Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.24 KB, 120 trang )

đại học quốc gia hà nội
trờng đại học khoa học x hội và nhân văn

====&&&====

LUậN VĂN THạC Sĩ TRIếT HọC
Đề tài:

Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và
đào tạo ở nớc ta hiện nay

Giáo viên hớng dẫn

: TS Ngô Thị Phợng

Học viên

:

Lớp

:

Hà Nội, 8-2009

Trần Thị Nhẹn
K14- Cao học triÕt



MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn lịch sử nhân loại, nhất là trong thời đại ngày nay đã chứng minh:
trong tất cả các yếu tố tạo nên sự thành công của các nước, giáo dục và đào tạo là
một trong những yếu tố quan trọng nhất. Giáo dục và đào tạo chính là động lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội và phát huy nguồn lực con người của
mỗi quốc gia. Giáo dục và đào tạo còn trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ
học vấn, trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng lực thực tiễn của
những người lao động - lực lượng quyết định trực tiếp sự phát triển của lịch sử
loài người.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
chăm lo đến việc "trồng người'' vì lợi ích trăm năm của đất nước. Cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đảng xác định là quốc
sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng và nhân tố
quyết định thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhờ
đó, những năm qua ngành giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển mới,
góp phần quan trọng đưa Việt Nam vào đội ngũ các quốc gia đạt chuẩn xóa
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài ...
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển giáo dục và đào tạo, bên cạnh những
thành tựu, có một số vấn đề đang đặt ra: Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so
với yêu cầu; mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học, sách
giáo khoa, thi cử, cơ cấu đào tạo, trình độ quản lý có nhiều thiếu sót; trong giáo
dục - đào tạo có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại; chi phí học tập cao so
với thu nhập của người dân, nhất là của người nghèo. Đặc biệt là giáo dục và
đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đối với các dân tộc ít người cịn gặp rất


nhiều khó khăn, chưa có sự bình đẳng thực sự với dân tộc Kinh cũng như các
vùng đồng bằng, đô thị.
Chính vì vậy, văn kiện Hội nghị lần thứ bảy của Ban chấp hành trung

ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX đã nhận định: "Thực hiện chương
trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình giáo dục miền
núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo, nhất là hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp đẩy mạnh việc tổ chức các trường
mẫu giáo công lập, mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng hóa, phát triển
nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân tộc; đưa
chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú, tiếp tục thực hiện tốt
chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các
trường đại học và cao đẳng... Nghiên cứu tổ chức hệ thống trường chuyên
đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán bộ là người dân tộc thiểu số" [22, tr.38].
Trong một quốc gia đa tộc người, vấn đề "bình đẳng trong giáo dục và đào
tạo" giữa các vùng, giữa đồng bào dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, giữa thành
thị và nông thôn ngày càng gay gắt. Ở nước ta đã có những biểu hiện khơng
bình đẳng trong giáo dục và đào tạo về điều kiện, cơ hội học tập và nâng cao
trình độ giữa người giàu và người nghèo, giữa đồng bào dân tộc đa số và dân
tộc thiểu số.
Trong bối cảnh nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, khoảng cách
giữa các dân tộc, giữa các vùng lãnh thổ dân cư, giữa miền xuôi và miền núi,
giữa vùng thấp và vùng cao ngày càng rộng ra. Điều đó đã dẫn đến sự không
đồng đều trong phát triển giáo dục và đào tạo giữa các vùng này... Để thực
hiện nhất quán chính sách dân tộc với những nguyên tắc cơ bản là "bình đẳng,
đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển", Đảng và nhà nước cần phải đặc biệt
quan tâm đến sự phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền
núi, nhất là sự nghiệp giáo dục - đào tạo với mục tiêu: đào tạo nguồn nhân lực


và đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật cho vùng; khắc phục dần sự chênh lệch
trong phát triển về giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí cho đồng bào
các dân tộc; thực hiện cơng bằng, bình đẳng trong giáo dục và đào tạo... Để
thực hiện được những mục tiêu đó, việc đưa ra những chính sách ưu tiên cho

phát triển giáo dục - đào tạo miền núi của Đảng và Nhà nước ta là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa.
Để góp phần nghiên cứu và giải quyết vấn đề trên, tơi chọn vấn đề:
"Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay"
làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây ở nước ta có nhiều cơng trình nghiên cứu về
vấn đề bình đẳng dân tộc; vấn đề giáo dục và đào tạo với các góc độ và khía
cạnh khác nhau. Trong đó có nhiều cơng trình đã đề cập đến những khía cạnh
mà đề tài này cần quan tâm. Có thể xem xét các cơng trình đó qua hai nhóm
vấn đề sau:
Nhóm cơng trình về Giáo dục và Đào tạo, gồm:
- Trung tâm Thông tin - Bộ giáo dục và đào tạo (2000), Toàn cảnh
giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách cung cấp
một cách tổng quan những số liệu cụ thể về thành tựu và hạn chế trong giáo
dục - đào tạo của tất cả các tỉnh (thành) ở nước ta và những bài học kinh
nghiệm phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới.
- Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã trình bày quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, từ đó phân tích khái
qt tình hình giáo dục Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc và những thành tựu,
vai trò của giáo dục - Đào tạo trong công cuộc xây dựng đất nước từ khi Đảng


