AN, công



10

tác xây dựng ĐNCB, ĐNGV ở các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng, các trung tâm
giáo dục QP&AN, các số liệu khảo sát của tác giả luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành;
trong đó chú trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, lơgic, lịch sử, thống kê, so
sánh, điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và luận giải làm rõ quan niệm chất lượng và nâng cao chất lượng
ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN
Khái quát một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung
tâm giáo dục QP&AN.
Đề xuất giải pháp, trong đó có một số nội dung, biện pháp mới có tính khả
thi để nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm lý luận về giáo
dục, bồi dưỡng kiến thức QP&AN, xây dựng ĐNGV ở các trung tâm giáo dục
QP&AN; cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho các cơ quan chức năng của
Bộ GD&ĐT, Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
các đảng ủy, ban giám đốc, ban giám hiệu các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng,
các trung tâm giáo dục QP&AN trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng
ĐNGV ở các trung tâm giáo dục QP&AN hiện nay. Luận án có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong giảng dạy, NCKH ở các NTQĐ, cơ sở GDĐH, cao đẳng,
các trung tâm giáo dục QP&AN.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, các cơng trình của tác giả

đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


11

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về quốc phịng, an ninh và giáo dục
quốc phịng và an ninh
V.A.Xu-khơm-lin-xki (1961), Hình thành niềm tin Cộng sản cho thế hệ trẻ
[171], Xu-khôm-lin-xki đã nghiên cứu để tìm ra những con đường tốt nhất để nâng
cao chất lượng giáo dục. Ông đã làm nổi bật các mặt cấu thành quá trình hình thành
niềm tin cộng sản cho thế hệ trẻ. Ông cho rằng, niềm tin cộng sản là nguồn gốc sức
mạnh ý chí của cá nhân và việc hình thành niềm tin cộng sản là yêu cầu tất yếu
khách quan của sự tiến bộ xã hội và đạo đức xã hội. Để xây dựng niềm tin cộng sản
cho thế hệ trẻ, nhà giáo dục cần phải xây dựng chương trình, nội dung cài xen ngay
trong trong nhà trường phổ thông đến các bậc học cao hơn cho HS,SV. Gắn việc
truyền thụ tri thức khoa học, những hiểu biết về lịch sử, truyền thống dân tộc, tình
yêu Tổ quốc... với rèn luyện kỹ năng quân sự, quốc phịng và các hoạt động ngoại
khóa - những tổ chức cộng sản trẻ tuổi trong nhà trường [171, tr.5,6].
A.T.An-tu-nin (1980), Phòng thủ dân sự [1]. Tác giả khẳng định: Phòng
thủ dân sự cần phải được huấn luyện cho lực lượng vũ trang và nhân dân Liên
Xô, là sự nghiệp của mọi người dân và cả nước. Lực lượng vũ trang và người dân
Liên Xô đều phải nắm vững kiến thức cơ bản về phòng thủ dân sự để sẵn sàng
hành động, đáp ứng các điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh. Nội dung huấn
luyện quân sự, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về phòng thủ dân sự cho lực lượng
vũ trang và người dân Liên Xơ phải tồn diện, bao gồm cả về phẩm chất chính trị,

tinh thần, kỷ luật và tâm lý; những kiến thức cần thiết và quy tắc về phịng
tránh đánh trả vũ khí huỷ diệt lớn; kĩ năng để tham gia vào các biện pháp
phịng thủ dân sự... Hình thức, biện pháp huấn luyện, bồi dưỡng phải phong
phú, linh hoạt, sát thực tiễn chiến đấu; chú trọng huấn luyện một cách có tổ
chức, có kỷ luật; tổ chức cho lực lượng vũ trang và người dân tham gia các
cuộc diễn tập ở cơ sở; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, kể chuyện


12

truyền thống, xem phim tài liệu và xem truyền hình về các vấn đề phòng thủ
dân sự… Đồng thời, mỗi công dân và lực lượng vũ trang Liên Xô phải “thường
xuyên tự mình học tập, rèn luyện” [1, tr.31].
Chương Tư Nghị (1986), Cơng tác chính trị của Qn Giải phóng nhân
dân Trung Quốc [131]. Theo tác giả, để giành thắng lợi trong cuộc chiến chống
ngoại xâm, nhất thiết phải chuản bị tốt về mọi mặt từ thời bình, trong đó có chuẩn
bị nhân dân, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo tập trung thống
nhất của Nhà nước trong thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phịng như xây
dựng, huấn luyện lực lượng dân qn; cơng tác tuyển quân; công tác xây dựng và
huy động quân dự bị… Đặc biệt, phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức QPAN cho mọi đối tượng, đặc biệt là tuổi trẻ và cán bộ các cấp.
Ơng nhấn mạnh: Cấp ủy đảng và chính quyền địa phương các cấp cần làm tốt
công tác giáo dục, thống nhất nhận thức trách nhiệm công dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc; đề cao công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng trong
trường học, các bậc học khác nhau. Các thầy giáo, cô giáo phải đề cao nhiệm vụ
này trước Đảng và trước Tổ quốc [131, tr.700].
N.I.Nie-kra-xốp (1987), Công tác tổ chức giáo dục thể thao quốc phịng
trong trường học [135]. Cơng trình khoa học bàn về việc tổ chức các hoạt động
thể thao quốc phòng trong hệ thống trường học ở Liên Xơ. Cơng trình khoa học
này đã tổng kết quá trình hoạt động của Hội tình nguyện giúp đỡ lực lượng Hải