ta ra đời, đồng thời cung cấp cho người đọc những số liệu về thực trạng nền
giáo dục Việt Nam và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong thế kỷ
XXI. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển nền
giáo dục Việt Nam hiện nay.
- Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI:
chiến lược phát triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách bàn đến những vấn đề

chung về xây dựng chiến lược phát triển giáo dục, hiện trạng giáo dục Việt Nam.
Tác giả đã chỉ ra những thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong những
thập kỷ tới và đưa ra những mục tiêu, giải pháp chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam.
- Phạm Tất Dong (1993), "Giáo dục và đào tạo - nền tảng của chiến
lược con người", Tạp chí Cộng sản (3). Bài viết đưa ra một số ý kiến về vai
trò của giáo dục - đào tạo đối với chiến lược phát triển con người phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhóm cơng trình về dân tộc và bình đẳng dân tộc
- Trịnh Quốc Tuấn (chủ biên) (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn
sách, trên cơ sở trình bày những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc, đã phân tích thực trạng bình
đẳng giữa các dân tộc về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục - đào tạo và
đưa ra các phương hướng, giải pháp để thực hiện quyền bình đẳng giữa các
dân tộc ở nước ta, trong đó có bình đẳng về giáo dục - đào tạo.
- Nguyễn Quốc Phẩm - Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Tác giả đưa ra một số khái niệm về vấn đề dân tộc, trên cơ sở
đó trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam


hiện nay. Tác giả cuốn sách cũng đã đề cập đến quan hệ tộc người và văn
hóa, giáo dục, ngơn ngữ và bình đẳng dân tộc.
- Phạm Minh Thái (chủ biên) (2001), Nâng cao chất lượng đào tạo ở
các trường phổ thơng dân tộc nội trú, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Cuốn
sách tổng kết những thành tựu đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại ở
các trường phổ thông dân tộc nội trú nước ta từ năm 1991 đến năm 2000,
những bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát
triển giáo dục - đào tạo ở các trường phổ thông dân tộc nội trú trong thời

gian tới.
- Cuốn "Kỷ yếu hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện chế độ cử tuyển
1990 - 2005" do Bộ giáo dục và đào tạo biên soạn đã tổng kết lại những
thành tựu cũng như những hạn chế trong quá trình thực hiện chế độ cử
tuyển từ năm 1990 đến năm 2005, đưa ra những chủ trương giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng cử tuyển trong giáo dục ở những năm tiếp
theo.
- Bùi Thị Ngọc Diệp (2002), Một số vấn đề phát triển giáo dục miền
núi, vùng dân tộc thiểu số đến năm 2010, Luận văn tốt nghiệp lớp cao cấp
chính trị, Hà Nội. Tác giả nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta đối với vấn đề giáo dục. Trên
cơ sở đó, tác giả đã phân tích thực trạng giáo dục miền núi, vùng dân tộc
thiểu số ở nước ta và đề xuất một số phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp để
phát triển giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số đến năm 2010.
- Phạm Văn Dũng (2004), Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc
trong giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sĩ triết học. Tác giả nêu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo. Trên cơ sở đó, phân tích thực trạng việc thực hiện công bằng xã hội


giữa các dân tộc về giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc và đề
xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để thực hiện công bằng xã hội
giữa các dân tộc trong giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước
ta hiện nay.
Ngồi ra cịn nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu và các bài báo khác
viết về giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục và đào tạo ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số nói riêng. Các cơng trình đó đã phần nào gợi mở ra
một số vấn đề cần được nghiên cứu và giải đáp.
Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo
vẫn chưa được đề cập đến như là một cơng trình nghiên cứu độc lập, có hệ

thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Luận văn phân tích thực trạng việc thực hiện bình đẳng dân
tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực này ở nước ta
hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện
các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm dân tộc, bình đẳng, bình đẳng dân tộc
- Xác định nội dung và các yếu tố tác động đến bình đẳng dân tộc trên
lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta.
- Phân tích thực trạng bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào
tạo ở nước ta những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bình
đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề bình đẳng dân tộc trên
lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trong những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về bình đẳng dân tộc và giáo dục, đào tạo. Ngoài ra, luận văn cũng tham
khảo, tiếp thu một số kết quả của các cơng trình nghiên cứu trước về vấn đề này
trong những năm gần đây. Đặc biệt, luận văn thực hiện trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn thực hiện bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; chủ yếu

sử dụng phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp, lơgic và lịch sử, hệ
thống hóa. Ngồi ra, cịn kết hợp với một số phương pháp cụ thể của xã hội
học như thống kê, so sánh ...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Khái quát những nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực
giáo dục và đào tạo ở nước ta và thực trạng việc thực hiện bình đẳng dân tộc
trên lĩnh vực này ở nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả của việc thực
hiện bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của bình đẳng
dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy những vấn đề liên quan đến bình đẳng dân tộc cũng như các địa


phương giải quyết những vấn đề thực tiễn trong giáo dục và đào tạo ở nước
ta hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Nội dung chính của luận văn bao gồm 2 chương, 4 tiết.


NỘI DUNG
Chương 1
BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC TRÊN LĨNH VỰC
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA
1.1 Bình đẳng dân tộc và bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục
và đào tạo
1.1.1 Khái niệm dân tộc, bình đẳng dân tộc

Khái niệm dân tộc
Hiện nay, trong ngôn ngữ diễn đạt hay trong nhận thức, quan niệm
của chúng ta, khái niệm “dân tộc” được hiểu rất đa nghĩa, đa cấp độ.
Điều đó một phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ những quan
điểm, lập trường và góc độ khác nhau; phần khác, do hiện thực phong
phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu
vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó đưa đến nhiều định nghĩa
khơng hồn tồn giống nhau. Cho đến nay, chưa có định nghĩa nào diễn
đạt được đầy đủ, trọn vẹn thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất
hiện và đang tồn tại trên thế giới. Việc tìm kiếm một định nghĩa “dân
tộc” đang là đòi hỏi cấp bách của lý luận và thực tiễn.
“Dân tộc” theo từ gốc Latinh là “natio” có nguồn gốc từ chữ “nasei”
nghĩa là sinh ra. Mặc dù không được sử dụng đầy đủ ý nghĩa như ngày nay
nhưng từ cuối thời trung cổ khái niệm “dân tộc” đã được dùng rộng rãi ở
châu Âu. Nhiều nhà tư tưởng cách mạng tư sản châu Âu đã dùng khái niệm
“dân tộc” để chỉ cộng đồng nhân dân trong một quốc gia; khơng có vua và
q tộc trong cộng đồng này; những thị dân và đẳng cấp thứ ba được xem
như thành phần chủ yếu của dân tộc. Như vậy, trong giai đoạn đó, khái niệm


“dân tộc” chủ yếu mang nội dung giai cấp, chưa trở thành một khái niệm có
tính học thuật.
Đến thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVII - XVIII), các nhà tư tưởng tư sản
là những người đầu tiên đưa ra các định nghĩa học thuật về dân tộc. Theo
Điđơrô (nhà tư tưởng người Pháp) thì dân tộc là một số lượng đáng kể dân
chúng sống trên phạm vi đất nước nhất định và tuân theo sự cai trị của một
chính phủ. Nghĩa là, dân tộc gắn với quốc gia và bao hàm quan hệ chính trị
(quan hệ với nhà nước) chứ chưa đề cập đến quan hệ cộng đồng về kinh tế.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà lý luận tư sản lại phủ
nhận quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhấn mạnh yếu tố tinh thần và

yếu tố chủng tộc khi đề cập đến vấn đề “dân tộc”. So với các nhà tư tưởng
tư sản trước đây, các nhà tư tưởng tư sản thời kỳ này xem xét “dân tộc” ở
mức độ khái quát hơn. Tuy nhiên, trong những quan niệm của họ, “dân tộc”
chưa được quan niệm là hình thức cộng đồng người có tính lịch sử, họ chưa
thấy rõ cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành và tồn tại của các dân tộc.
Mác và Ăngghen không đưa ra định nghĩa cụ thể nào về dân tộc, mặc
dù các ông nghiên cứu khá sâu và có những quan điểm rất khoa học về
những nội dung cơ bản và có liên quan đến vấn đề dân tộc.
Năm 1913, trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc”, Xtalin
đưa ra định nghĩa: “Dân tộc là một hình thức cộng đồng người ổn định, bền
vững, hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử trên một lãnh
thổ nhất định, có chung các mối quan hệ về kinh tế, có chung một ngơn ngữ,
một nền văn hóa” [86, 357]. Định nghĩa này được coi là tương đối hoàn chỉnh
về “dân tộc”, đã chỉ ra được có 4 yếu tố cấu thành dân tộc, đó là ngơn ngữ,
lãnh thổ, kinh tế, văn hoá; chỉ cần thiếu một trong bốn yếu tố đó sẽ khơng
hình thành dân tộc. Nhưng Xtalin lại quá nhấn mạnh yếu tố kinh tế (cộng