quân, Lục quân và Phịng khơng, Khơng qn ở Liên Xơ (gọi tắt là hội Đô-xáp)
trong các trường học nhằm giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức cảnh
giác cách mạng; huấn luyện những kiến thức, kĩ năng quân sự, quốc phòng cần
thiết cho HS,SV. Tác giả đã luận giải rõ các chi hội Đơ-xáp có vai trị quan trọng,
nhằm giúp HS,SV thực hiện “ước mơ trở thành những phi công anh dũng, những
người chinh phục không gian bao la, những thủy thủ can đảm, những nhà chế tạo
máy bay và động cơ, những nhân viên điện đài khéo léo, nhà sáng chế các cơng
trình vơ tuyến điện độc đáo” [135, tr.7]; giúp HS,SV không những thành thạo kĩ
năng QP,AN cần thiết như bắn súng giỏi, bơi lội, chèo thuyền, hành quân bộ, lái
mơtơ, ơtơ, nhảy dù… mà cịn giúp họ sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


13

N.I.Nie-kra-xốp dẫn lời của Anh hùng Liên Xơ Lakop Feđơtơvích Pavơlốp
trong cuốn Tơi đã học tập được gì trong hội quốc phịng (do Nhà xuất bản Đơ-xáp
ấn hành năm 1955) rằng: “Ngay từ bây giờ, lúc mà bạn còn chưa mặc áo lính, bạn
hãy học tập một cách kiên trì tất cả những cái gì cần thiết trong chiến tranh. Bạn
cần phải biết đào công sự giỏi, phải biết bơi, biết bò, biết trườn” [135, tr.8]. Tác
giả nhấn mạnh, học sinh phải hiểu động cơ hoặc ít nhất cũng phải biết lái ô tô,
phải hiểu biết vô tuyến điện. Và tất nhiên HS,SV phải biết bắn trúng đích. Tất cả
những cái đó, hội Đơ-xáp sẽ huấn luyện cho bạn.
N.I.Nie-kra-xốp cho rằng, sự tham gia của HS,SV vào các tổ, các lớp huấn
luyện và các đội vận động viên của hội sẽ góp phần củng cố khả năng phịng thủ
đất nước, bởi vì càng có nhiều người trẻ thơng thạo một hoặc nhiều mơn qn sự
thực dụng bao nhiêu, thì cơng tác giáo dục quốc phòng phổ cập càng được nâng
cao bấy nhiêu. Theo tác giả, mỗi người dân Xô-Viết yêu nước, bất kỳ ở cương vị
nào đều cần thiết được chuẩn bị kỹ càng về QP,AN.
V.P.Êrêmin (1998), Những quan điểm phương pháp luận về xây dựng học

thuyết giáo dục quân sự ở Nga [170], tác giả nêu rõ mục đích giáo dục quốc phòng,
an ninh là: “Nhằm bồi dưỡng tinh thần yêu nước và tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy
sinh để bảo vệ nền độc lập của nước Nga cho mọi người dân” [170, tr.75]. Theo tác
giả, việc giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước ở Liên Bang Nga là một nội dung
cốt lõi được xác định trong học thuyết giáo dục quân sự ở Nga.
Tiểu Kính Dân, Lý Xương Giang, Vương Bảo Tôn (1999), Chiến lược phát
triển giáo dục quốc phòng ở Trung Quốc [61], các tác giả nhấn mạnh phải “coi
trọng giáo dục ý thức quốc phòng cho mọi người dân, coi đây là giải pháp hữu
hiệu để tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc” [61, tr.2]. Hiện nay trung Quốc
đang xây dựng lực lượng vũ trang theo mơ hình "tồn dân là lính”, nghĩa là tập
trung phát triển lực lượng bán quân sự, giảm đến mức thấp nhất sĩ quan và quân
nhân chuyên nghiệp thường trực. Thời bình lực lượng này sống trong dân, hằng
năm được định kỳ tập trung huấn luyện quân sự, an ninh. Công tác giáo dục
QP,AN ở Trung Quốc được triển khai từ rất sớm, ở các bậc học phổ thông học
sinh được học các nội dung về giáo dục QP,AN. Trong đó, nội dung giáo dục
QP,AN chủ yếu là giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc và ý thức làm