đồng kinh tế), chưa coi trọng nhân tố tộc người và yếu tố văn hóa, bản sắc văn
hóa của dân tộc …
Ở nước ta, do nhu cầu bức xúc của vấn đề dân tộc và giải quyết các
vấn đề dân tộc, căn cứ vào những thành tựu khoa học ngày nay, đứng
trên quan điểm mácxít và dưới góc độ triết học chính trị, thì “dân tộc”
được hiểu là một cộng đồng xã hội ổn định có những đặc trưng cơ bản
sau:
+ Dân tộc là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, do đó là một cộng đồng ổn định.
+ Dân tộc là một cộng đồng người co chung một phương thức sinh
hoạt kinh tế.
+ Dân tộc là một cộng đồng người có chung một ngơn ngữ.

+ Dân tộc là một cộng đồng người có những nét tâm lý chung biểu
hiện trong bản sắc văn hóa.
Hiện nay có những quốc gia nhiều dân tộc, gọi là quốc gia đa dân
tộc, nhưng cũng có quốc gia chỉ có một dân tộc, gọi là quốc gia dân tộc
(Nhật Bản, Anh Quốc, Triều Tiên). Vì thế mà khái niệm dân tộc được
hiểu theo hai nghĩa (nghĩa hẹp và nghĩa rộng).
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp (tức là được hiểu theo nghĩa
tộc người - ethnic) là một cộng đồng người có chung nguồn gốc được hình
thành trong lịch sử, mang ba đặc trưng chủ yếu sau: cộng đồng về ngơn ngữ,
về văn hóa, về ý thức tự giác tộc người. Trong quốc gia đa dân tộc, nhiều khi
những đặc trưng trên cũng mang tính đặc thù và thường xuất hiện những dân
tộc có dân cư đơng gọi là dân tộc đa số; cịn dân tộc ít dân cư hơn gọi là dân
tộc thiểu số. Vì vậy, dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số đều được gọi là dân


tộc. Theo nghĩa này ở Việt Nam có dân tộc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc
Mường, dân tộc Thái…
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa rộng (tương ứng với quốc gia,
đất nước - nation) khái niệm này dùng để chỉ một cộng đồng chính trị - xã
hội, bao gồm tất cả các thành phần dân tộc đa số hay thiểu số sinh sống
trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Dân tộc theo nghĩa
này, có dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Đức… V.I.Lênin trong
nhiều tác phẩm của mình đã dùng thuật ngữ dân tộc theo nghĩa này để chỉ
một cộng đồng xuất hiện cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, được
hiểu là cộng đồng quốc gia dân tộc tương ứng với thuật ngữ dân tộc. Tuy
nhiên, khi xuất hiện các quốc gia dân tộc thì V.I.Lênin lại dùng thuật ngữ
quốc gia đa dân tộc. Do đó thường gây sự nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này.
Vì vậy, ở đây cần có sự thống nhất, dân tộc được hiểu theo hai nghĩa: dân
tộc với tư cách là một cộng đồng quốc gia và dân tộc với tư cách một cộng
đồng tộc người.

Mặc dù, khái niệm “dân tộc” được hiểu theo hai nghĩa như vậy, nhưng
chúng ln gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, nhân tố chính trị - xã hội
dường như cùng xuất hiện và cùng phát triển với nhân tố tộc người trong
một tiến trình thống nhất dẫn tới sự hình thành dân tộc. Sự phát triển và hịa
quyện giữa hai nhân tố đó được ghi nhận sâu sắc trong ý thức của dân cư
dân tộc về sự gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với cộng đồng dân
tộc, đồng thời với nhà nước, cộng đồng quốc gia.
Nhận thức được điều đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi hoạch
định và thực hiện mọi chính sách chung của quốc gia, cần chú ý đến tính
đặc thù của các dân tộc, hơn nữa cần có chính sách riêng bổ sung vào các
chính sách chung nhằm đáp ứng địi hỏi chính đáng mang tính đặc thù của
từng dân tộc. Chính sách đó nhằm củng cố và phát triển nền kinh tế thống


nhất nhưng đa dạng, trong đó tiềm năng của từng dân tộc được phát huy
đầy đủ, có khả năng liên kết các thành viên, các bộ phận của dân tộc trong
một quốc gia thành một khối thống nhất và trở thành hiện thân của sự đoàn
kết giữa các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau,
xây dựng và phát triển nền văn hóa trong đó mọi giá trị văn hóa của từng
tộc người được giữ gìn và phát huy trong xu thế giao lưu, hội nhập các giá
trị văn hóa các dân tộc để hình thành nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, “dân tộc” được sử dụng theo
nghĩa dân tộc - tộc người.
Khái niệm bình đẳng dân tộc
Bình đẳng (éganlité trong tiếng Pháp, equality trong tiếng Anh) là một
phạm trù chính trị - xã hội, đều có nghĩa là sự bằng nhau, sự ngang nhau giữa
các cá nhân hay nhóm xã hội về một hay một số phương diện xã hội nhất định
(chẳng hạn sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm xã hội về
những quyền và nghĩa vụ cơng dân, về địa vị xã hội, về cơ hội, về mức độ thỏa