14

chủ được đặc biệt chú trọng. Đồng thời tăng cường luyện tập rèn luyện sức khoẻ,
tâm, sinh lý, thể chất cho HS,SV.
E.G.Vapilin, Q.Đ.Muliava (2001), Các vấn đề xã hội của giáo dục quân sự
[109], các tác giả cho rằng: “quan niệm quốc phịng được hiểu theo nghĩa rộng, đó
khơng chỉ lả lĩnh vực của quân đội và chính quyền nhà nước mà có liên quan đến
mọi cơng dân và mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước”[109, tr.45]. Qua đó chúng
ta thấy rằng công tác giáo dục QP,AN ở Liên Bang Nga được tổ chức có hệ thống
chặt chẽ, tồn diện, sâu sắc cho mọi đối tượng; chương trình, nội dung giáo dục
toàn diện, cân đối cả lý thuyết và thực hành về kỹ thuật, chiến thuật. Hệ thống
giáo dục QP,AN ở Liên Bang Nga được tổ chức toàn diện trong hệ thống giáo dục

quốc gia, tổ chức giáo dục QP,AN ở nhà trường trực thuộc Chính phủ, nhà trường
trực thuộc Bộ Giáo dục và một số nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng. Nội
dung giáo dục QP,AN bao quát trên nhiều lĩnh vực, tập trung vào các vấn đề:
chiến lược quốc phịng, chính sách quốc phịng, kinh tế qn sự, phát triển cơng
nghiệp quốc phịng; kỹ thuật, chiến thuật qn sự quốc phịng.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên nói chung, giảng viên giáo dục quốc phịng và an ninh nói riêng
David Kember và Lyn Gow (1992), Higher Education: Action research as
a form of staff development in higher education (Nghiên cứu hành động là một
loại hình phát triển ĐNGV đại học) [177]. Theo tác giả, để phát triển ĐNGV đại
học cần cố gắng cải thiện hoạt động giảng dạy của giảng viên, thông qua các hành
động lập kế hoạch; biên soạn đề cương chi tiết; tổ chức các mối quan hệ với sinh
viên và tài liệu học tập; sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học; đánh giá
kết quả học tập của sinh viên.
E.G.Vapilin, Muliava (1992), Các vấn đề xã hội của giáo dục quân sự
[167]. Trong cuốn sách, các tác giả đã phản ánh rõ nét những yêu cầu bức thiết
của việc nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên ở các nhà trường quân sự để thực
hiện tốt nhiệm vụ giáo dục QP&AN cho thế hệ trẻ ở Liên bang Nga trước sự vận
động, phát triển mau lẹ của tình hình quốc tế và đất nước Nga hiện nay.
Nguyễn Nghĩa (1999), “Giáo dục quốc phòng trong các nhà trường ở
Trung Quốc” [132]. Ở Trung Quốc, việc giáo dục ý thức QP&AN, bảo vệ đất


15

nước cho mọi tầng lớp nhân dân, cũng như HS,SV do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm.
Theo kế hoạch hàng năm của Chính phủ, từng trường đại học đưa sinh viên đến
các đơn vị quân đội để học GDQP với thời gian 2 tháng. Lúc này, các doanh trại
quân đội sẽ trở thành các trung tâm giáo dục QP&AN. Sinh viên được học kiến
thức về kĩ năng quân sự, tư tưởng quân sự, lịch sử quân sự, mưu lược quân sự.

Theo tác giả, ĐNGV giảng dạy những kiến thức về quốc phòng được tuyển chọn
tương đối chặt chẽ: Tuyển chọn những người được đào tạo chính quy, hiện đang là
giảng viên giảng dạy ở các học viện, trường đại học quân sự đảm nhiệm; và
những sĩ quan ở một số đơn vị quân đội, sau một thời gian được đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm quân sự ở các trường quân sự đảm nhiệm.
Dakar Seregal (2000), “Giáo dục đại học vào thế kỷ XXI - Tầm nhìn và
hành động”, Educational forum everyone (Diễn đàn châu Âu về tự do trong giáo
dục) [179]. Dakar Seregal chỉ rõ: “Một chính sách mạnh mẽ về phát triển đội ngũ
là yếu tố quan trọng đối với các trường đại học. Cần xây dựng các chính sách rõ
ràng liên quan đến giáo chức đại học, sao cho có thể cập nhật và nâng cao kĩ năng
của họ, khuyến khích sự cải tiến về chương trình đào tạo, phương pháp dạy và
học, và với một trình trạng tài chính và nghiệp vụ thích hợp, để đạt chất lượng cao
trong nghiên cứu và giảng dạy” [179, tr.16].
Masahiro Arimoto (2002), “Teacher Edu. Colleges at a Crossroad” [2]. Tác
giả cho rằng: Để nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên ở Nhật Bản cần phải
được thực hiện chặt chẽ từ khâu thành lập trường sư phạm cho đến sau khi sinh
viên tốt nghiệp ra trường. Trường đại học sư phạm ở Nhật Bản khi thành lập phải
được thông qua Ủy ban kiểm soát và Ủy ban kiểm tra để trình Bộ trưởng Bộ Giáo
dục xét duyệt. “Trên thực tế, việc mở khóa đào tạo sư phạm cần phải có sự chấp
nhận của Bộ Giáo dục thông qua kiểm định đào tạo và sau đó tiếp tục được kiểm
định theo định kỳ 7 năm 1 lần thông qua 3 cơ quan là Hiệp hội đại học Nhật Bản,
Viện Đánh giá giáo dục Nhật Bản, Tổ chức Giáo dục quốc gia về đánh giá và văn
bằng đại học” [2, tr.88]. Sinh viên tốt nghiệp phải qua kiểm tra của Hội đồng cấp
tỉnh để được cấp chứng chỉ giảng viên.
Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quang Diệu (2008),Tôn trọng tri thức, tôn trọng
nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước [110], các tác giả đã phân tích sâu