mãn những nhu cầu nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội…)
Theo nghĩa này, bình đẳng (hay bình đẳng xã hội) là sự giống nhau
nhưng lại là hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ thể (xuất phát điểm của từng
người, từng đơn vị tham gia trong xã hội là khác nhau, khả năng của mọi
người cũng khác nhau nên cùng một cơ hội có người sẽ tận dụng tốt để tạo
ra hiệu quả cao, nhưng sẽ có người khơng có năng lực để tận dụng cơ hội
đó) và nó khác với chủ nghĩa bình qn là sự giống nhau một cách máy
móc, thuần túy áp dụng một tiêu chuẩn như nhau cho những con người,
cộng đồng người vốn dĩ khác nhau. Đồng thời nó cũng khác với cơng bằng
xã hội - đó là sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương


diện hoàn toàn xác định: quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống
hiến và hưởng thụ (cống hiến ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau).
Như vậy, cơng bằng xã hội thực chất là biểu hiện cụ thể của bình đẳng xã
hội, thực hiện cơng bằng xã hội là góp phần thực hiện bình đẳng xã hội.
Trong thời gian gần đây, các nhà xã hội học thường nói đến hai loại bình
đẳng: bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về hưởng thụ. Bình đẳng về cơ hội thể
hiện quyền của các cá nhân, nhóm xã hội được tiếp cận ngang nhau với những
điều kiện do xã hội tạo ra (như bình đẳng về những điều kiện tham dự vào q
trình giáo dục, đào tạo để có được một trình độ văn hóa, nghề nghiệp nhất định,
bình đẳng trong quan hệ với tư liệu sản xuất…) để mọi người có thể tham gia
một cách tốt nhất vào lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ xã hội và vào các
hoạt động phong phú khác của xã hội. Bình đẳng về hưởng thụ là sự ngang bằng
nhau giữa các cá nhân hay nhóm xã hội trong việc hưởng thụ những của cải vật
chất và tinh thần đã được xã hội tạo ra. Bình đẳng về cơ hội là điều kiện để có
bình đẳng về hưởng thụ.
Như vậy, việc tìm hiểu rõ khái niệm "bình đẳng" (bình đẳng xã hội) là có ý
nghĩa quan trọng đối với chúng ta trong cách tiếp cận khái niệm "bình đẳng dân

tộc".
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng bình đẳng dân tộc là quyền
ngang nhau giữa các dân tộc, khơng phân biệt đó là dân tộc lớn hay dân tộc
nhỏ, khơng phân biệt trình độ phát triển, màu da, chủng tộc. Quyền bình
đẳng giữa các dân tộc là một yếu tố khách quan và vô cùng cần thiết giống
như quyền bình đẳng giữa các cá nhân. Quyền bình đẳng dân tộc phải được
thể hiện đầy đủ trên mọi lĩnh vực, phải được ghi nhận về pháp lý và thực
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo các ơng, bình đẳng dân
tộc về thực chất là xóa bỏ tình trạng người bóc lột người để từ đó xóa bỏ
tình trạng dân tộc này có đặc quyền, đặc lợi so với dân tộc khác, dân tộc


này đi áp bức dân tộc khác: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị bãi bỏ” và “khi mà sự
đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù
địch cũng đồng thời mất theo” [6, 624]. Chính vì vậy các ơng xem việc giải
quyết vấn đề bình đẳng dân tộc như một bộ phận không thể thiếu được
trong cương lĩnh cách mạng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung.
Việc thực hiện bình đẳng xã hội nói chung là mục tiêu bao trùm, do đó có ý
nghĩa quyết định với bình đẳng dân tộc, là một trong những nhân tố thúc
đẩy bình đẳng xã hội. Khơng xóa bỏ bất bình đẳng giữa người với người thì
cũng khơng xóa bỏ được bất bình đẳng dân tộc và khơng xóa bỏ bất bình
đẳng dân tộc thì cũng khơng có bình đẳng xã hội.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bình đẳng dân tộc
trước hết là thủ tiêu tình trạng giai cấp này áp bức giai cấp khác để trên cơ sở
đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác. Tiếp theo đó phải từng
bước khắc phục tình trạng chênh lệch trong sự phát triển của các dân tộc, tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc cịn ở trình độ lạc hậu, bằng sự nỗ lực của
chính mình và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em phát triển nhanh trên con
đường tiến bộ. Theo các ơng chỉ có bình đẳng của giai cấp vơ sản mới làm