16


sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở Trung
Quốc trong thời kỳ mới, trong đó tri thức được đề cao. Theo đó, để xây dựng
thành cơng CNXH mang mầu sắc Trung Quốc, thì Đảng phải chọn nguồn và đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ “tài, đức vẹn toàn”, trung thành vì sự nghiệp cách
mạng. Vì vậy, chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải toàn diện, cả
phẩm chất và năng lực, trước hết là phẩm chất chính trị, kiên trì con đường XHCN
và có năng lực chuyên môn nghiệp vụ giỏi. Muốn đạt được mục tiêu đó, trước hết
cần phải có những người thầy thơng thái, tinh thông về lý luận, nhuần nhuyễn về
thực tiễn và phải trên nền tảng của một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Các tác giả
khẳng định: “Chúng ta cần xây dựng một đội ngũ cán bộ kiên trì con đường
XHCN, có tri thức và năng lực chun mơn, phải tích cực bồi dưỡng để có những
chun gia kỹ thuật hàng đầu thế giới” [110, tr.146].
Todd Whitaker, Beth Whitaker, Teaching Matters (2008), Motivating &
Inspiring Teachers: The Educational Leader's Guide for Building Staff Morale
(Giảng viên biết tạo động lực và gây cảm hứng: Hướng dẫn nhà lãnh đạo giáo dục
xây dựng tinh thần nhân viên) [180]. Trong cuốn sách, các tác giả đã làm rõ các
chiến lược để ĐNGV không chỉ nâng cao trình độ kiến thức cho người học mà
quan trọng hơn là phải chú trọng tạo động lực tinh thần, duy trì và thúc đẩy sự
năng động, sáng tạo, truyền cảm hứng cho các học viên. Các gợi ý này có thể giúp
các nhà giáo dục tiếp cận cơng việc mỗi ngày trong một trạng thái nhiệt tình, tập
trung, tích cực và có chất lượng, hiệu quả cao.
Hye Sook Kim (2009), “Hướng tới việc đào tạo chất lượng cao cho giảng
viên Hàn Quốc trước khi ra đứng lớp” [120]. Tác giả chỉ rõ, đối với quản lí q
trình đào tạo giảng viên, giáo viên các bậc học cần phải thực hiện quản lí theo hai
hình thức là theo quản lí thơng qua một chương trình thống nhất hoặc một phần
việc quản lí thực hiện thơng qua một chương trình khoa học đại cương và sau đó
là khóa học sau đại học giáo dục.
Đức Giang, Quốc Ân (2010), Giáo dục quốc phịng một số nước [108].
Cơng trình nghiên cứu việc đào tạo giảng viên GDQP ở một số nước như
Inđônêxia và Hàn Quốc được thực hiện theo hai mô hình riêng biệt. Thứ nhất,

từng trường đại học sẽ lựa chọn ĐNGV của trường mình, sau đó bồi dưỡng những


17

kiến thức chuyên sâu về các hoạt động quân sự ở các nhà trường quân sự. Thứ
hai, Bộ Quốc phòng sẽ lựa chọn những SQQĐ có năng lực chun mơn, năng
khiếu sư phạm để đưa đi bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ sư phạm. Trên cơ sở đó,
nhà nước sẽ đầu tư xây dựng các trung tâm GDQP cho HS,SV. Học sinh, sinh viên
sẽ được tập trung tại các trung tâm GDQP này để học GDQP với thời gian 3
tháng. Các học phần lí thuyết do giảng viên các trường đại học giảng dạy, các học
phần thực hành do SQQĐ giảng dạy.
1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan
đến đề tài luận án
1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác giáo dục quốc phịng và an
ninh, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh
Cục Nhà trường - Bộ Tổng tham mưu (1996), Giáo dục quốc phịng đối với
cán bộ cơng chức của Đảng, Nhà nước và đồn thể [58]. Đề tài đã đi sâu phân
tích làm rõ vai trò, đặc điểm, nguyên tắc đối với công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến
thức QP&AN cho cán bộ, cơng chức của Đảng, Nhà nước, đồn thể; đánh giá
thực trạng và rút ra một số kinh nghiệm, qua đó xác định phương hướng, yêu cầu
và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục QP&AN, tổ chức,
phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho ĐNCB các cấp của Đảng, Nhà
nước và đoàn thể.
Hồ Sĩ Luyến (2001), Tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng cho cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước và đồn thể [123]. Cơng trình đã
chỉ rõ tổ chức, phương pháp bồi dưỡng kiến thức QP,AN cho cán bộ các cấp của
Đảng, Nhà nước và đoàn thể bao gồm nhiều hoạt động nhằm giải quyết thống nhất
các khâu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hiệp đồng, điều hành và tổ chức thực hiện. Hình
thức bồi dưỡng kiến thức quốc phịng cho đối tượng này gồm ba nhóm chính

(nhóm các hình thức bồi dưỡng lý luận chính trị; nhóm các hình thức bồi dưỡng kĩ
năng, năng lực thực hành và nhóm các hình thức đánh giá kết quả bồi dưỡng).
Phạm Xuân Hảo (2002), Giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên
đại học hiện nay [113]. Đề tài đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn
đề nghiên cứu; trong đó đã đi sâu làm rõ một số quan niệm về GDQP cho sinh
viên; chỉ rõ vị trí, vai trị, đặc điểm, xác định tiêu chí và những vấn đề có tính


18

nguyên tắc trong GDQP cho đối tượng này. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề tài
xác định rõ phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng GDQP cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Hà Văn Công (2004), Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy
giáo dục quốc phòng trong các trường đại học, cao đẳng [57]. Tác giả đã phân
tích những vấn đề liên quan đến giáo dục QP&AN cho sinh viên ở các trường đại
học, cao đẳng như đặc điểm, mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy
học. Đồng thời, khẳng định việc đảm bảo tốt ĐNGV cho giáo dục QP&AN ở các
trường đại học, cao đẳng được coi là nhân tố quan trọng mang tính quyết định đến
nâng cao chất lượng giáo dục QP&AN cho sinh viên hiện nay.
Lê Minh Vụ (2006), Đổi mới giáo dục quốc phòng và an ninh trong hệ
thống giáo dục quốc gia [169]. Trên cơ sở phân tích, làm rõ các quan niệm về
quốc phòng, GDQP trong hệ thống giáo dục quốc gia, đề tài đi sâu phân tích q
trình phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về quốc phòng và GDQP trong từng
giai đoạn cách mạng, nhất là trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đề tài khẳng định,
đổi mới GDQP là đổi mới toàn diện tất cả các nội dung, biện pháp cấu thành
GDQP, từ nhận thức đến hành động, nội dung, chương trình, phương pháp giáo
dục đến đánh giá kết quả; từ cơ chế tổ chức lãnh đạo, quản lý đến người dạy,
người học, điều kiện đảm bảo đến chế độ chính sách. Yêu cầu đổi mới GDQP
phải hợp lý, đồng bộ, thống nhất và phù hợp với đối tượng người học.

Lê Văn Nghệ (2009), Nghiên cứu đề xuất giải pháp đồng bộ hóa cơng tác
quốc phịng và an ninh ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay [129]. Tác giả
cơng trình đã phân tích sâu sắc những vấn đề liên quan đến giáo dục QP&AN cho
sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học, như đặc điểm, mục tiêu, chương trình,
nội dung, phương pháp dạy học. Đồng thời, tác giả cho rằng việc chăm lo xây
dựng ĐNGV giáo dục QP&AN ở các trường cao đẳng, đại học là nhân tố mang
tính quyết định đến nâng cao chất lượng giáo dục QP&AN cho sinh viên ở các
trường cao đẳng, đại học hiện nay.
Nguyễn Bá Dương (2009), Tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới giáo dục
quốc phịng trong tình hình hiện nay [66]. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định,
GDQP có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, củng cố nền


19

QPTD và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tác giả đã phân tích sự phát triển tư
duy lý luận của Đảng ta về công tác GDQP, đổi mới công tác GDQP trong suốt
chiều dài lịch sử, đặc biệt là trong q trình đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; đi sâu luận giải làm rõ tính tất yếu khách quan, nội dung,
yêu cầu và những vấn đề có tính quy luật đổi mới GDQP trong tình hình hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết, đánh giá thực tiễn, xác định rõ những yếu
tố tác động của tình hình thế giới, khu vực, trong nước đến công tác GDQP, tác
giả đề xuất hệ thống giải pháp hiện thực hoá tư duy lý luận của Đảng về đổi mới
GDQP trong tình hình hiện nay. Theo đó, phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác GDQP; đổi mới
mục tiêu, khung nội dung, chương trình và phương pháp mơn học GDQP; nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên và các lực lượng tham gia GDQP.
Phạm Gia Cư (2010), Nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng cho sinh
viên trên địa bàn Hà Nội giai đoạn hiện nay [59]. Đề tài khẳng định, trong giai đoạn
hiện nay, GDQP cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, thường xuyên và mang

tính cấp bách đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Thơng qua GDQP, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách con người mới XHCN, có đạo đức, có sức khoẻ;
đồng thời hình thành ở họ ý thức, tri thức về quốc phòng, kĩ năng hoạt động quân sự
cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD, sẵn sàng tham gia
lực lượng vũ trang nhân dân để bảo vệ Tổ quốc [59, tr.13-14].
Nguyễn Văn Bạo (2013), Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đối tượng 2 tại Học viện Chính trị hiện
nay [7]. Đề tài đã phân tích làm rõ vị trí vai trị của cơng tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức QP&AN và những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng bồi
dưỡng kiến thức QP&AN cho đối tượng 2 ở Học viện Chính trị; đánh giá khái
qt tình hình thực tiễn về giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP&AN ở nước ta; thực
trạng bồi dưỡng, dự báo các yếu tố tác động đến công tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức QP&AN cho các đối tượng nói chung, bồi dưỡng kiến thức QP&AN
cho đối tượng 2 ở Học viện Chính trị. Tác giả khẳng định yêu cầu cấp thiết là phải
nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho đối tượng 2 ở Học viện
Chính trị; đồng thời đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính khả thi; tập trung