được điều đó vì nội dung u sách bình đẳng vơ sản (xóa bỏ bản thân giai
cấp) cao hơn nội dung yêu sách bình đẳng tư sản (xóa bỏ đặc quyền giai cấp).
Xóa bỏ giai cấp là xóa bỏ tận gốc sự bất bình đẳng và bất cơng lớn nhất đã
từng tồn tại hàng ngàn năm lịch sử, tạo điều kiện để phát triển bình đẳng xã
hội lên một bước mới.
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gô-Ta, để đấu tranh chống lại
quan điểm trừu tượng về bình đẳng của Lát-xan, C.Mác và Ph. Ăngghen cho
rằng bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội gắn liền với việc xóa bỏ giai cấp bóc
lột khơng có nghĩa là xã hội có bình đẳng hồn tồn vì trong xã hội khơng


phải mọi người đều bình đẳng với nhau về cơ hội phát triển mà còn tồn tại
rất nhiều sự khác biệt như về nguồn gốc xuất thân, về địa vị xã hội, về năng
khiếu cá nhân, về năng lực lao động….Do vậy, trên thực tế, với một công
việc ngang nhau vẫn cịn tình trạng người này lĩnh hơn người kia và từ đó có
nguời này giàu hơn người kia. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng sự
bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội vẫn phải chấp nhận tình trạng bất công
nhất định giữa các thành viên trong xã hội.
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin về bình đẳng dân tộc, với sự hiểu biết sâu sắc tình hình các dân tộc
trên thế giới, các dân tộc phương Đông và nhất là các dân tộc anh em ở
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đề ra và thực hiện
chính sách dân tộc, coi vấn đề dân tộc có tầm quan trọng chiến lược. Khi
nói về vấn đề dân tộc, Người luôn nhắc đến ba nguyên tắc cơ bản “đồn
kết, bình đẳng, tương trợ”. Trong đó, đồn kết dân tộc là điểm xuất phát và
là mục tiêu cần đạt. Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc và là cơ sở để đạt
được đoàn kết lâu dài, bền vững. Tương trợ là điều kiện để đoàn kết thiết
thực đồng thời thúc đẩy bình đẳng dân tộc về mọi mặt.
Theo tư tưởng của Người, đoàn kết là một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi cách mạng, là chiến lược huy động, tập hợp lực lượng để

giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng thành công xã hội mới. Tư tưởng này
thể hiện trong khẩu hiệu có ý nghĩa như là một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Người luôn khẳng
định “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt
Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng, cùng dân
tộc Việt Nam, tất cả đều như anh em trong một nhà, khơng cịn có sự phân
chia nịi giống, tiếng nói gì nữa” [44, 110].


Để thực hiện quyền bình đẳng một cách đầy đủ, Người ln giáo dục và
khuyến khích các dân tộc thiểu số cần phải hết sức phấn đấu nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa, phải giác ngộ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, dần
từng bước xóa bỏ sự chênh lệch giữa các dân tộc, giữa các vùng. Cơ sở vững
chắc cho sự bình đẳng trước hết là sự phát triển mạnh mẽ đồng đều về kinh
tế trên khắp các vùng dân tộc. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng
viên phải tôn trọng và tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân
các dân tộc. Người khẳng định rằng, nước ta là một nước thống nhất gồm
nhiều dân tộc, các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ.
Tương trợ, giúp nhau cùng phát triển là một tất yếu khách quan trong
quan hệ giữa các dân tộc. Tuyên bố quyền bình đẳng về mặt pháp lý, và
việc thực hiện quyền bình đẳng trên thực tế cịn có một khoảng cách, bởi
điều kiện và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của các dân tộc không đồng
đều. Sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc bao hàm cả việc các
dân tộc đa số có trình độ phát triển cao hơn giúp đỡ các dân tộc thiểu số
chậm phát triển.
Trong nhiều bài viết, bài nói chuyện, Người luôn khẳng định tinh thần
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Trong bài nói chuyện với đồng bào và
cán bộ tỉnh Cao Bằng ngày 23 tháng 2 năm 1961, Người nhắc nhở: “Đồng
bào tất cả các dân tộc không phân biệt lớn nhỏ phải thương yêu, giúp đỡ lẫn

nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để cùng nhau xây dựng
tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân tộc được
hạnh phúc, ấm no” [48, 282].
Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu, ngày
19 tháng 4 năm 1946, Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số


khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết
có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Ngày nay, nước Việt
Nam là nước chung của chúng ta” [44, 217].
Trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc được Đảng và Nhà nước ta xác định
ngay từ khi mới thành lập. Trải qua các giai đoạn lịch sử, nguyên tắc này
tiếp tục được quán triệt và thực hiện nhằm từng bước khắc phục sự khác
biệt về mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc làm cho
lý tưởng bình đẳng dân tộc ngày càng được hiện thực hóa một cách đầy đủ
hơn.
Quan điểm của Đảng ta về bình đẳng dân tộc được thể hiện cụ thể ở
một số điểm cơ bản như sau:
Một là, bình đẳng dân tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn xác định giải
quyết vấn đề dân tộc, thực hiện bình đẳng dân tộc là nhiệm vụ chiến lược
cách mạng Việt Nam. Bình đẳng dân tộc được ghi nhận trong các văn bản
quan trọng của Đảng, là nội dung cốt lõi nhất trong chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
Đảng ta luôn quan tâm đến chính sách đồn kết, tương trợ trên ngun tắc
bình đẳng giữa các dân tộc, do đó đã giành được thắng lợi to lớn đem lại
nền độc lập, tự do cho đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội lần
thứ VI của Đảng đã thể hiện tinh thần đổi mới tư duy lý luận về vấn đề

dân tộc, về giải quyết các quan hệ dân tộc nhằm thực hiện bình đẳng giữa
các dân tộc, Đảng ta khẳng định: “Trong việc phát triển kinh tế - xã hội, ở
những nơi có đồng bào dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách
dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh
thần đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau, cùng làm chủ tập thể, kết hợp


phát triển kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời
sống con người, kể cả những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ” [12,
97].
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội” năm 1991, Đảng ta chỉ rõ nội dung của vấn đề dân tộc cần giải quyết
là: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn
bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng
lợi ích, truyền thống văn hóa, ngơn ngữ, tập qn, tín ngưỡng của các dân tộc,
chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc”
[14,16].
Các Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Đại hội IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tầm quan trọng chiến lược của vấn
đề dân tộc và những nội dung bao trùm mang tính nguyên tắc cũng như những
nội dung cụ thể của chính sách dân tộc, đại đồn kết dân tộc nhằm thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đặc biệt, tại Nghị quyết Trung ương 7 (lần
2) khóa IX trên cơ sở nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và trong nước cũng
như tầm quan trọng của công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ,
Đảng ta chỉ rõ: “các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc” và “phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an

ninh, quốc phịng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc, quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu
số, giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc


thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam
thống nhất” [23,77].
Hai là, thực hiện bình đẳng dân tộc là góp phần quan trọng trong việc
thực hiện bình đẳng xã hội. Thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay
thực chất là khắc phục tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống. Do đó, giải quyết vấn đề bình đẳng
dân tộc như là một bộ phận khơng thể thiếu trong chính sách dân tộc của
Đảng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Việc thực hiện bình đẳng
xã hội nói chung là mục tiêu bao trùm, do đó có ý nghĩa quyết định việc thực
hiện bình đẳng dân tộc; ngược lại, việc thực hiện bình đẳng dân tộc sẽ góp
phần thực hiện bình đẳng xã hội, là một trong những nhân tố thúc đẩy bình
đẳng xã hội. Nói đến bình đẳng xã hội là nói đến sự ngang bằng nhau giữa
người với người về một hoặc một số phương diện xã hội nào đó, chẳng hạn về
kinh tế, chính trị, văn hóa… Do đó, khơng xóa bỏ bất bình đẳng giữa người
với người về các phương diện xã hội thì bất bình đẳng về dân tộc khơng bao
giờ được xóa bỏ. Ngược lại, khơng xóa bỏ bất bình đẳng về dân tộc thì việc
xóa bỏ bất bình đẳng về xã hội khơng bao giờ được thực hiện triệt để, đầy đủ.
Bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực hiện từng bước trong tiến trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa trong mỗi dân tộc, quốc gia dưới sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân nhằm cải tạo xã hội một cách tồn diện, triệt để.
Ba là, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trước hết phải phát huy nội lực,
tinh thần tự lực tự cường của mỗi dân tộc, đồng thời tăng cường sự đoàn kết,
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Chủ trương đồn kết, bình đẳng,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no,

hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc, bảo
đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm
giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