20

nâng cao nhận thức trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng; đổi mới nội dung,
chương trình và phương pháp bồi dưỡng; phát huy tính tích cực, chủ động tự bồi
dưỡng của người học là những giải pháp rất quan trọng, có tính đột phá nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho đối tượng 2 ở Học viện
Chính trị hiện nay.
Trần Hồng Hải (2013), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cơng tác giáo
dục quốc phịng cho học viên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng từ năm
2001 đến năm 2010 [111]. Tác giả đã khái quát những chủ trương, quan điểm lãnh
đạo của Đảng ta đối với công tác giáo dục QP&AN giai đoạn 2001 - 2010; rút ra 5
bài học kinh nghiệm về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP

cho SV ở các trường đại học, cao đẳng. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh:
“Phải ln chăm lo, coi trọng công tác xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên
GDQP cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng. Việc chăm lo, xây dựng phát
triển ĐNGV được tiến hành trên mọi mặt phẩm chất, năng lực, chế độ, chính sách,
bảo đảm người giáo viên phát triển tồn diện, phát huy tốt nhất khả năng trong
công tác. Đồng thời, phải chủ động, nắm bắt kịp thời yêu cầu, xu thế của thực tiễn,
từ đó khẩn trương đào tạo, bổ sung và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên, giảng
viên giảng dạy môn học giáo dục QP&AN” [111, tr.137].
Nguyễn Thiện Minh (2016), Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh
sinh viên là nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng nguồn lực phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [125]. Cơng trình đã
khái qt vị trí, vai trị của giáo dục QP&AN là một bộ phận của giáo dục quốc
dân, là một nội dung quan trọng trong củng cố, xây dựng nền QPTD, thế trận
QPTD gắn với thế trận ANND. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước. Bởi lẽ, HS,SV là người chủ tương lai của nước nhà, là nhân tố quan
trọng góp phần vào sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Tác giả nêu vị trí, vai
trị tầm quan trọng của công tác giáo dục QP&AN, chỉ ra những thành tựu, hạn
chế cơ bản và đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục
QP&AN trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tác giả khẳng định, giáo dục


21

QP&AN Góp phần hình thành nhân cách, tư duy nhận thức về QP,AN, trách
nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho HS,SV.
Nguyễn Viết Chiến (2017) Đảng bộ quân khu 1 lãnh đạo công tác giáo
dục quốc phòng và an ninh từ năm 2006 đến năm 2017 [40]. Trên cơ sở phân tích
các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ quân khu 1 đối với công tác giáo
dục QP&AN trong những năm 2006 -2015, tác giả đã đánh giá những ưu điểm,

hạn chế, nguyên nhân ưu điểm, hạn chế của quá trình lãnh đạo của Đảng bộ quân
khu 1 đối với công tác giáo dục QP&AN; tác giả rút ra một số kinh nghiệm đó là:
Thường xun làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao nhận thức và
trách nhiệm về giáo dục QP&AN cho mọi đối tượng trên địa bàn quân khu; Chủ
động triển khai chương trình, đổi mới nội dung, hinh thức tổ chức, phương pháp
giáo dục QP&AN phù hợp với từng đối tượng, sát thực tế địa bàn Quân khu; tập
trung xây dựng các trung tâm và đội ngũ cán bộ, giáo viên giáo dục QP&AN đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ; Phát huy sức mạnh tổng hợp, đổi mới cơ chế, chính sách
phù hợp thực tiễn, bảo đảm đẩy mạnh công tác giáo dục QP&AN; Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp
trong quân khu đối với công tác giáo dục QP&AN.
Vũ Minh (2017), Đổi mới giáo dục quốc phòng và an ninh cho các trường
đại học trong tình hình mới [126]. Cơng trình này khẳng định, Giáo dục QP&AN
có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng
với việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân vững
chắc, giáo dục QP&AN cịn thiết thực góp phần gắn các hoạt động xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội với QP,AN. Tác giả cho rằng, đổi mới giáo dục
QP&AN cho các trường đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc gia là nhiệm vụ rất
quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN của Đảng và Nhà nước
ta, góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển tồn diện, có đạo đức, sức khỏe, có ý
thức, tri thức và kỹ năng quân sự cần thiết nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
BVTQ trong tình hình mới.
Tác giả Vũ Minh đã đánh giá thực trạng, rút ra một số kinh nghiệm, xác
định yêu cầu và đề xuất các gải pháp tăng cường hiệu quả đổi mới giáo dục
QP&AN cho các trường đại học. Theo đó, phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo


22

của Đảng, Nhà nước đối với công tác đổi mới giáo dục QP&AN cho các trường

đại học trong tình hình mới; nâng cao chất lượng ĐNGV, cán bộ quản lý công tác
giáo dục QP&AN; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm đối với công tác giáo dục QP&AN; tăng cường đầu tư, bảo đảm cơ
sở vật chất đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục QP&AN cho
các trường đại học.
1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về đội ngũ giảng viên, nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên nói chung, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở
các trung tâm giáo dục quốc phịng và an ninh nói riêng
Phạm Thành Nghị (1993), Nghiên cứu việc bồi dưỡng cán bộ giảng viên
đại học và giáo viên dạy nghề [130]. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát thực
tiễn, tổng kết kinh nghiệm, tác giả đề xuất giải pháp bồi dưỡng cán bộ giảng dạy
và giáo viên dạy nghề gồm hình thức bồi dưỡng, kiểu chương trình và phương án
tổ chức. Các hình thức bồi dưỡng tập trung, bồi dưỡng không tập trung, bồi dưỡng
tại chỗ, bồi dưỡng từ xa. Tác giả chú trọng đến hoạt động đào tạo, tự đào tạo, bồi
dưỡng và coi đó là chiến lược của phát triển giáo dục.
Nguyễn Văn Huận (2003), Những giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên
giáo dục quốc phòng [119]. Tác giả khẳng định vị trí, vai trị ĐNGV là những
người quyết định đến chất lượng giáo dục QP&AN. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng ĐNGV làm nhiệm vụ giáo dục QP&AN những năm qua, đề tài đã xây dựng
06 nhóm giải pháp chủ yếu, trong đó xác định tạo nguồn giảng viên giáo dục
QP&AN cho các cơ sở GDĐH, cao đẳng là giải pháp quan trọng nhất nhằm phát
triển ĐNGV làm nhiệm vụ giáo dục QP&AN hiện nay.
Lê Đức Ngọc (2004), Giáo dục đại học - Quan điểm và giải pháp [133].
Khi đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng GD&ĐT trong các cơ sở GDĐH, cao
đẳng tác giả cho rằng: Có hai lý do chính làm cho vấn đề ĐNGV trở thành mối
quan tâm hàng đầu của các trường đại học, cao đẳng. Thứ nhất, trình độ của
ĐNGV quyết định chất lượng và khả năng của một trường về giảng dạy, nghiên
cứu và phục vụ xã hội trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ hai, chi phí lương và phụ
cấp cho đội ngũ này là khoản chi phí lớn nhất của mỗi trường đại học, cao đẳng,
nó gắn liền với vấn đề chất lượng, hiệu quả và hiệu suất đào tạo.



23

Đặng Đức Thắng (2005), Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội hiện nay [152]. Cuốn sách chỉ rõ để
nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn phải đặc biệt
chú trọng công tác tuyển chọn nguồn đào tạo. “Việc tuyển chọn nguồn đào tạo
giáo viên phải được tiến hành toàn diện, kỹ lưỡng cả về xu hướng nghề nghiệp sư
phạm, khả năng phát triển tài nghệ sư phạm, phong cách và hành vi sư phạm.
Cùng với việc tuyển chọn nguồn thì gắn chặt với quá trình sàng lọc, thải loại trong
đào tạo để bảo đảm chất lượng sản phẩm khi ra trường” [152, tr.56].
Trần Thị Tuyết Oanh (2007), “Đánh giá hoạt động của giảng viên và chất
lượng dạy học ở đại học” [148]. Tác giả đã chỉ ra những năng lực cơ bản cần có
của người giảng viên, đó là năng lực chuyên môn, năng lực xã hội, năng lực
phương pháp, năng lực tư duy và năng lực phát triển. Từ đó, để phát triển ĐNGV,
trước tiên phải phát triển những năng lực này ở người giảng viên.
Đoàn Thị Thanh Thủy (2008), “Tăng cường chất lượng đội ngũ giảng viên
đại học, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo” [153]. Tác giả đã khẳng
định sự cần thiết phải chuẩn hóa và phát triển ĐNGV đại học. Tác giả đã đưa ra 4
giải pháp để giải quyết vấn đề này, đó là xây dựng và chuẩn hóa ĐNGV đại học;
chú trọng thích đáng đến bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; nâng cao khả năng tự bồi
dưỡng của ĐNGV. Đồng thời, tác giả đưa ra yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy
học thành yêu cầu bắt buộc đối với tất cả giảng viên.
Trần Xuân Bách (2010), Đánh giá giảng viên đại học theo hướng chuẩn
hóa trong giai đoạn hiện nay [3]. Tác giả đã gắn việc phát triển ĐNGV với đánh
giá ĐNGV và xem đây là hai vấn đề then chốt của các cơ sở GDĐH hiện nay.
Theo đó, phát triển ĐNGV thực chất là phát triển nghề nghiệp của ĐNGV và sự
phát triển này phải trở thành nhiệm vụ có tính quy hoạch chặt chẽ, tồn diện và
đồng bộ của các cơ sở GDĐH.

Phan Xuân Dũng (2010), Những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
giảng viên, giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay
[63]. Đề tài đi sâu luận giải rõ chất lượng đào tạo giảng viên giáo dục QP&AN;
đánh giá thực trạng ưu điểm, hạn chế chất lượng đào tạo giảng viên giáo dục
QP&AN, chỉ ra nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm bước đầu nâng cao chất lượng
đào tạo giảng viên giáo dục QP&AN; trên cơ sở đó xác định yêu cầu và đề xuất


24

những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên giáo dục
QP&AN hiện nay.
Đinh Quang Báo (2011), “Vị trí của nghiên cứu xây dựng các chuẩn giáo
dục, chuẩn nghề nghiệp trong hoạt động của dự án phát triển giáo viên trung học
phổ thông và trung học chuyên nghiệp” [4]. Tác giả nhấn mạnh, một trong những
nhiệm vụ của trường sư phạm là phải trang bị cho sinh viên năng lực dạy học mà
năng lực này được hình thành từ nội dung của khoa học cơ bản và khoa học sư
phạm. Đây là vấn đề mà các trường (khoa) sư phạm cần quan tâm khi đào tạo, bồi
dưỡng ĐNGV bộ môn phương pháp giảng dạy.
Phạm Đỗ Nhật Tiến (2011), “Xây dựng nền tảng tri thức nghề nghiệp trong
đào tạo giáo viên ở Việt Nam” [156]. Tác giả cho rằng: Cần quan tâm đến việc
chuẩn hóa cả về cơ sở vật chất và đặc biệt là việc thiết lập chuẩn hóa giảng viên
trong đào tạo. Sẽ khơng cơng bằng và kém hiệu quả nếu người làm nhiệm vụ đào
tạo không phải tuân theo chuẩn nào trong khi đối tượng đào tạo chỉ được công
nhận tốt nghiệp khi đạt các yêu cầu về chuẩn.
Nguyễn Văn Đệ (2011), Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học
[104]. Tác giả đã đề xuất hệ giải pháp phát triển theo chức năng quản lý, tác động
đồng bộ vào các nhân tố, là chìa khóa khắc phục việc thiếu hụt giảng viên các
ngành, có tác dụng thực hiện nhiệm vụ đào tạo đáp ứng sự phát triển chung của xã

hội. Luận án đề xuất 5 nhóm giải pháp quản lý phát triển ĐNGV các trường đại
học vùng đồng bằng sông Cửu Long đáp ứng yêu cầu đổi mới GDĐH giai đoạn
hiện nay.
Thái Huy Bảo (2014), Phát triển đội ngũ giảng viên bộ môn phương pháp
giảng dạy trong các trường (khoa) đại học sư phạm [6]. Tác giả đã chỉ ra vai trị
của ĐNGV bộ mơn phương pháp giảng dạy là lực lượng giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Cơng trình cịn góp phần
làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về phát triển ĐNGV nói chung, ĐNGV bộ
môn phương pháp giảng dạy trong các trường sư phạm nói riêng. Đồng thời, đưa
ra được những đánh giá khách quan về thực trạng, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phát triển ĐNGV bộ môn phương pháp


25

giảng dạy trong các trường (khoa) sư phạm có cơ sở khoa học, có tính khả thi,
trong đó đặc biệt quan tâm đến phát triển các phẩm chất, năng lực đặc thù của
giảng viên bộ môn phương pháp giảng dạy.
Võ Thành Đạt (2014), Giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên các trường đại
học Công an nhân dân [103]. Luận án đã phân tích khá sâu sắc về thực trạng quản lý
ĐNGV các trường đại học Công an nhân dân, chỉ rõ thực trạng, xây dựng được 6 giải
pháp đề xuất mang tính tồn diện và có hệ thống cao, trong đó giải pháp đổi mới quy
hoạch và đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV là đột phá của ngành Công an nhân dân.
Vũ Thanh Xuân (2014), Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đào tạo
bồi dưỡng ở Bộ Nội vụ đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực ngành nội vụ hiện nay
[172]. Tác giả đã đề xuất áp dụng 7 giải pháp phát triển ĐNGV các trường đào
tạo, bồi dưỡng Bộ Nội vụ đáp ứng về số lượng, cơ cấu, chất lượng ĐNGV và yêu
cầu nguồn nhân lực ngành Nội vụ hiện nay.
Nguyễn Mỹ Loan (2014), Quản lý phát triển đội ngũ giảng viên trường
cao đẳng nghề đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực vùng đồng bằng sông Cửu

Long [121]. Luận án tập trung hệ thống hóa và xây dựng cơ sở lý luận về quản lý
phát triển ĐNGV ở các trường cao đẳng nghề theo hướng chuẩn hóa, xã hội hóa,
hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bùi Minh Hiền, Nguyễn Vũ Bích Hiền (2015), Quản lý và lãnh đạo nhà
trường [115]. Trong cuốn sách, các tác giả chỉ rõ yêu cầu chung về xây dựng và phát
triển đội ĐNGV trong một nhà trường phải đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu. Nhóm tác giả phân tích chức năng quản lý phát triển ĐNGV từ
việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra phải đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ
cấu của ĐNGV trong nhà trường là điều kiện cần phát triển, chú ý đến sự đồng thuận
của ĐNGV mới để tạo điều kiện đủ cho ĐNGV phát triển bền vững.
Nguyễn Thế Dân (2016), Phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học sư
phạm kỹ thuật theo hướng tiếp cận năng lực [60]. Tác giả đã xây dựng được khung
lý thuyết về phát triển ĐNGV các trường đại học sư phạm kỹ thuật theo tiếp cận năng
lực, hướng đến mục tiêu chuẩn hóa ĐNGV đáp ứng yêu cầu đổi mới chất lượng
GDĐH. Hệ thống các giải pháp mà tác giả đưa ra có ý nghĩa quan trọng trong quá


×