nước ln là chính sách nhất qn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh
đạo. Nhận thức rõ vị trí, vai trị của các dân tộc thiểu số trong cách mạng Việt
Nam là để khơi dậy tiềm năng của các dân tộc, vượt qua mọi khó khăn thử thách
để kiên trì tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là con đường để thực
hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những tiền đề cần
thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc đa số (dân tộc Kinh), đưa miền núi tiến
kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đoàn kết, giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, bình đẳng dân tộc thực sự ở nước ta phải là bình đẳng trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống. Trên lĩnh vực chính trị, các dân tộc khơng
phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số có quyền trở thành những thành viên
của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng bào các dân tộc thiểu số
cũng như đa số đều có quyền làm chủ, có đầy đủ các quyền lợi và nghĩa
vụ cơng dân, bình đẳng trước pháp luật, có quyền lợi và trách nhiệm xây
dựng thể chế chính trị mới, phát huy vai trị của hệ hống chính trị ở các
vùng dân tộc thiểu số, khơng ngừng nâng cao ý thức chính trị và văn hóa
chính trị cho đồng bào các dân tộc. Trên lĩnh vực kinh tế, các dân tộc
không phân biệt đa số hay thiểu số đều là các chủ thể để xây dựng nền
kinh tế mới xã hội chủ nghĩa, được làm chủ trong việc sử dụng các tư liệu
sản xuất chủ yếu, được phát huy những điều kiện, những nguồn lực phát
triển kinh tế của mình; các dân tộc kém phát triển được giúp đỡ, được hợp
tác liên kết với các dân tộc khác để phát triển kinh tế, khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc. Thành viên trong các

dân tộc có cơ hội giúp nhau trong việc tìm kiếm việc làm, trong nâng cao
trình độ tay nghề, kỹ năng lao động. Những người lao động của các dân


tộc khác nhau được hưởng lợi ích kinh tế trên cơ sở đóng góp cơng sức
lao động của mình. Đặc biệt, các dân tộc kém phát triển về mặt kinh tế, có
nguồn lực kinh tế ít ỏi được ưu tiên quan tâm giúp đỡ để phát triển kinh
tế. Trên lĩnh vực xã hội, Đảng ta ln coi bình đẳng về mặt xã hội giữa
các dân tộc là một vấn đề cấp bách quan trọng. Đảng chủ trương các dân
tộc đều được học tập, không hạn chế về mặt thời gian lẫn cấp học, các dân
tộc có quyền lựa chọn học tập bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
hay dân tộc khác hoặc ngôn ngữ phổ thông; các thành viên của các dân
tộc đều được chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, tiếp cận với những điều kiện
để phát triển thân thể, cải thiện giống nịi; đều được khuyến khích giúp đỡ
giữ gìn mơi trường, có được khu dân cư văn minh; mặt khác, các dân tộc
có trình độ dân trí thấp, sức khỏe kém, mơi trường sống bị phá hủy được
các dân tộc khác giúp đỡ phát triển đồng đều hơn.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta, có thể quan niệm về bình đẳng dân tộc như sau: Bình đẳng dân
tộc là một mặt của bình đẳng xã hội, đó là sự ngang nhau về nghĩa vụ và
quyền lợi, về cơ hội và điều kiện phát triển giữa các dân tộc trong một quốc
gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội không phân biệt đa số hay thiểu số, sắc tộc hay chủng tộc, lớn hay
nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, chế độ kinh tế, chính trị khác nhau.
Trong giới hạn của luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập tới vấn đề bình
đẳng dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc và trên lĩnh vực giáo dục và đào
tạo. Vì vậy, khi nói tới bình đẳng dân tộc ở Việt Nam là nói đến bình đẳng
giữa các dân tộc - tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và những biểu
hiện khác nhau của nội dung bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào
tạo.



1.1.2 Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội.
Nó khơng chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực thúc
đẩy sự phát triển xã hội. Giáo dục và đào tạo có vai trị quyết định đến việc
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài của quốc gia dân tộc.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin khơng trực tiếp nói đến vấn đề
bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, song thông qua
những quan điểm của các ông về xây dựng nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa, có thể thấy được những tư tưởng bình đẳng và cơng bằng xã hội
trong giáo dục đối với tất cả mọi người, khơng có sự phân biệt đối xử
giữa các nhóm người, giữa các dân tộc trong một quốc gia dân tộc. Ngay
trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" - cương lĩnh chính trị
đầu tiên của giai cấp cơng nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định
mục đích lớn nhất và duy nhất của những người cộng sản chính là: "xóa
bỏ chế độ tư hữu", giải phóng nhân loại, dân tộc và con người khỏi mọi
áp bức, bóc lột, bất công, tiến tới xây dựng xã hội thành một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người. Muốn đạt được mục tiêu đó, phải tiến hành
cách mạng vơ sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng được chế độ chuyên chính vô
sản nhằm tạo ra một phương thức sản xuất mới. Sau khi nắm được chính
quyền, giai cấp cơng nhân phải tiến hành một hệ thống biện pháp để thiết
lập một phương thức sản xuất mới, tức là xây dựng một xã hội mới - xã
hội phải thực hiện giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ
em; xóa bỏ việc dùng trẻ em làm trong các cơng xưởng như hiện nay; kết
hợp giáo dục với sản xuất vật chất; thực hiện phổ cập giáo dục cho tất cả
mọi người dân. Đó là một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, một nền giáo



×